intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2015

Chia sẻ: | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:450

113
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2015 nhằm đánh giá hiện tình kinh tế đất nước, xác định những rào cản và khiếm khuyết để từ đó đề ra những chủ trương, chính sách tháo gỡ khó khăn, thay đổi thể chế kinh tế nhắm tới mục tiêu tăng trưởng bền vững. Mời các bạn tham khảo tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.

 

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2015

  1. PHẦN 1 -X ĂM 2014 ĂM 201 1
  2. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2014: TỔNG QUAN VĨ MÔ PGS.TS. Trần Đình Thiên và các cộng sự Viện Kinh tế Việt Nam 1. Tăng trƣởng GDP Hình 1.1. Tăng trƣởng GDP theo quý giai đoạn 2010-2014 (Đơn vị: %) Nguồn: Tổng cục thống kê (GSO) Hình 1.2. Tăng trƣởng kinh tế giai đoạn 1990-2014 10 9.5 9 8.4 8.5 Trung bình 1990-2010 7.8 8 7 6.8 6.4 6.0 6 5.5 5 4 3 I II IV I II IV I II IV I II IV I II IV I II IV I II 1991 2000 III III III III III III III IV 1990 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn: Tổng cục thống kê (GSO) Năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5.98%, cao hơn hẳn mức 5,42% của năm 2013. Mức tăng trưởng trên cao hơn so với chỉ tiêu 5.8% mà Chính phủ đề ra và vượt ngoài dự đoán của các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước. 2
  3. Tăng trưởng năm 2014 vẫn diễn ra theo kịch bản cũ “tiếp tục hồi phục, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước” (H.1.1). Điểm nhấn là tăng trưởng bất ngờ ở quý 3 (6.07%) và quý 4 (6.96%) làm cho mức tăng trưởng cả năm cao hơn hẳn so với 3 năm trở lại đây. Tuy nhiên, mức hồi phục này vẫn còn thấp, chưa vượt qua mức 6% và chưa thực sự bền vững. Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng năm 2014 thấp hơn khá xa mức tăng trưởng bình quân của giai đoạn 1990-2010 (H.1.2). Trong mức tăng chung, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng cao nhất 7.14%, cao hơn nhiều so với năm trước. Bảng 1.1. Đóng góp vào tăng trƣởng theo ngành (%) Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Tổng số 6.78 5.89 5.25 5.42 5.98 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 0.47 0.66 0.4 0.48 0.61 Công nghiệp và xây dựng 3.2 2.32 2.15 2.09 2.75 Dịch vụ 3.11 2.91 2.7 2.85 2.62 Hình 1.3. Tăng trƣởng GDP theo ngành (%) Ngành nông nghiệp Tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 cao hơn so với 3 năm trở lại đây nhưng vẫn thấp hơn so với giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, một 3
  4. thực tế của ngành này là nhập khẩu đầu vào lớn, bao gồm giống, thiết bị vật tư, thuốc trừ sâu, nguyên liệu. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, giá trị nhập khẩu của toàn bộ ngành trong 11 tháng năm 2014 ước tính 19.78 tỷ USD. Điều này chứng tỏ khả năng sản xuất, cung ứng trong nước bị phụ thuộc ngày càng nhiều từ bên ngoài. Nhiều mặt hàng nông sản (chè, cà phê, cao su), thủy hải sản (tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá basa) xuất khẩu ra thị trường thế giới với sản lượng lớn nhưng “không bền vững” do chất lượng và giá trị gia tăng thấp. Nông nghiệp nói chung vẫn chủ yếu phát triển “quảng canh”, chưa thật rõ định hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, phát triển theo chiều sâu, chất lượng và hiệu quả. Tuy năm 2014 đánh dấu sự chuyển hướng trong tái cơ cấu ngành, song xu hướng chi phối vẫn là “sản lượng cao, tiêu tốn nhiều nguồn lực, chất lượng thấp và giá trị gia tăng thấp”. Điểm sáng của ngành là đã có những đột phá mạnh trong ứng dụng rộng rãi khoa học kĩ thuật, công nghệ cao, với sự tham gia của ngày càng nhiều doanh nghiệp lớn vào sản xuất nông nghiệp. Xu hướng tuy mới bắt đầu nhưng có khả năng lan tỏa nhanh. Ngành công nghiệp Hình 1.4. Chỉ số quản trị mua hàng PMI, % Nguồn: HSBC Sản xuất công nghiệp năm 2014 phục hồi đáng kể ở tất cả các nhóm ngành. Tính cả năm 2014, chỉ số sản xuất toàn ngành ước tăng 7.6% so với năm 2013, cao hơn nhiều mức tăng 5.9% của năm 2013. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2014 tăng 10% so cùng kỳ năm 2013. Tính cả năm 2014, chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến 4
  5. tăng 12%, thấp hơn cùng kỳ 2013 là 0.87 điểm %. Chỉ số quản trị mua hàng PMI từ tháng 9 năm 2013 đã liên tục cao hơn ngưỡng 50 điểm (Hình 1.4). Các nhà quản trị mua hàng đều nhận thấy điều kiện kinh doanh trong nước đang được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, về thực chất, nền công nghiệp nước ta là nền công nghiệp định hướng phi công nghệ1. Theo báo cáo của Bộ KHCN năm 2012, phần lớn các doanh nghiệp nước ta sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ. Khoảng 80%-90% công nghệ Việt Nam đang sử dụng là ngoại nhập. 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 1950-1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Tính chung các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Tỷ lệ sử dụng công nghệ cao chỉ 2% so với 31% của Thái Lan, 51% của Malaysia, 73% của Singapore. Các doanh nghiệp Việt Nam thờ ơ với công nghệ, ít có động lực sáng tạo; còn các công ty có vốn đầu tư nước ngoài cũng không quan tâm tới nghiên cứu phát triển vì vấn đề này được thực hiện tại công ty mẹ. Các công ty này chỉ chú trọng khai thác nguồn nhân lực và nguyên liệu rẻ của Việt Nam. Chính vì vậy, ở Việt Nam, ngành công nghiệp phụ trợ khó có thể phát triển, chủ yếu “khiêm tốn” đảm nhận công đoạn “công nghệ thấp” - gia công và lắp ráp. Năm 2014, ngành xây dựng bắt đầu hồi phục. Nhiều dự án giao thông được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các dự án đường cao tốc, các dự án phát triển hạ tầng xã hội sử dụng vốn Nhà nước, vốn ODA. Điển hình như dự án: Đường cao tốc Hà Nội- Lào Cai, cầu Nhật Tân - nối sân bay Nội Bài, nhà ga T2 Nội Bài, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng… Thị trường bất động sản có tín hiệu phục hồi. Nhiều dự án phát triển nhà ở được hoàn thành và bàn giao trong năm 2014, đặc biệt là phân khúc nhà chung cư giá trung bình và rẻ. Thị trường vật liệu xây dựng không có biến động lớn, góp phần giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp xây dựng. Mặc dù vậy, đó chỉ là quá trình phục hồi chậm chạp. Tình trạng nợ đọng xây dựng từ những năm trước của các doanh nghiệp vẫn chưa có hướng giải quyết triệt để. Nhiều doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngành dịch vụ 1. Trong báo cáo đánh giá Khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo được công bố tại Hội thảo quốc tế “ Hoàn thiện hệ thống thống kê, đánh giá tổ chức sáng tạo” vào ngày 25/11/2014, Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nhận định: “Năng lực KHCN ở Việt Nam còn yếu và hệ thống đổi mới sáng tạo còn non trẻ, manh mún. Điều này không có lợi cho phát triển kinh tế nói riêng và đất nước nói chung”. Mức đầu tư cho nghiên cứu ở Việt Nam quá thấp, chỉ chiếm 0.2%-0.3% GDP. Ngoài ra, trong khi ở nhiều nước, khối doanh nghiệp tư nhân đóng góp nhiều cho đầu tư đổi mới KHCN (trên 80%), thì ở Việt Nam diễn ra một xu thế ngược khi mà đầu tư cho phát triển từ nguồn vốn Chính phủ chiếm hơn 90%, chỉ còn lại 10% từ khối doanh nghiệp tư nhân. Điều đáng nói là qua nghiên cứu, WB cho rằng hệ thống đổi mới sáng tạo ở Việt Nam theo tiêu chuẩn hiện đại chỉ mới manh nha. Còn 5
  6. Tính cả năm 2014, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 2945.2 nghìn tỷ đồng, tăng 10.6% so với năm 2013 (loại trừ yếu tố giá, tăng 6.3%), cao hơn mức 5.5% của năm 2013. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014, khu vực FDI có mức tăng trưởng cao nhất (16,9%), trong khi kinh tế Nhà nước chỉ tăng 9.6%; kinh tế ngoài Nhà nước tăng 10.5%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch tăng trưởng khá, cả năm đạt 381.8 nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với 2013. Tính chung năm 2014, khách quốc tế đến nước ta ước đạt 7874.3 nghìn lượt, tăng 4%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 10.6% của năm 2013. Một nguyên nhân quan trọng là căng thẳng trên biển Đông do Trung Quốc gây ra. Dịch vụ vận tải hành khách năm 2014 ước đạt 3058.5 triệu lượt khách, tăng 7.6% và vận tải hàng hóa năm 2014 ước tính đạt 1066.6 triệu tấn, tăng 5.6% so với năm 2013. Xuất nhập khẩu Năm 2014 là năm thứ 3 liên tiếp Việt Nam đạt thặng dư thương mại, ước tính khoảng 2 tỷ USD. 6
  7. Hình 1.5. Kim ngạch thƣơng mại hàng hóa theo khu vực kinh tế, tỷ USD Nguồn: Tổng cục Hải quan Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 101.6 tỷ USD, chiếm 67.7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 15.2%. Về nhập khẩu, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập 84.5 tỷ USD, chiếm 57.1% tổng kim ngạch và tăng 13.6% so với năm 2013. Tuy nhập khẩu lớn, nhưng khu vực FDI (kể cả dầu thô) vẫn xuất siêu ở mức cao (17.1 tỷ USD, so 13.7 tỷ USD năm 2013), còn khu vực trong nước tiếp tục nhập siêu với 15 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam khá đa dạng, nhưng thị trường nhập khẩu còn quá tập trung. Việt Nam xuất khẩu sang nhiều thị trường như Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản, trong khi nhập khẩu tới 29% giá trị từ riêng Trung Quốc. Đầu tư Năm 2014, tỷ trọng đầu tư/GDP nhích lên một chút so với năm 2013, gia tăng về quy mô vốn ở cả 3 khu vực. Về cơ cấu đầu tư, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, nhưng xu hướng giảm rõ rệt hơn. Tỷ trọng khu vực ngoài nhà nước tăng trong khi FDI lại giảm so với năm trước (Hình 1.6, 1.7). Cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế có sự thay đổi. Số vốn đổ vào thị trường BĐS tăng gấp 3 lần so với năm trước. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký gần 14,493 tỷ USD, chiếm 71.6% tổng vốn đăng ký; lĩnh vực bất động sản đạt hơn 2,5 tỷ USD, chiếm 12.6%; ngành xây dựng đạt gần 1,06 tỷ USD, chiếm 5.2%; các ngành còn lại đạt gần 2.14 tỷ USD, chiếm 10.6%. Bảng 1.2. Cơ cấu đầu tƣ so với GDP giai đoạn 2007-2014 ( %) 7
  8. 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Đầu tư/GDP 42.7 38.2 39.2 38.5 34.6 33.5 30.4 31 Tăng trưởng GDP 8.46 6.31 5.32 6.78 5.89 5.25 5.42 5.98 Nguồn : Tổng cục thống kê (GSO) Hình 1.6 và 1.7. Cơ cấu vốn phân theo ngành kinh tế năm 2013 và 2014 Nguồn: Tổng cục thống kê (GSO) 1.2. Lao động việc làm Trong năm 2014, nền kinh tế có những dấu hiệu tích cực hơn so với năm 2012 và 2013 như tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn, sản xuất công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp đều có mức tăng trưởng tốt hơn năm trước. Do đó, nên kinh tế cả nước đã giải quyết việc làm cho khoảng khoảng 1.6 triệu lao động, tăng 3.6% so với thực hiện năm 2013, trong đó: tạo việc làm trong nước khoảng 1.494 triệu lao động, đạt 98.8% kế hoạch, tăng 2.7% so với năm 2013; xuất khẩu lao động khoảng 106 ngàn người2. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính đến thời điểm 01/01/2015 là 54.48 triệu người, tăng 782 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm 51.3%; lao động nữ chiếm 48.7%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2014 ước tính 53.0 triệu người. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2014 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46.6% tổng số (năm 2013 là 46.8%); khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21.4% (năm 2013 là 21.2%); khu vực dịch vụ chiếm 32.0% (năm 2013 là 32%). Số người có việc làm năm 2014 tăng cao hơn so với năm 2013. 2 Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến tình hình thực hiện năm 2014 và triển khai kế hoạch, nhiệm vụ năm 2015 về lĩnh vực lao động và người có công do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổ chức ngày 22/1. 8
  9. Hình 1.8. Số ngƣời có việc làm năm 2013 và 2014 Nguồn: TCTK và Bộ LĐTB&XH (2014, 2015) Mặc dù số việc làm mới nền kinh tế tạo ra lớn hơn năm trước nhưng đó chỉ là dấu hiệu tích cực về mặt số lượng. Chất lượng việc làm mới vẫn thấp và thiếu bền vững. Số việc làm từ khu vực doanh nghiệp chưa có sự đột biến về số và chất lượng. Trong năm 2014, số lượng lao động bị mất việc làm do doanh nghiệp bị giải thể vẫn rất lớn. Cả nước có 67823 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động. Số doanh nghiệp mới thành lập là 74842, lớn hơn số doanh nghiệp giải thể nhưng số lượng việc làm mới tạo ra có thể thấp hơn số việc làm mất đi. Các doanh nghiệp mới thành lập thường tạo ra chỗ làm mới bấp bênh hơn những doanh nghiệp cũ có thời gian dài hoạt động ổn định. Hình 1.9. Số ngƣời có việc làm từ 15 tuổi trở lên theo vị thế việc làm (%) 9
  10. Nguồn: TCTK và Bộ LĐTB&XH (2014, 2015) Như vậy, số việc làm mới tạo ra phần lớn vẫn trong khu vực phi chính thức hoặc lao động tự làm. Năm 2014, lao động dịch chuyển chậm từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp (chỉ 0.2% lao động từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp) trong khi lao động ngành dịch vụ giữ nguyên. Số lao động làm công ăn lương vẫn chỉ chiếm số lượng thấp và gần như không thay đổi so với năm 2013, chiếm khoảng 35% lực lượng lao động. Còn lại trong nền kinh tế hầu hết là lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương. Vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm Ở những nước đang phát triển như Việt Nam, số người tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp thường thấp. Người lao động phải tìm việc bằng mọi cách nhằm đảm bảo sinh kế của bản thân và gia đình. Thông thường, họ chấp nhận làm những công việc chất lượng kém, trả lương thấp trong nền kinh tế phi chính thức hoặc chấp nhận những thỏa thuận làm việc một cách không chính thức để có thu nhập. Chính vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thường ở mức rất thấp. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2014 là 2.08%, trong đó khu vực thành thị là 3.43%, thấp hơn mức 3.59% của năm trước; khu vực nông thôn là 1.47%, thấp hơn mức 1.54% của năm 2013. Lao động thất nghiệp chủ yếu trong độ tuổi thanh niên, tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 15-24 tuổi năm 2014 là 6.3%, cao hơn mức 6.17% của năm 2013 (TCKT, 2015). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2014 là 2.45%, thấp hơn mức 2.74% của năm 2012 và 2.75% của năm 2013. Trong đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn cao hơn khá nhiều so với khu vực thành thị. Cụ thể, năm 2014 lao động trong độ tuổi thiếu việc làm ở khu vực thành thị là 1.18%; khu vực nông thôn là 10
  11. 3.01%. Tỷ lệ thiếu việc làm có xu hướng tăng vào cuối năm và tăng chủ yếu ở khu vực nông thôn do tính chất mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Hình 1.10. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động (%) Nguồn: TCTK và Bộ LĐTB&XH (2014, 2015) Với đặc thù cầu lao động chất lượng thấp và những ràng buộc (về trình độ chuyên môn, kỹ năng) để tham gia làm việc không khắt khe nên người lao động có thể dễ dàng tham gia thị trường lao động. Trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp như hiện nay là yếu tố không tích cực. Người lao động sẽ ít có động lực nâng cao trình độ và kỹ năng do không có nhiều áp lực về các tiêu chuẩn cần phải trang bị nhằm cạnh tranh khi đi tìm việc. Chuyển dịch cơ cấu lao động Giai đoạn 2010-2013, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng: từ năm 2010 đến năm 2013, lao động nông nghiệp giảm từ 49.5% xuống 46.8%, lao động công nghiệp và xây dựng tăng từ 20.9% lên 21.2%; lao động khu vực dịch vụ tăng từ 29.6% lên 32%. 11
  12. Bảng 1.3. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế Nông, lâm nghiệp Công nghiệp Năm Tổng Dịch vụ và thủy sản và xây dựng 2005 100 55.1 17.6 27.3 2010 100 49.5 20.9 29.6 2011 100 48.4 21.3 30.3 2012 100 47.4 21.3 31.3 2013 100 46.8 21.2 32 Nguồn: Niên giám thống kê 2013 Mặc dù lao động chuyển dịch sang phía công nghiệp, dịch vụ nhưng tỷ trọng lao động nông nghiệp vẫn còn rất lớn, chất lượng nhân lực rất chậm d0 cải thiện. Nông nghiệp vẫn là khu vực tạo ra nhiều việc làm. Chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta thấp. Đào tạo đại học, cao đẳng ít gắn với thực tiễn nên kỹ năng lao động kém. Trong khi đó, việc tham gia khu vực dịch vụ đẳng cấp thấp, ít cần lao động có kĩ năng lại dễ dàng, với mức thu nhập ban đầu không thấp hơn nhiều so với thu nhập của lao động mới tốt nghiệp đại học, cao đẳng. Vì vậy, lao động thất nghiệp trong công nghiệp, nông nghiệp rất dễ chuyển sang khu vực dịch vụ3. Người lao động ít có động lực làm việc, nâng cao kỹ năng. Do đó, dù cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ thì đó vẫn là một cơ cấu kém bền vững. Chương 2 ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ NĂM 2014 Năm 2014, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục được củng cố bất chấp nhiều biến động lớn về kinh tế - chính trị toàn cầu. Chỉ số giá CPI bình quân cả năm chỉ tăng 4.09%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu của Quốc hội và là mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Đặt trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới đầy biến động, bao gồm khủng 3 Suy thoái kinh tế, nhưng thất nghiệp ở nước ta thấp, tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ cao như tài chính, ngân hàng, khoa học công nghệ giảm thì tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, thương mại, bán buôn bán lẻ tăng. Lao động trong dịch vụ lưu trú ăn uống tăng từ 3.5% năm 2010 lên 4.2% năm 2013 của tổng LLLĐ. 12
  13. hoảng chính trị Ucraina, kinh tế khu vực EU vẫn chưa phục hồi và chịu ảnh hưởng bởi các hành động trừng phạt lẫn nhau với Nga, hay sự nổi nên của nhà nước Hồi giáo IS, tranh chấp trên Biển Đông, thì những thành tựu của Việt Nam trong năm qua có thể được coi là hết sức bất ngờ. Có nhiều yếu tố tạo nên năm 2014 thành công của kinh tế Việt Nam, trong đó, yếu tố đầu tiên phải kể đến là việc Chính phủ đã chủ động thực thi nhiều chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thể chế, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Kết quả đạt được là rõ ràng và đáng khích lệ. Điển hình nhất là thời gian doanh nghiệp nộp thuế đã giảm từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm (-290 giờ) chỉ sau 4 tháng trong khi cả 4 năm trước đó, chỉ giảm được tổng cộng 70 giờ). Những yếu tố khác đóng góp vào sự ổn định vĩ mô năm 2014 là sự cải thiện của thị trường tài chính - tiền tệ, tiến trình cổ phần hóa DNNN được đẩy mạnh, thái độ tích cực hơn đối với khu vực tư nhân (được thừa nhận là động lực quan trọng), thu ngân sách tăng và chi ngân sách giảm so với dự toán, dự trữ ngoại hối đạt mức cao. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Việt Nam đã và đang đàm phán ký kết hàng loạt hiệp định hội nhập ở đẳng cấp rất cao, trong khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa rất yếu, trình độ quản trị quốc gia không cao, năng suất lao động thấp, trình độ lao động thua kém nhiều nước trong khu vực và thế giới. Nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa bền vững và có thể quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng thấp. 2.1. Thị trƣờng tài chính - tiền tệ Trong năm 2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ hơn với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát tình trạng lạm phát, tạo ðiều kiện ổn ðịnh vĩ mô và hỗ trợ tãng trýởng, ðảm bảo thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và nền kinh tế. NHNN còn thực hiện các giải pháp về tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất vay vốn thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Hình 2.1. Tăng trƣởng cung tiền, tín dụng và lạm phát 13
  14. Nguồn: Sao Vàng Capital (2014) Tính đến 22/12/2014, tổng phương tiện thanh toán tăng xấp xỉ 15.99% so với cuối năm 2013, tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt 12.62% (Hình 2.1), và tăng trưởng dư nợ huy động tăng 15.76%. Như vậy, dư nợ tín dụng đã trở lại xu hướng đi lên trong hai năm 2013 và 2014. Điều tích cực là tín dụng đã chảy nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp thay vì vào những lĩnh vực mang tính đầu cơ dễ tạo ra bong bóng như các năm trước đây. So với cuối 2013, tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tính đến cuối tháng 11/2014 đã tăng 13.8%; tín dụng cho lĩnh vực công nghệ cao tăng 14.8%; tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thông tăng 12.8% (Công ty Chứng khoán Bảo Việt, 2014). Về mặt bằng lãi suất, trong năm 2014, lãi suất trên thị trường tiếp tục giảm và dao động ở biên độ hẹp. Thanh khoản của các ngân hàng được cải thiện nhờ nguồn vốn huy động duy trì ổn định trong khi tăng trưởng tín dụng cầm chừng. Đối với lãi suất huy động, NHNN đã hai lần có quyết định cắt giảm trần lãi suất huy động trong năm 2014, làm cho mức lãi suất giảm từ 7% xuống xuống 5.5%/năm kể từ tháng 10/2014. Như vậy, NHNN đã có 9 lần cắt giảm lãi suất liên tiếp kể từ khi trần lãi suất huy động được thiết lập ở mức 14% vào tháng 10/2011. Đây được coi là quyết định mang tính bước ngoặt của NHNN trong nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ. Cùng với diễn biến giảm lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay năm 2014 tiếp tục xu hướng giảm năm thứ 3 liên tiếp. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 7-9%, trung và dài hạn 10-13%. Đối với những lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp - nông thôn, công nghiệp phụ trợ, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã giảm thêm 2 điểm phần trăm so với cuối năm 2013 hiện chỉ còn 7%/năm. Trần lãi suất cho vay giảm, một mặt khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối; mặt khác, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng huy động được các nguồn vốn dài hạn và ổn định hơn, hình thành đường cong lãi suất rõ ràng hơn. Hơn nữa, nó cũng khiến cho các tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất với 14
  15. những khoản nợ cũ. Năm 2013, tổng dư nợ cho vay bằng VND chịu lãi suất 15%/năm là 6.3% đã giảm xuống còn 3.9% vào năm 2014; dư nợ cho vay chịu lãi suất từ 13% trở lên cũng giảm từ 19.72% xuống 10.65% trong giai đoạn 2013-2014 4. Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá USD/VND nhìn chung ổn định và dao động trong biên độ hẹp trong suốt năm 2014 mặc dù NHNN có điều chỉnh tăng 1% trong tháng 6/2014. Tỷ giá trong năm 2014 được giữ ổn định, góp phần cải thiện nền kinh tế vĩ mô. Trong năm 2014, dự trữ ngoại hối Việt Nam được nâng lên hơn 36 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay (Hình 2.4), có tác động hỗ trợ tốt cho hoạt động thanh toán quốc tế. Hình 2.2. Dự trữ ngoại hối Việt Nam Nguồn: Tổng hợp Việt Nam theo đuổi chế độ neo tỷ giá theo USD. Mặc dù điều này giúp làm giảm chi phí và rủi ro giao dịch nhưng đối với thị trường tài chính chưa hoàn thiện của Việt Nam, nó lại tiềm ẩn những rủi ro tiềm tàng. Đồng Việt Nam bị đánh giá cao, gây áp lực lên tỷ giá, dẫn đến đầu cơ, đe dọa sự ổn định của thị trường ngoại hối (Tô Trung Thành, 2014). Thực tế cho thấy trong năm 2013, tỷ giá thị trường tự do tăng mạnh do tâm lý đồn đoán về điều chỉnh tiền đồng. Hơn nữa, đồng Việt Nam bị đánh giá cao, không hỗ trợ xuất khẩu ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế đang là một chủ đề gây chú ý. Nhiều chuyên gia nhận định rằng dòng tiền “nóng” đang đổ vào Việt Nam để tận dụng mức lãi suất cao. Tuy nhiên, lãi suất đang có xu hướng giảm và các dòng tiền này có thể đổi chiều. 4 Ngân hàng nhà nước (2014), Thông cáo báo chí về kết quả điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2014. định hướng giải pháp điều hành năm 2015. 15
  16. Ngoài những điểm nhấn về sự ổn định thị trường, khó khăn của thị trường tài chính - tiền tệ nói chung vẫn nằm ở khâu tái cơ cấu hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu. Đến hết năm 2014, nhiều kết quả của Đề án tái cấu trúc các TCTD theo Quyết định 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã được ghi nhận là tích cực. Trong số 9 ngân hàng được xác định là yếu kém từ năm 2012, NHNN đã phê duyệt 8 phương án tái cơ cấu. Thông qua phương thức sáp nhập, toàn hệ thống hiện đã giảm được 7 TCTD, 2 chi nhánh ngân hàng liên doanh, 4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 quỹ tín dụng; 3 ngân hàng nước ngoài được chuyển đổi hình thức hoạt động. Cho tới giữa năm 2013, xu hướng chung là tỷ lệ nợ xấu tăng lên (Bảng 1). Từ giữa năm 2013, sự ra đời của VAMC và hoạt động mua nợ xấu của các NHTM đã giúp tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 3.6%. Đến tháng 7/2014, tỷ lệ nợ xấu tăng lên 4.11%. Đến tháng 11/2014. tỷ lệ nợ xấu đã giảm còn 3.8%, nhưng việc giảm này vẫn là nhờ vào cơ chế hoán đổi nợ lấy trái phiếu đặc biệt của VAMC. Như thế, tiến trình tái cơ cấu hệ thống. Kể từ khi ra đời cho đến hết năm 2014, tổ chức này đã mua khoảng 125-130 nghìn tỷ đồng nợ xấu gốc từ các TCTD (Vneconomy5). Tuy vậy, giá trị nợ xấu VAMC thu hồi được là không đáng kể. Tính đến 24/12/2014, chỉ thu hồi được khoảng 4.161 tỷ đồng. Bảng 2.1. Tỷ lệ nợ xấu giai đoạn 2011-2014 Thời gian T12/2011 T6/2012 T12/2012 T6/2013 T12/2013 T7/2014 T11/2014 Tỷ lệ nợ 3.10% 4.50% 4.20% 4.60% 3.60% 4.11% 3.80% xấu Bên cạnh đó, cơ chế hoạt động của tổ chức VAMC tại Việt Nam có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quá trình xử lý nợ xấu (Ngô Trí Long, 2014). Cụ thể hơn, cơ chế hoạt động của một tổ chức như VAMC ở các quốc gia khác thực chất là Nhà nước bỏ tiền ra mua nợ, ôm khoản nợ đó một thời gian, sau đó khi kinh tế phục hồi, thị trường tài chính, bất động sản ấm lên sẽ bán ra thị trường. Nhưng VAMC của Việt Nam không như vậy. VAMC mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt, được mang giao dịch với NHNN để vay tiền. Bán nợ, cầm giấy, ngân hàng vẫn phải tiếp tục đòi nợ và mỗi năm, trích dự phòng rủi ro bằng 20% tổng giá trị tờ giấy cầm ấy. Hiện VAMC đang gặp khó khăn trong việc phát mãi tài sản đảm bảo thông qua đấu giá, đã tổ chức ba lần đấu giá nhưng đều thất bại. 5 http://vneconomy.vn/tai-chinh/chu-tich-vamc-ke-kho-thu-hoi-no-xau-20141229075135482.htm. 16
  17. Như vậy, hoạt động của thị trường tài chính - tiền tệ nói chung có sự ổn định hơn trong năm 2014 so với hai năm trước đó. Nhưng đó dường như chỉ là biểu hiện bề ngoài, còn ẩn sâu trong tổ chức quản trị, giám sát trên toàn hệ thống vẫn tồn tại nhiều điểm yếu, rõ ràng nhất là xu hướng gia tăng nợ xấu, xử lý nợ xấu mang tính cơ học, phi thị trường. Các hoạt động mua lại, sáp nhập mà không làm thay đổi căn bản cấu trúc quản trị sẽ khó có thể xoay chuyển tình thế hiện nay. Hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng và xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp minh bạch là một yếu tố sống còn, bởi khi đó, những TCTD yếu kém buộc phải tái cấu trúc, còn dòng vốn tín dụng sẽ được chảy vào đúng những doanh nghiệp thực sự hoạt động hiệu quả. 2.2. Lạm phát Sau nhiều năm tăng cao và bất thường, CPI 2014 đã chuyển hướng sang một nhịp biến động khác, không lặp lại vòng luẩn quẩn 2 năm tăng, 1 năm giảm như giai đoạn 2007–2012. Lạm phát năm 2014 có xu hướng liên tục giảm qua các tháng, CPI tháng 12/2014 cả nước giảm 0.24% so với tháng trước (Hình 5). Đáng chú ý trong vòng 10 năm trở lại đây, CPI tháng 12 giảm so với tháng 11 là lần thứ hai (trước đó là vào năm 2008). Thời điểm năm 2008, khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng, giá cả các mặt hàng trên thế giới tăng đột biến vào 6 tháng đầu năm và khiến giá cả sau đó lại giảm mạnh vào những tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2014, chỉ số giá tiêu dùng tăng 1.84% so với cùng kỳ năm 2013. Trong khi đó, CPI bình quân năm 2014 tăng 4.09% so với bình quân năm 2013, mức tăng thấp trong 10 năm trở lại đây. CPI bình quân mỗi tháng tăng khoảng 0.15%, tăng mạnh nhất trong quý 1 và quý 3 và thấp nhất (âm) trong quý 4. Hình 2.3. Diễn biến lạm phát năm 2014 Lạm phát (%, yoy) giai đoạn 2007-2014 Diễn biến CPI năm 2014 17
  18. Tăng giảm các nhóm hàng năm 2014 Đóng góp của nhóm hàng vào CPI 2014 Nguồn: Tổng cục thống kê Có thể chỉ ra một số nhân tố chính dẫn tới CPI năm 2014 được kiềm chế ở mức thấp so với những năm trước như sau. Thứ nhất, lạm phát đã giảm đáng kể do công tác quản lý, điều hành giá trong năm 2014 được thực hiện khá hợp lý khi thời điểm điều chỉnh không trùng vào các tháng cao điểm đã giảm thiểu được tác động của việc điều chỉnh giá lên CPI. Mức giá được điều chỉnh đối với một số nhóm hàng do Nhà nước quản lý như Giáo dục, Y tế thấp hơn so với năm trước. Trong bối cảnh giá cả các nhóm hàng lương thực thực phẩm tương đối ổn định trong ba năm qua thì chính biên độ điều chỉnh tăng theo lộ trình của nhóm hàng giáo dục và y tế thấp hơn tương đối đã có sự đóng góp không nhỏ, làm nên sự khác biệt của CPI năm nay với năm 2012 và 2013. Thứ hai, lạm phát nhập khẩu và lạm phát chi phí đẩy giảm mạnh. Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới khá ổn định, chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa đang có chiều hướng giảm trong những năm qua: năm 2014 giảm 1.02% so với năm 2013 (trong năm 2013 và 2012 giảm lần lượt là 2.36% và 0.33%)6. Ngoài ra, nhiều khoản thuế đã được cắt giảm, giãn, hoãn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí, giảm giá hàng hoá, dịch vụ; lãi suất cho vay của ngân hàng giảm khá nhanh; tỷ giá ổn định làm cho giá hàng nhập khẩu tính bằng USD giảm. Bên cạnh đó, giá nhiên liệu đặc biệt là dầu thô trên thế giới giảm mạnh dẫn đến giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh giảm, tác động kéo giảm chỉ số giá nhiều nhóm hàng quan trọng như “Nhà ở, vật liệu xây dựng” và “Giao thông”. Chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm, giá xăng trong nước đã được điều chỉnh giảm 12 lần liên tiếp với mức giảm tổng cộng là 7430 đồng/lít. So với thời điểm cuối năm 2013 thì giá mặt hàng này đã giảm khoảng 26% trong năm 2014. Giá xăng giảm tác động trực tiếp tới 6 Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2014. 18
  19. giá cả giao thông (giảm 5.5% so với cùng kỳ năm trước), giúp ổn định giá các mặt hàng tiêu dùng liên đới khác như hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đồ uống thuốc lá; may mặc mũ nón giày dép… vốn thường có xu hướng tăng cao vào dịp cuối năm. Thứ ba, lạm phát cầu kéo cũng giảm do cầu tiêu dùng vẫn yếu và chưa được cải thiện nhiều. Trong năm 2014. tổng cầu vẫn yếu do tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên GDP giảm, chỉ còn khoảng 31%/GDP, năm 2007 và 2011 chỉ số này lần lượt ở mức 46.5% và 36.4%7. Dù sức mua đã được cải thiện trong năm qua, nhưng mức tăng vẫn chậm. Theo đó, những năm trước khủng hoảng (2006-2007) tốc độ tăng trưởng tiêu dùng hàng năm là trên 14%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng đạt mức 6.98% và 7.13%. Báo cáo Chỉ số Niềm tin Người tiêu dùng Q4 2014 của Nielsen chỉ ra rằng ít nhất 8/10 người tiêu dùng của Việt Nam (86%) đã điều chỉnh thói quen chi tiêu của họ trong hơn 12 tháng vừa qua để nỗ lực hạn chế chi tiêu cho gia đình bởi vì họ nghĩ rằng nền kinh tế vẫn đang rơi vào tình trạng suy thoái. Trong bối cảnh khó khăn, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và xuất khẩu liên tục đối mặt với nhiều thách thức gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất, kinh doanh đặc biệt là các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam (Box 1). Thứ tư, lạm phát giảm tốc rõ rệt do chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ của Chính phủ. Theo Ngô Trí Long (2014), việc kiềm chế lạm phát thấp do thắt chặt chính sách tiền tệ khiến nguồn cầu tiêu dùng yếu đi, đầu tư của doanh nghiệp và chi tiêu của Chính phủ bị thu hẹp. Tăng trưởng tín dụng từ 2012 đi lên liên tục tới 2014, nhưng bình quân cũng chỉ bằng khoảng 1/3 so với giai đoạn trước khủng hoảng và chủ yếu tăng vào các tháng cuối năm. Ngoài ra, với ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô hơn là mục tiêu tăng trưởng bằng mọi giá, chính sách tài khóa luôn được kiểm soát chặt chẽ. Thu ngân sách cũng gặp khó khăn so với trước, song nhu cầu chi tiêu vẫn lớn, do vậy, thâm hụt ngân sách luôn ở mức cao và nợ công đã tới mức giới hạn nên Chính phủ không thể tiếp tục nới lỏng chi tiêu. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho cầu tiêu dùng thấp và giá cả khó có cơ hội tăng cao. Thứ năm, tâm lý lạm phát của dân chúng ổn định nhờ lạm phát được kiểm soát trong 2 năm liên tiếp (2012 và 2013). Tâm lý kỳ vọng lạm phát không bị áp lực lớn như trước, khi giá vàng giảm, giá USD ổn định, chứng khoán vẫn chưa vượt khỏi mốc 600 một cách bền vững, và bất động sản chưa có sự phục hồi rõ rệt… Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, tăng trưởng thấp, sản xuất bị thu hẹp do những ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và quá trình tái cơ cấu mới đang được triển khai, thì việc lạm phát được kiểm soát ở mức thấp đã đóng vai trò quan trọng để duy trì ổn 7 Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các năm. 19
  20. định kinh tế vĩ mô, gia tăng niềm tin vào nền kinh tế, thúc đẩy mở rộng sản xuất kinh doanh. Hộp 2.1. Thị trƣờng bán lẻ của Việt Nam vẫn chƣa khởi sắc dù nền kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi Hệ thống điều hành chuỗi bán lẻ Parkson tại châu Á công bố lợi nhuận quý đầu tiên trong năm tài chính 2015 sụt giảm tới 33.1%. Nguyên nhân được đưa ra là do doanh số nghèo nàn từ Việt Nam và Malaysia. Parkson cho biết, mức giảm trung bình mỗi cửa hàng là 8.2%. Theo giám đốc điều hành của Parkson, Toh Peng Koon, thị trường bán lẻ đang gặp nhiều thách thức. Công ty TNHH Parkson Hà Nội đã phải chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng tại tòa nhà Keangnam Landmark Tower (Parkson Landmark) do hoạt động kinh doanh tại đây chưa một ngày đạt được doanh thu theo kế hoạch đề ra, kể từ khi mở cửa kinh doanh năm 2011. Tập đoàn Metro Cash&Carry (Đức) quyết định rút khỏi thị trường phân phối, bán lẻ Việt Nam với việc tuyên bố bán lại toàn bộ việc kinh doanh hệ thống MetroCash & Carry Việt Nam cho Tập đoàn Berli Jucker (BJC Thái Lan). Thương vụ này diễn ra giữa lúc Giám đốc điều hành Metro Cash&Carry, ông Olaf Koch, đang tìm cách tiết giảm sự kém hiệu quả trong hoạt động của Metro trên toàn cầu, nhằm cải thiện lợi nhuận trong năm tài chính 2014-2015. Có nhiều quan điểm cho rằng Metro Cash&Carry buộc phải rút khỏi thị trường Việt Nam vì thất bại trong kinh doanh, cũng có thể do nền kinh tế Việt Nam đã mất động lực, môi trường kinh doanh không còn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn: Châu Anh (2015), Anh Hoa (2014) 2.3. Chính sách tài khóa Luật Đầu tư Công có quy định mới về tiêu chí phân loại dự án đầu tư công, phân bổ vốn theo kế hoạch trung hạn, điều chỉnh phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các dự án nhóm A, v.v. Tuy nhiên, chưa có biện pháp bảo đảm tăng trưởng cân đối của chi đầu tư phát triển với chi thường xuyên. Cơ chế để nâng cao hiệu quả thẩm định, điều phối, và giám sát thực hiện dự án đầu tư công chưa có thay đổi đáng kể so với khuôn khổ hiện hành. Thực trạng này tiếp tục hạn chế tính khách quan, khoa học và nhất quán của công tác đánh giá, thẩm định dự án đầu tư công (CIEM, 2014). Để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển năm 2014, tổng khối lượng phát hành trái phiếu chính phủ đợt điều chỉnh lần thứ hai vào cuối tháng 11/2014 sẽ tăng thêm khoảng 30 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch điều chỉnh lần thứ nhất vào đợt tháng 8/2014 (232000 tỷ đồng); còn so với kế hoạch phát hành công bố đầu năm 2014, tổng khối lượng phát hành tăng thêm là 52000 tỷ đồng. Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ là 4.95 năm (dài hơn 1.74 năm so mức trung bình năm 2013), trong đó trái phiếu kỳ hạn 3 năm và 5 năm chiếm gần 54% (Bộ Tài chính, 2014a). 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2