intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lãi suất tý giá hối đoái và sự quản lý lãi suất ở Việt Nam - 3

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

58
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Về dài hạn, một số ngân hàng nhận thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp ứng nhu cầu trên. - Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả tương đối giữa các đổng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá đã định theo...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lãi suất tý giá hối đoái và sự quản lý lãi suất ở Việt Nam - 3

  1. thoả thuận. Về dài hạn, một số ngân h àng nhận thấy dự trữ USD và vàng của m ình không đủ đáp ứng nhu cầu trên. - Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả tương đối giữa các đổng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao ho ặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì t ỷ giá đ• định theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi. - Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác nhau về xuất nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và hàng loạt các nhân tố tác động khác đ• làm cho có sự thay đổi tương đối về giá trị tương đối giữa các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nư ớc đ• xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho tỷ giá cố định. Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế x• hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Do đó, các nước đ• xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và M ỹ trở thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm cho cán cân thương m ại Mỹ th ường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nư ớc khủng hoảng lòng tin với USD, đ• chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới,
  2. tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng 3/1973) 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá (-10%) thì ch ế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ. 2.2.1.1.3. Nh ận định chung về chế độ tỷ giá cố định: Đây là ch ế độ tỷ giá hối đoái m à ở đó Nhà nư ớc, cụ thể là NHTW tuyên bố sẽ duy trì t ỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng dư cầu hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số dư đó. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định: + Thúc đ ẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh. + Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô. + Thúc đ ẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá. - Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định: + Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài ho ặc từ thi trường h àng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngo ại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá.
  3. + Ch ế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng. + Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không mong muốn. 2.2.1.2. Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay): Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào tháng 7/1976, tại hội nghị Jamaica, các thành viên của IMF đ• thống nhất đưa ra những quy định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là "t ỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả nổi" đ ược các thành viên IMF chấp nhận. Theo chế độ mới, tỷ giá được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường m à cụ thể là quy lu ật cung - cầu ngoại tệ. NHTW các nước không có b ất kỳ một tuyên bố hay cam kết nào về chỉ đạo, điều hành tỷ giá. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi: + Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nước nào đó có cán cân v•ng lai thâm hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cho đến khi cán cân thanh toán trở n ên cân bằng. + Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ. + Góp phần ổn định kinh tế, tránh được những cú sốc bất lợi từ bên ngoài, vì khi giá cả nước ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều chỉnh theo cơ ch ế PPP để ngăn ngừa các tác động ngo ại lai. - Nhược điểm:
  4. + Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ làm méo mó, sai lệch thị trường, có khả năng gây nên lạm phát cao và tăng nợ nước ngoài. + Hạn chế các hoạt động đầu tư và tín dụng do tâm lý lo sợ sự biến động theo hướng bất lợi của tỷ giá. Khi mới ra đời, chế độ tỷ giá thả nổi tự do được cho là phương thức hữu hiệu vạn năng cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế chứng minh rằng, càng thả nổi tỷ giá thì sự phát triển kinh tế càng kém ổn định. Bởi lẽ, biến động của tỷ giá rất phức tạp, chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, tâm lý, x• hội... đặc biệt là nạn đầu cơ. Trên thực tế th ì lại không có thị trường thuần tuý n ên không thể có một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Sự can thiệp của Chính phủ vào th ị trường ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái có những diễn biến thuận lợi hơn nên chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý ngày càng được nhiều quốc gia lựa chọn đặc biệt là các nước đang phát triển. 2.2.1.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi): Đây là ch ế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. ở đó, tỷ giá đư ợc xác định và hoạt động theo quy luật thị trư ờng, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép. Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ: - Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó.
  5. - Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá chính thức có vai trò d ẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ. - Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp. Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" hay "cố định bò trườn" có nhiều tính ưu việt h ơn và được nhiều nước sử dụng, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" hay "bò trườn" ở mức độ bao nhiêu nên gần với thả nổi hay gần với cố định hơn? biên độ dao động là bao nhiêu? Rất khó để đưa ra một câu trả lời chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nh ìn chung, đối với các nư ớc kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một hệ thống công cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các chính sách còn thiếu đồng bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngo ại tệ còn hạn hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý tỏ ra là một chính sách hợp lý nhất. 2.2.2 Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh 2 vấn đề chính : Mối quan hệ giữa các nền kinh tế quốc gia với cả hệ thống to àn cầu và mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế trong nước. Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá là lựa chọn hệ thống mở của hay đóng cửa.Các ph ương án lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc tỷ giá cố định hoặc tỷ giá linh hoạt.Một quốc gia lựa chọn tỷ giá cố định tức là
  6. chấp nhận sự ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc gia.Các chính sách kinh tế của quốc gia phải phù hợp với duy trì tỷ giá hối đoái cố định,vì vậy việc ho ạch định chính sách đối nội trở th ành ngoại sinh và tuân thủ theo thoả ước tỷ giá.Từ đó có thể thấy rằng sự lựa chọn này ngang với việc áp đặt các ràng buộc quốc tế vào các chính sách kinh tế quốc gia.Nói rộng hơn, lựa chọn cơ chế tỷ giá cố định tương đươn g với lựa chọn một hệ thống mở cửa,trong đó luôn có sự tương tác giữa các nhân tố quốc gia và cả hệ thống thế giới.Ngược lại,phương án tỷ giá linh hoạt, về nguyên tắc không chấp nhận một sự ràng buộc n ào vào các chính sách kinh tế đối nội.Các chính sách có tác động gì đ i nữa thì sự giao động tỷ giá sẽ giữ chúng chỉ gây ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia.Và tương ứng với điều đó,kết quả của các chính sách kinh tế nước ngoài dù thế nào đi chăng nữa thì điều chỉnh tỷ giá sẽ giữ chúng ngoài phạm vi quốc gia.Thực tế, lựa chọn này giữ cho chính sách quốc gia không b ị ràng buộc quốc tế.Nói rộng hơn,lựa chọn cơ chế hối đoái linh hoạt sẽ tach rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trường quốc tế. Thứ hai, chúng ta cần quan tâm đến mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế đối nội.Mức độ n ày khác nhau rõ ràng giữa việc lựa chọn nột trong hai loại chế độ tỷ giá.Vì t ỷ giá cố định thể hiện sự cam kết áp đ ặt các ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc gia, có nghĩa rằng không thể theo đuổi các chính sách kinh tế đối nội một cách độc lập.Ngược lại,tỷ giá linh hoạt là một công cụ có thể sử dụng để giữ cho các ho ạt động kinh tế của hệ thống quốc tế không ảnh hưởng tới các chính sách quốc gia.Vì vậy có thể theo đuổi các chính sách quốc gia mà
  7. không cần quan tâm đến thế giới b ên ngoài và như vậy đặc thù của chúng là h ệ thống đóng. Chương 2 Sự ảnh hưởng của chính sách tỷ giá hối đoái tới tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam 1. Sự h ình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đo ạn trước tháng 3/1989 th ời kế hoạch hoá , tập trung kinh tế. Năm 1950 được coi như là một cái mốc khi mà Trung Quốc , Liên Xô và các nước chủ nghĩa x• hội Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam , đặt nền móng đầu tiên cho việc hình thành các quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước.Trong hai năm liên tiếp,1952-1953,Việt Nam lần lượt kí hiệp định thương m ại và nghị định thư mậu dịch tiểu nghạch với Trung Quốc.Từ ngày 25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức đ ược quy định giữa đồng Việt Nam(VND) và nhân dân tệ Trung Quốc(CNY) là 1 CNY=1470 VND. Tỷ giá giá này được xác định dựa trên việc so sánh giá bán lẻ của 34 mặt h àng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn của hai nước. Vào thời điểm n ày, t ỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ của Trung Quốc (CNY) là 1 CNY = 2 SUR. Từ
  8. đó,tỷ giá tính chéo tạm thời giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND.Sau đợt đổi tiền vào đ ầu năm 1959 (1 đồng Việt Nam mới bằng 1000 đồng Việt Nam cũ) cũng đ• có những điều chỉnh tỷ giá tương ứng với sự thay đổi mệnh giá của đồng tiền (1SUR = 0,735VND). Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô được điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND,do hàm lượng vàng trong đồng Rup được điều chỉnh tăng 4,44 lần. Năm 1977, các nư ớc x• hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rup chuyển nhượng ( là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối với tỷ giá được quy định sao cho tài kho ản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đ• được ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng zero ) có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển như ợng. Bên cạnh tỷ giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1SUR=5,64VND , được hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh giá cả hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá h àng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955, 1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị kinh tế Nhà nước có thu chi ngoại tệ với ngân hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại th ương. Tỷ giá kết toán nội bộ này được xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới được điều chỉnh lại là 1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1SUR=150VND , cuối năm 1988 m ới được điều chỉnh lại là 1SUR=700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 th ì hu ỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ
  9. trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985 ) thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải được tính đến ( nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngo ài vào năm 1987). Và TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đ• được xác định một cách chủ quan theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup ( năm 1985: 1SUR=18VND và m ối tương quan Dola-Rup xem như tương đương 1:1.Do đó, TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND ) . Cũng bắt đầu từ năm này, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là th ị trường Dola Mỹ bắt đầu bột phát một cách mạnh mẽ vơí sự trợ lực của ba dòng ch ảy là: dòng kiều hối của kiều bào đổ về thay thế dân cho những kiện h àng quà biếu mà một phần đáng kể là dưới h ình thức bất hợp pháp. Những lượng lớn Dola Mỹ đư ợc cất trữ từ khi miền Nam đ ược giải phóng bởi các tiểu tư sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít nhiều.Thứ ba, cùng với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ th ì dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức TGHD trên thị trường chợ đen đư ợc h ình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị trựờng đ• có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá chính th ức, sự bất hợp lý trong việc xác lập TGHD ở giai đoạn này thực chất không quan trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì tỷ giá là một loại giá cả, mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việc có ảnh hưởng xấu đến ngân sách Nhà nước. Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố định trong thời gian tương đối d ài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2