Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KINH TẾ VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG<br />
CỦA NGƯỜI VIỆT TRÊN VÙNG ĐẤT AN KHÊ (GIA LAI)<br />
? Nguyễn Thị Kim Vân *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
A<br />
n Khê là vùng đất phía đông của<br />
tỉnh Gia Lai, là cửa ngõ, nấc thang<br />
quan trọng nối đồng bằng Bình<br />
Định với các cao nguyên phía tây<br />
của Tổ quốc. Trên vùng đất này, từ thế kỷ XVII đã có<br />
những người Việt đầu tiên lên sinh sống. Bộ phận dân<br />
cư này cũng được xác định là những lưu dân Việt lập<br />
nghiệp sớm nhất trên vùng đất Bắc Tây Nguyên. Hơn<br />
ba thế kỷ qua, việc kế thừa, bảo lưu những nét văn<br />
hóa từ quê cũ cộng với sự giao thoa và tiếp biến với<br />
cư dân Bahnar tại chỗ đã làm cho bộ phận người Việt<br />
ở An Khê định hình những nét văn hóa truyền thống<br />
độc đáo riêng trên vùng mà những người đồng tộc<br />
của họ vẫn coi là miền lắm “sơn lam chướng khí”. Trong làng các ngôi nhà thường nằm không xa để<br />
Cũng như trên những vùng đất mới khai phá ở bà con có thể tương trợ nhau, nhất là để hỗ trợ cùng<br />
phía nam, làng xóm của người Việt ở An Khê ban đầu chống kẻ thù và thú dữ. Đến thập niên 30 của thế kỷ<br />
thường rất nhỏ. Những nơi được xác định là xóm ấp XX, nhà cửa và cách thức làm nhà của người Việt ở<br />
đầu tiên ở An Khê như Tây Sơn Nhì (nay là vùng Cửu vùng Bắc Tây Nguyên nói chung vẫn được Nguyễn<br />
An), Tây Sơn Nhất (sau này là An Lũy, nay là phường Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi mô tả: “Nhà cửa thường<br />
Tây Sơn) ban đầu mỗi xóm cũng chỉ khoảng trên dưới được làm bằng gỗ, mái nhà lợp ngói. Tường trét đất<br />
10 nóc nhà. Tên của các xóm thường được gọi theo theo lối Nhật Bản bằng cách: rơm trộn với đất sét đâm<br />
tên một loại cây cổ thụ trong vùng hoặc đặc điểm của cho nhuyễn, đem trét vào vách đã có cột song gỗ, rồi để<br />
vùng. Ví dụ, ở thôn An Điền (xã Cửu An), những cư như vậy cho thật khô. Chừng bảy ngày sau lấy một thứ<br />
dân đầu tiên sống thành các xóm: xóm Cây Me, xóm đất sét trắng, trộn với cát - một phần đất, ba phần cát<br />
Gò Cây Bền1… sau này, do những người mới đến xin - trét mặt ngoài làm áo; sau hòa đất trắng khuấy cho<br />
nhập cư, cùng sự phát triển của các thế hệ con cháu lỏng mà quét như ở dưới ta quét vôi”.3<br />
đã làm cho các làng xã trên vùng đất An Khê trở nên Nhà ở truyền thống của vùng An Khê thường là<br />
đông đúc. Tuy nhiên, đến năm 1945, cả làng An Điền nhà trệt, mái tranh, vách thưng tre nứa hoặc trát (trét)<br />
(xã Cửu An) cũng chỉ có khoảng 100 nóc nhà, toàn đất. Các hộ gia đình thường làm nhà theo kiểu chữ<br />
vùng Cửu An rộng lớn cũng chưa đến 200 nóc nhà.2 đinh (T) hoặc chữ L (giống cấu trúc nhà của người<br />
Để đảm bảo an ninh, các làng thường lập những Kinh ở Bình Định, Quảng Ngãi). Bố cục nhà thông<br />
trạm canh ở vị trí đầu làng. Ở An Điền, trạm canh được thường gồm có nhà chính và nhà ngang. Trong đó,<br />
lập trên một gò đất ở phía đông, ngoài làng. Khu vực nhà chính có 3 gian 2 chái hoặc 5 gian 2 chái. Kiểu nhà<br />
này sau được định danh là Trạm Gò. này được người dân địa phương gọi là nhà mái chái.<br />
*<br />
TS., Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
17<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhà mái chái ở An Khê xưa thường không cao.<br />
Độ cao từ mặt đất đến nóc chỉ khoảng 3 m, vách cao<br />
khoảng 2 m. Khung nhà bằng gỗ, được làm theo kiểu<br />
nhà rường phổ biến ở miền Trung, vì 4 cột (nhìn mặt<br />
cắt) có giá chiêng, đặt trên xà lỏng. Đường kính thông<br />
thường của các cột cái không lớn lắm, chỉ khoảng từ<br />
20 - 30 cm. Mỗi gian rộng khoảng 2,5 m, vì vậy mà<br />
toàn bộ diện tích của ngôi nhà chính chỉ khoảng trên<br />
dưới 30 m2.<br />
Những ngôi nhà đẹp là nhà được làm theo kiểu<br />
chồng đùi, phần từ xà lỏng (hay câu đầu) trở lên có<br />
thêm một con rường (chồng rường) vừa để giữ cho<br />
Nhà cổ của cụ Bùi Meo.<br />
khung nhà thêm chắc chắn, vừa để trang trí.<br />
Ở Cửu An, những ngôi nhà đơn giản thường được<br />
loãng mà quét như quét vôi sau này. Tường nhà làm<br />
làm theo kiểu 3 lỏng. Kiểu nhà này có 3 cây dọc chống<br />
bằng cách này rất chắc chắn. Những năm giữa thế kỷ<br />
từ xà ngang lên, giữ hai cây kèo không được liên kết<br />
XX, nhiều gia đình ở An Khê còn thuê thợ từ Bình Định<br />
với nhau bởi rường. Người dân địa phương giải thích:<br />
lên vẽ tranh trực tiếp vào tường nhà theo các chủ đề<br />
gọi là kiểu 3 lỏng vì 3 cây chống này đứng lỏng lẻo,<br />
“xuân, hạ, thu, đông”, hoặc “tùng, cúc, trúc, mai”..., nếu<br />
không có cây bám.<br />
không tinh mắt, người nhìn có thể nhầm các bộ tranh<br />
Để trát được vách đất, trước hết người ta phải vẽ trên tường này với những tranh được in trên giấy<br />
dựng cây mầm (dọc) và cây trĩ (ngang).4 Trước đây, rồi dán lên tường. Những nét đặc trưng này hiện vẫn<br />
người An Khê thường lấy những cây thân gỗ nhỏ, còn thấy trong căn nhà của cụ Nguyễn Thảo, ở thôn<br />
tròn làm cây mầm; còn cây trĩ là cây sặt, đó là một loại An Điền Bắc 1, xã Cửu An.<br />
cây thuộc họ song mây, không mối mọt. Sau, do việc<br />
Những người già cho biết, trước kia ở vùng An<br />
tìm những loại cây trên khó khăn, nên cả cây mầm và<br />
Khê, cửa ra vào nhà thường phải làm “ngạch địa” chắn<br />
cây trĩ đều được người dân thay bằng những thanh<br />
ngang. Ngạch này cao khoảng 60 cm so với mặt đất,<br />
tre chẻ nhỏ. Sau khi dựng và buộc cho cây mầm và<br />
hai bên đục lỗ, gài chốt. Kiểu cửa này vừa để giữ cửa<br />
cây trĩ gắn kết với nhau, người ta bắt đầu trộn rơm<br />
cho chắc, vừa để phòng thú dữ, vì đây là vùng có rất<br />
vào trong đất rồi đạp cho rơm và đất quyện nhuyễn<br />
nhiều cọp. Mái nhà được lợp bằng cỏ tranh hoặc rạ.<br />
với nhau làm đất trét. Để cho tường thêm láng, đẹp,<br />
sau khoảng 7 ngày, khi bức tường đất đã khô, họ tiếp Nhà ngang thường được xây cất đơn giản hơn nhà<br />
tục lấy đất sét trắng, trộn với cát theo tỷ lệ 1 phần chính. Nhưng mọi sinh hoạt của gia đình như ngủ, ăn,<br />
đất, 3 phần cát rồi quét lớp hồ này phủ lên mặt ngoài. bếp nấu, nơi đựng các vật dụng và lương thực... chủ<br />
Cuối cùng, bước hoàn thiện bức tường là hòa đất sét yếu tập trung ở đây.5<br />
<br />
18 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
Ở khu vực trung tâm thị xã An Khê, nơi vốn là ấp kiền, tứ thiết. Vách nhà được làm bằng đất trộn với<br />
Tây Sơn Nhất và sau này mang tên xóm Lũy (nay là rơm, cát. Bao phủ bên ngoài sườn vách là những cây<br />
tổ dân phố 15, phường An Phú, thị xã An Khê), hiện chằn rằn, cây sặt buộc bằng lạt tre. Điểm tiêu biểu<br />
vẫn còn một số ngôi nhà cổ, điển hình như của gia nhất của cả hai ngôi nhà cổ này là lớp rầm cách mái<br />
đình cụ Bùi Meo (tức thầy giáo Lên), hay nhà của gia nhà chưa đầy một mét. Lớp rầm này được làm bằng<br />
đình cụ Huỳnh Ngọc Chương (mười Chương). Ngoài vỏ cây kiền kiền, sau đó đắp lên lớp đất sét nhuyễn<br />
ra, trong vùng còn có nhà cổ của gia đình cụ xã Tám, trộn với rơm, có tác dụng như trần nhà, giữ cho ngôi<br />
nhà cổ của gia đình cụ Văn Minh Trí ở làng Tân Lai xưa, nhà ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè.6<br />
nay thuộc tổ 3, phường An Bình…<br />
Khoảng những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ<br />
Ngôi nhà cổ của cụ Bùi Meo, hiện do con trai cụ là XX, vùng An Điền Bắc mới có ngôi nhà ngói đầu tiên,<br />
Bùi Sinh tiếp quản. Ngôi nhà này được xây dựng từ đó là nhà của gia đình ông hương bộ trưởng. Còn ở<br />
năm 1759, là ngôi nhà ba gian hai chái lớn nhất trong An Điền Nam, ngôi nhà ngói đầu tiên là nhà của ông<br />
những ngôi nhà cổ ở An Khê, với diện tích xây dựng Đặng Để (tức Sáu Tú) - một nông dân do cần cù khai<br />
12,3 m x 9,4 m (115,62 m2). Các vì của căn nhà được phá vùng Điền Nam mà có nhiều ruộng đất.<br />
làm bằng gỗ thò đo. Đầu kèo và xà đều uốn chạm<br />
Với mong muốn được các thần phù hộ để an cư lạc<br />
rồng. Ba gian ngoài cách biệt với gian trong bằng lớp<br />
nghiệp, các làng Việt hình thành sớm ở An Khê như:<br />
cửa ngăn bằng gỗ được chạm khắc khá tỉ mỉ. Bộ mái<br />
An Lũy, Cửu An, Tân Tạo, Tân Lai... đều lập đình. Đình<br />
nhà được làm bằng hệ thống xà gồ rất dày, mái lợp<br />
làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng - hành<br />
tranh. Mái ngói hiện nay được cụ Bùi Meo thay vào<br />
chính trong làng xã, là biểu tượng của tính cộng đồng<br />
khoảng năm 1959, khi mái tranh cũ bị hư.<br />
trong việc nối kết các thành viên trong làng và kết<br />
Nằm ngay phía sau đình An Lũy (An Khê Trường nối con người với thế giới siêu nhiên. Ngôi đình đầu<br />
hiện nay) là ngôi nhà cổ thứ hai của An Lũy - nhà của tiên được ghi nhận trên đất An Khê là đình An Lũy.<br />
cụ Mười Chương (hiện do ông Huỳnh Ngọc Sơn, con Ban đầu, đình được cất bằng tranh, tre, nứa, lá, tọa lạc<br />
trai cụ Mười Chương tiếp quản). Kiến trúc của ngôi trên một cánh rừng rộng và bằng phẳng, hướng về<br />
nhà này cũng gần giống với nhà của cụ Bùi Meo. Nhà phía tây nam. Dưới thời vua Gia Long, đình bị ra lệnh<br />
gồm 3 gian, 2 chái, có diện tích xây dựng 12,6 m x triệt hạ, sau đó mới được xây dựng lại trên nền móng<br />
9,5 m (119,70 m2). Tất cả phần gỗ trong nhà đều được cũ với mái lợp ngói vảy. Khi thực dân Pháp đến, đình<br />
làm từ các loại gỗ quý, bền chắc như: thò đo, kiền An Lũy bị đốt phá nên phải di dời những gì có thể về<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
19<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
An Khê trường. Đến sau Cách mạng tháng Tám năm<br />
1945, dân làng mới có dịp về sửa sang lại đình. Để<br />
lại diện mạo như ngày nay, đình An Lũy đã trải qua<br />
nhiều lần trùng tu. Hiện tại, đình được làm theo lối<br />
tiền đường hậu tẩm. Ngôi tiền đường có ba gian hai<br />
chái, hậu tẩm có một gian hai chái, hội đủ sáu vảy kèo,<br />
tám cây quyết, tám cây đấm và bốn mươi cây cột. Mái<br />
ngói vảy, nóc đúc “lưỡng long tranh châu”, nền và sân<br />
lát gạch Bát Tràng...7<br />
Đình Tân Lai ban đầu chỉ là một nhà tre nhỏ, sau Nhà cổ của cụ Mười Chương.<br />
đó mới được tu bổ, xây cất. Đây là một trong những<br />
ngôi đình còn giữ được những nét cổ kính của đình Người Việt khi lên sống ở An Khê vẫn giữ thói quen<br />
làng ở vùng An Khê với một tòa chánh điện có diện dùng nước giếng chứ không dùng nước suối, nước<br />
tích 7 m x 5 m; phía trước có bình phong, trụ biểu giọt như đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ. Ở Cửu<br />
và cổng tam quan, bên hữu là dãy nhà cúng âm hồn; An, thị xã An Khê, hiện vẫn còn một chiếc giếng cổ<br />
bên tả là nhà thờ Tiền hiền và Hậu hiền. gọi là giếng Đình Làng. Đó là giếng tròn có đường<br />
kính đến 3 m, được xây bằng bọng gốm.<br />
Đình tọa lạc tại thôn An Điền Bắc thuộc xã Cửu An<br />
được xây dựng trên một quả đồi. Thần chính được thờ Thời kỳ đầu, người Việt ở An Khê sinh sống chủ yếu<br />
ở đây là Bổn Cảnh Thành Hoàng. Bản văn tế tại đình bằng nghề nông. Trong đó, việc khai phá để lập điền<br />
còn có danh sách 30 vị thần khác mà trong đó có vị (ruộng), trồng trọt các loại cây lương thực, thực phẩm<br />
thần vốn được thờ ở Nghệ An như Cao Các, Bạch Mã. được coi trọng. Lúa được trồng 2 vụ/năm; ngoài ra,<br />
Thờ trong đình có vị thần núi, sông, biển; có vị là Ngũ trong vườn còn trồng những loại rau ăn quanh năm<br />
hành Âm Dương; có vị là Tiền hiền như Nguyễn Tiến như rau lang, rau bí, ớt, bồ ngót…; gia súc thường<br />
Chính; hay có vị vốn là người có nhiều của cải đóng nuôi có lợn, gà, trâu, bò theo lối chuồng trại và chăn<br />
góp cho làng.8 Hầu hết những ngôi đình được xây thả. Nét khác biệt của vùng An Khê là nghề nuôi ngựa<br />
dựng sớm ở An Khê đều được nhà Nguyễn ban sắc rất phát triển để phục vụ việc săn bắt, thồ hàng.<br />
phong thần từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.<br />
Sống trong điều kiện tự cung tự cấp, các nghề thủ<br />
Trang phục của người Việt trên vùng đất mới đến công truyền thống của An Khê cũng phát triển trong<br />
thập niên 30 của thế kỷ XX vẫn mang đậm nét quê chừng mực đáp ứng các nhu cầu của người dân trong<br />
hương: “Người Huế vẫn ăn bận theo lối Huế: đàn bà vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số nghề<br />
thường bận áo mùi, quần trắng, tóc vấn, đội nón Kinh. đã tạo ra được sản phẩm để trao đổi. Một số nghề<br />
Người Bình Định thì mặc áo quần lãnh hay vải thâm, thủ công điển hình trong vùng có thể kế đến như:<br />
tóc búi, bịt khăn xéo, cột múi ra trước trán hay sau ót, Nghề làm gốm, tuy không thật phổ biến, nhưng trong<br />
đội nón Gò Găng”.9 mỗi khu vực cũng có những lò gốm nổi tiếng. Ở Cửu<br />
<br />
20 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
An, khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lò gốm<br />
lâu đời nhất trong vùng là lò gốm của gia đình ông<br />
Nguyễn Ảnh ở thôn An Điền Nam 1; Lò gốm của hộ CHÚ THÍCH<br />
ông Phan Gia, nay ở thôn An Điền Nam 2. Ông Phan 1<br />
Cụ Nguyễn Thảo cho biết, cây bền thực ra là cây cầy.<br />
Gia học được nghề này từ cha vợ ở Bình Định. Sản<br />
Ban đầu, người Kinh mới lên lập xóm, thấy đây là cây cổ thụ,<br />
phẩm chủ yếu của nghề gốm trong thời kỳ đầu người<br />
sống lâu nên gọi nó là cây bền, theo đó, gò đồi có cây này<br />
Việt có mặt ở An Khê là các loại vật dụng phục vụ sinh cũng được gọi là gò Cây Bền. Đến khoảng những năm 90<br />
hoạt của con người như: gạch, ngói, nồi đất các loại... của thế kỷ trước, cây này vẫn còn, thân cây khoảng 3 người<br />
Nghề mộc, nghề hồ chủ yếu phục vụ xây dựng nhà ôm, có bọng ở giữa. Sau đó, do những người đi bắt tắc kè<br />
ở cho nhân dân hoặc xây dựng các công trình nhỏ. đốt bọng cây mới làm cho cây bị chết.<br />
Nghề đan lát chủ yếu tạo ra các đồ gia dụng như rổ, 2<br />
Theo cụ Nguyễn Thảo, sinh năm 1930, hiện ở thôn An<br />
rá, thúng mủng, rổ sấy… bằng tre, hiện còn lẻ tẻ ở Điền Bắc 1. Cụ cũng cho biết, cụ là đời thứ tư sống ở Cửu<br />
một số hộ gia đình. Nghề rèn: chủ yếu làm các dụng An.<br />
cụ cầm tay. Do ở trong khu vực tiếp giáp với tỉnh Bình 3<br />
Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Mọi Kon Tum,<br />
Định, nghề làm bánh tráng (bánh đa) cũng rất phổ (Huế, 1937), 13.<br />
biến ở An Khê. 4<br />
Phía bắc gọi là “buộc dứng”.<br />
Hoạt động thương mại: ban đầu chủ yếu là trao đổi 5<br />
Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê - Tỉnh Gia Lai<br />
hàng hóa với đồng bào các dân tộc tại chỗ và giao lưu (Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên), Lịch sử truyền thống cách<br />
mua bán với các tỉnh đồng bằng. Tình hình này được mạng xã Cửu An (1945-2015), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia,<br />
phản ánh qua câu ca: 2015), 33-36.<br />
Ai về nhắn với nậu nguồn 6<br />
Tham khảo: Hồng Thương, Nhà xưa trên đất An Khê,<br />
Báo Gia Lai online. Nguồn: http://baogialai.com.vn/<br />
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.<br />
channel/721/201504/nha-xua-tren-dat-an-khe-2382141/<br />
Sống với núi rừng, việc săn bẫy thú và thu hái lâm 7<br />
Quốc Thành, Trầm tích Tây Sơn Thượng, (Hà Nội: Văn<br />
sản (mật ong, măng, nấm…) đã góp phần quan trọng hóa hông tin, 2012), 253, 254.<br />
vào việc cải thiện bữa ăn hàng ngày và trao đổi để có 8<br />
Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê, Lịch sử Đảng bộ<br />
thêm thu nhập phổ biến trong nhân dân. thị xã An Khê (1945 - 2005), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia), 45.<br />
Rời làng quê cũ lên với vùng đất mới, người Việt 9<br />
Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Mọi Kon Tum,<br />
đã mang đến An Khê rất nhiều món ăn đặc trưng của (Huế, 1937), 12; hay Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi,<br />
các vùng miền khác nhau. Nếu như nguồn thực phẩm Người Bahnar ở Kom Tum, (Hà Nội: Tri thức, 2011), 144.<br />
chính nuôi sống những cư dân vùng biển ở làng quê TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
cũ là cá và những món ăn được chế biến từ cá, thì<br />
1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê - Tỉnh Gia Lai<br />
khi lên đây nguồn thức ăn chính lại là những món ăn (Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên). 2015. Lịch sử truyền thống<br />
được chế biến từ thịt. Đó là thành quả của quá trình cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015). Hà Nội: Chính trị Quốc gia.<br />
săn bắt và chăn nuôi mà có.<br />
2. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê. Lịch sử Đảng<br />
Như vậy là, hơn ba thế kỷ qua, bên cạnh việc bộ thị xã An Khê (1945 - 2005). Hà Nội: Chính trị Quốc gia.<br />
người Việt ở An Khê đã chọn lọc để bảo tồn và lưu giữ 3. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi. 1937. Mọi Kon<br />
nhiều phong tục, tập quán, giá trị văn hóa từ mảnh Tum. Huế. 12; Hay Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi.<br />
đất quê hương nơi họ ra đi, bộ phận cư dân này cũng 2011. Người Bahnar ở Kom Tum. Hà Nội: Tri thức.<br />
đồng thời tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn hóa của 4. Phan Đại Doãn. 1988. Ấp Tây Sơn nhì trong Tư liệu về<br />
cộng đồng dân cư tại chỗ. Quá trình tiếp biến trao Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Tập 1: Trên đất Nghĩa Bình. Sở Văn hóa<br />
đổi văn hóa này một mặt giúp cho cộng đồng dân Thông tin Nghĩa Bình xuất bản.<br />
cư tại chỗ học hỏi được những nét tiến bộ trong văn<br />
5. Quốc Thành. 2012. Trầm tích Tây Sơn Thượng. Hà Nội:<br />
hóa người Việt, nhưng đồng thời cũng làm cho cộng Văn hóa Thông tin.<br />
đồng người Việt ở An Khê hình thành nên những nét<br />
6. Hồng Thương. Nhà xưa trên đất An Khê. Báo Gia Lai<br />
độc đáo riêng trong văn hóa truyền thống của mình.<br />
Online. Nguồn: http://baogialai.com.vn/channel/721/<br />
N.T.K.V. 201504/nha-xua-tren-dat-an-khe-2382141/<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
21<br />