Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
LAÏM PHAÙT VAØ TAÊNG TRÖÔÛNG KINH TEÁ ÔÛ VIEÄT NAM<br />
THÖÏC TRAÏNG VAØ GIAÛI PHAÙP<br />
Leâ Vaên Haûi<br />
Tröôøng Ñaïi hoïc Ngaân haøng thaønh phoá Hoà Chí Minh<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế, xã hội tùy theo<br />
mức độ của nó. Ở Việt Nam, lạm phát mấy năm gần đây có xu hướng giảm, song vẫn cao<br />
hơn tăng trưởng kinh tế. Lạm phát ở Việt Nam diễn biến thất thường. Tỷ lệ lạm phát gia<br />
tăng và biến động thất thường trong giai đoạn 2007 – 2013 đã tác động xấu đến tốc độ<br />
phát triển của nền kinh tế. Việc kiểm soát lạm phát có ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng<br />
kinh tế. Để kiểm soát được lạm phát, Nhà nước cần xác định các chỉ số lạm phát và tăng<br />
trưởng kinh tế phù hợp trong từng thời kỳ cụ thể, tác động vào cung tiền tệ, mở rộng cầu<br />
tiền tệ, sử dụng hiệu quả các công cụ chính của chính sách tiền tệ.<br />
Từ khóa: lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tiền tệ<br />
*<br />
1. Đặt vấn đề thực sự tác động lên tăng trưởng kinh tế.<br />
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn có Nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng<br />
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Khi ở mức trưởng kinh tế thì lạm phát sẽ xảy ra, nếu<br />
vừa phải, lạm phát có thể là động lực để nền giữ cung tiền ổn định thì tăng trưởng kinh tế<br />
kinh tế phát triển. Lạm phát quá cao cản trở cao sẽ làm giảm lạm phát.<br />
sự tăng trưởng của nền kinh tế. Theo Về lý thuyết, các nhà kinh tế học đưa ra<br />
Keynes, trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng<br />
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nghĩa kinh tế không phải một chiều mà có sự tác<br />
là, muốn cho tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ động qua lại. Muốn tăng trưởng kinh tế cao<br />
cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát thì phải chấp nhận lạm phát, mối quan hệ<br />
nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng này không tồn tại mãi. Một lúc nào đó, lạm<br />
trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều. phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng<br />
Sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận trưởng kinh tế. Trong dài hạn, khi tăng<br />
tăng lạm phát thì tăng trưởng kinh tế cũng trưởng kinh tế đã đạt đến mức tối ưu thì<br />
không tăng thêm mà có xu hướng giảm. Mối lạm phát không tác động đến tăng trưởng<br />
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm nữa mà là kết quả của việc tăng cung tiền<br />
phát mang dấu dương. Theo chủ nghĩa trọng quá mức vào nền kinh tế. Lạm phát luôn là<br />
tiền (đại diện là Milton Fredman), lạm phát một vấn đề nóng bỏng từng ngày, từng giờ<br />
là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc và thay đổi liên tục, khi thì ổn định, khi<br />
tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ giảm xuống hoặc bùng nổ bất kỳ lúc nào.<br />
tăng trưởng kinh tế. Nghĩa là, trong dài hạn, Vì vậy, lạm phát luôn là một vấn đề mà các<br />
giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không nhà hoạch định chính sách kinh tế quan tâm.<br />
<br />
31<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (20) – 2015<br />
<br />
Không riêng gì các quốc gia có nền số), làm cho nền kinh tế cũng ở trong tình<br />
kinh tế phát triển (như Hoa Kỳ, Nhật, Đức, trạng không kiểm soát được, giá cả tăng vọt,<br />
Pháp, Anh…) mà đối với mọi quốc gia trên lưu thông tiền tệ rối loạn, đồng tiền mất giá<br />
thế giới thì vấn đề lạm phát luôn ảnh hưởng thê thảm, đời sống người lao động điêu<br />
trực tiếp đến sự phát triển nền kinh tế. Đối đứng… gây nên những hậu quả khó lường<br />
với Việt Nam cũng vậy, nền kinh tế đã từng cho nền kinh tế xã hội.<br />
chịu ảnh hưởng nặng nề của lạm phát. Vấn Ở Việt Nam đã trải qua những thời kỳ<br />
đề đặt ra là nếu lạm phát thấp thì tăng lạm phát tới 3, 4 chữ số. Khi đó giá cả tăng<br />
trưởng kinh tế chậm, còn lạm phát cao thì lên chóng mặt. Chẳng hạn, năm 1983, một<br />
sẽ chứa đựng những mầm mống khó lường khách hàng gửi hai sổ tiết kiệm thuộc Ngân<br />
trong tiến trình phát triển bền vững của nền hàng Nhà nước Việt Nam với tổng mức<br />
kinh tế. Chính vì vậy, cái khó hiện nay mà tiền gửi là 270 đồng - tương đương với hai<br />
mỗi quốc gia đang đối mặt là duy trì mức chỉ vàng thời đó. Sau 31 năm, khách hàng<br />
lạm phát thế nào là hợp lý trong từng điều đó rút toàn bộ với số tiền cả gốc và lãi là<br />
kiện cụ thể. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và 4.835 đồng. Số tiền này chưa đủ mua một<br />
kiềm chế lạm phát luôn là một bài toán khó mớ rau muống ở bất kỳ thành phố nào trên<br />
mà những nhà kinh tế cần phải tìm lời giải. cả nước... Việc nhiều người khác nữa gửi<br />
Lạm phát thể hiện trong mối quan hệ tiết kiệm, mua công trái trong thời điểm đó,<br />
với tăng trưởng kinh tế thông qua các nội do nhà nước huy động tiền trong dân để xây<br />
dung: sự phân phối lại thu nhập, của cải dựng đất nước. Nhiều năm sau đó, đồng tiền<br />
giữa nhóm người khác nhau và những biến mất giá tới mức, những năm 90 của thế kỷ<br />
động về giá tương đối, sản lượng của trước, có hẳn một chiến dịch thu mua lại trái<br />
những hàng hóa khác nhau và việc làm đối phiếu với giá rẻ như bèo. Việc đổi tiền theo<br />
với nền kinh tế nói chung. Cụ thể là thông phương thức 10 đồng nhận một đồng và tốc<br />
qua quan hệ của lạm phát và lãi suất, lạm độ lạm phát vẫn tiếp tục phi mã thời đó đã<br />
phát và thu nhập, lạm phát và đầu tư, lạm khiến tiền mất giá, các tờ công trái chẳng<br />
phát và thất nghiệp. còn giá trị. Đó là hậu quả của những cơn<br />
lạm phát với tốc độ 3, 4 chữ số.<br />
Lạm phát là một phạm trù kinh tế<br />
khách quan, là vấn đề của mọi thời đại và 2. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở<br />
của mọi nền kinh tế thị trường. Khi lạm Việt Nam (2007 – 2013)<br />
phát xuất hiện thì sẽ có những câu hỏi đặt Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát là<br />
ra: lạm phát tác động đối với nền kinh tế ở hai chỉ số kinh tế quan trọng luôn nhận<br />
mức nào thì tốt, mức nào thì xấu? Những được sự quan tâm đặc biệt từ phía các nhà<br />
nguyên nhân gây nên lạm phát? Để kiểm hoạch định chính sách cũng như của người<br />
soát lạm phát thì cần phải có những chính dân. Một chính sách kinh tế điều hành tốt<br />
sách điều hành nền kinh tế ra sao và hiệu sẽ giữ được nền kinh tế ở mức lạm phát<br />
quả của những chính sách đó. Một chính thấp (vừa phải), tăng trưởng cao; ngược lại,<br />
sách điều hành kinh tế tốt thì lạm phát trở một chính sách điều hành không hiệu quả<br />
thành động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ; sẽ gây ra lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô<br />
ngược lại khi một chính sách điều hành khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại<br />
kinh tế không tốt làm cho lạm phát tăng cao và hậu quả của nó là doanh nghiệp phá sản,<br />
ở mức không kiểm soát được (3 hoặc 4 chữ người lao động mất việc làm, đồng tiền bị<br />
<br />
32<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015<br />
<br />
mất giá, cuộc sống của người dân trở nên tiêu. Từ đó, bóp nghẹt người đi vay vì các<br />
khó khăn hơn. khoản nợ trở nên khó thanh toán hơn, đây<br />
Qua biểu đồ về tăng trưởng kinh tế và cũng là yếu tố từng làm cho nhiều quốc gia<br />
lạm phát cho thấy rõ sự khác biệt về hiệu dẫn đến suy thoái kinh tế và Việt Nam cũng<br />
quả trong điều hành chính sách kinh tế của đã vậy. Lúc này, lạm phát lại được xem<br />
Chính phủ qua từng năm đối với nền kinh như “chiếc phao cứu sinh” cho các nhà<br />
tế thể hiện qua hai chỉ số kinh tế là tỷ lệ hoạch định chính sách. Vậy lạm phát đối<br />
tăng trưởng kinh tế và lạm phát. với nền kinh tế Việt Nam bao nhiêu là vừa<br />
phải? Đây là một câu hỏi khó cho các nhà<br />
Biểu đồ tăng trưởng kinh tế và lạm phát<br />
hoạch định chính sách. Hiện nay lạm phát<br />
25<br />
dao động xung quanh 5%, thấp hơn tăng<br />
20 trưởng kinh tế; ở mức này giúp ổn định<br />
15<br />
<br />
10<br />
GDP kinh tế vĩ mô, nhưng mặt trái là các doanh<br />
LP<br />
5 nghiệp đang dựa vào vốn của ngân hàng,<br />
0<br />
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 nếu quản lý lạm phát chặt quá thì là khó<br />
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các<br />
Nguồn : Tổng cục thống kê doanh nghiệp, dẫn đến hoạt động kinh<br />
Qua biểu đồ trên, tuy lạm phát mấy doanh của các ngân hàng cũng khó theo.<br />
năm gần đây có xu hướng giảm, song vẫn Năm 2014, là năm đầu tiên sau hàng chục<br />
cao hơn tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt tốc năm lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế,<br />
độ tăng giảm lạm phát thất thường, năm vui chưa mấy, nhưng lỗi lo đã ập tới. Vấn<br />
2008 lên tới 22,97%, năm 2009 lại tụt đề lạm phát trong mối quan hệ với tăng<br />
xuống 6,88% và năm 2011 là 18,58% đến trưởng sẽ còn rất dài. Bởi những yếu tố bất<br />
năm 2012 xuống 9,21%. Lên cao xuống ngờ của lạm phát và cách tính toán tăng<br />
thấp đột biến như vậy, đối với phát triển trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn luôn được<br />
kinh tế không phải là tốt; đồng thời cũng quan tâm trong lĩnh vực nghiên cứu từ lý<br />
nói lên việc điều hành chính sách kiềm chế luận đến thực tiễn.<br />
lạm phát của Chính phủ chưa hiệu quả. Lạm phát ở Việt Nam diễn biến thất<br />
Đối với Việt Nam thì lạm phát luôn là thường. Khi dự kiến thấp thì lên cao và<br />
vấn đề đáng quan tâm, mặc dù trong năm ngược lại. Khởi đầu kế hoạch 2006 – 2010,<br />
2012 lạm phát có xu hướng giảm về một với tỷ lệ lạm phát năm 2006 là 6,6%. Lạm<br />
con số là 6,81% và đến năm 2014 lạm phát phát bình quân năm 2007 là 8,3% so với<br />
đã giảm đến mức thấp nhất trong hơn chục năm 2006, nguyên nhân tăng cao là ngoài<br />
năm qua (dự kiến là dừng lạm phát ở mức việc đặc điểm lạm phát tăng cao ở quý 1 thì<br />
dưới 5%). Tuy nhiên, lạm phát giảm ở mức năm 2007 lạm phát tăng mạnh ở quý 4.<br />
không phù hợp dẫn đến giảm phát; điều này Điều này cho thấy sẽ có xu hướng lạm phát<br />
mới nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng lại là bóng sẽ tăng trong năm tới. Trong cấu thành CPI<br />
ma đang đe dọa cả nền kinh tế? Các nhà năm 2007, chỉ số giá lương thực – thực<br />
kinh tế rất e sợ khi người dân có thể mua phẩm chiếm khoảng 65% mức tăng của lạm<br />
được nhiều hàng hóa hơn với một số tiền phát nên đây là động lực chủ yếu tác động<br />
không đổi? Nhưng khi lạm phát quay trở lại, làm lạm phát tăng cao. Nguyên nhân chủ<br />
doanh nghiệp và người dân sẽ ngừng chi yếu tác động đến lạm phát năm 2007 là sự<br />
<br />
33<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (20) – 2015<br />
<br />
tăng giá mạnh của các mặt hàng thiết yếu Lạm phát năm 2009 và năm 2010 có xu<br />
như dầu thô, lương thực, thép… Vì nền hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Cụ thể,<br />
kinh tế Việt Nam có mức độ mở cửa với lạm phát bình quân năm 2009 so với mức<br />
nền kinh tế thế giới (thể hiện ở nhập khẩu lạm phát tăng bình quân năm 2008 là 6,88%,<br />
chiếm đến 70% GDP và khoảng 70% hàng diễn biến lạm phát của các tháng năm 2009<br />
xuất khẩu là có nguyên liệu từ hàng nhập tương đối ổn định. Đến năm 2010, mức lạm<br />
khẩu) nên việc giá thế giới tăng sẽ tác động phát vẫn ở một con số là 9,19%, những<br />
mạnh đến giá cả trong nước. Ngoài ra, diễn tháng đầu năm 2010, lạm phát tương đối ổn<br />
biến thời tiết trong nước không thuận lợi định, đến quý 4, lạm phát lại có xu hướng<br />
cùng với chi phí sản xuất đầu vào tăng cao tăng cao. Nguyên nhân là do giá cả các hàng<br />
đã ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất nông hóa thiết yếu thế giới gia tăng làm cho giá<br />
nghiệp (làm giảm lượng cung lương thực, các hàng hóa nhập khẩu tăng cao, tác động<br />
thực phẩm). Mặt khác, hiệu quả sử dụng đến mặt bằng giá trong nước.<br />
vốn không cao và chi tiêu công còn lớn nên Diễn biến lạm phát vào những tháng<br />
đã tác động nhiều đến lạm phát. cuối năm 2010 đã tác động lớn đến mức<br />
Năm 2008, lạm phát tăng mạnh so với lạm phát của năm 2011. Điều này được thể<br />
năm 2007 và diễn biến tương đối phức tạp. hiện rõ khi mức tăng lạm phát bình quân<br />
Quý 1 và quý 2, lạm phát tăng rất nhanh năm 2011 so với năm 2010 là 18,58%. Mức<br />
trong đó tháng 2 và tháng 5 tăng mạnh nhất, lạm phát hai con số vào năm 2008 đã được<br />
lần lượt tháng 2 tăng 3,6% so với tháng 1 lập lại vào năm 2011, mức lạm phát những<br />
đến tháng 5, lạm phát tăng 3,9% so với tháng đầu năm 2011 luôn tăng ở mức cao.<br />
tháng 4 (tăng 25,2% so với cùng kỳ năm Quý 1 và quý 2 năm 2011 mức lạm phát<br />
2007). Quý 3, quý 4 thì lạm phát có xu tăng cao, những quý tiếp theo, lạm phát có<br />
hướng giảm và đến quý 4/2008, có hiện xu hướng giảm. Những tháng cuối năm<br />
tượng giảm phát (tháng 10, tháng 11, tháng 2011, lạm phát đã được kiềm chế ở mức<br />
12, lạm phát lần lượt là - 0,2%; - 0,8%; - tăng thấp. Đến năm 2012 mức lạm phát vẫn<br />
0,7%). Tuy nhiên, lạm phát bình quân năm tăng ở mức thấp (9,21%).<br />
2008 đạt mức 22,97%. Trong đó, nhóm Năm 2013 quay trở về mức 6,04%.<br />
lương thực thực phẩm tăng mạnh từ mức Thành công của việc kiềm chế lạm phát<br />
18,92% năm 2007 lên 31,86% năm 2008. 2013 có sự đóng góp của nhiều yếu tố,<br />
Mức lạm phát là hai con số có tác động trong đó lớn nhất là yếu tố cầu kéo năm<br />
nhiều đến tình hình kinh tế cũng như là đời 2013, năm thứ ba liên tục bị “co lại” nhanh.<br />
sống của người dân. Lạm phát tăng cao do Vốn đầu tư phát triển/GDP giảm (từ 39,2%/<br />
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do năm trong thời gian 2006-2010 xuống còn<br />
những tháng đầu năm giá cả thế giới như khoảng 30,5% trong thời gian 2011-2013,<br />
lương thực, thực phẩm và nhiều mặt hàng thấp nhất trong mấy chục năm qua, trong<br />
thiết yếu như dầu thô, gas, thép… tăng cao đó vốn đầu tư từ ngân sách vừa giảm về tỷ<br />
đã tạo nên những sức ép làm tăng mặt bằng trọng, vừa giảm về quy mô tuyệt đối).<br />
giá trong nước. Ngoài ra nguồn vốn nước Chênh lệch giữa tỷ lệ vốn đầu tư/GDP với<br />
ngoài vào Việt Nam tăng mạnh và hiệu quả tỷ lệ để dành/GDP đã giảm nhanh (từ bình<br />
sử dụng vốn chưa cao nên cũng tác động quân 8,26%/năm thời kỳ 2007-2010 còn<br />
nhiều đến lạm phát trong nước. dưới 1% thời kỳ 2011-2013).<br />
<br />
34<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015<br />
<br />
Một số nguyên nhân chính gây nên lạm được tốc độ tăng trưởng cao trung bình<br />
phát giai đoạn 2007 – 2013 là: 7,5%. Động lực chủ yếu là sự phát triển<br />
– Sự biến động của nền kinh tế thế giới. nhanh chóng của ngành công nghiệp và<br />
Biến động giá cả của các nguyên vật liệu dịch vụ. Chính vì vậy, diện mạo đất nước<br />
dùng để sản xuất trên thế giới đã ảnh hưởng đã đổi thay và đời sống nhân dân được cải<br />
rất nhiều đến lạm phát do Việt Nam nhập thiện sau 20 năm đổi mới. Tuy nhiên, cũng<br />
khẩu nhiều nguyên vật liệu để phục vụ sản vì mức tăng trưởng nhanh chóng này đã tạo<br />
xuất kinh doanh. ra một số khó khăn, thách thức. Một trong<br />
những thách thức đó là cần có một nền tảng<br />
– Điều hành các chính sách kinh tế của<br />
vĩ mô tốt để đáp ứng kịp thời so với những<br />
Nhà nước còn nhiều bất cập. Trong báo cáo<br />
đòi hỏi mà nền kinh tế đã đề ra. Tình trạng<br />
Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính<br />
thiếu hụt cơ sở hạ tầng, công nghệ kỹ thuật<br />
phủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu<br />
và lao động có tay nghề. Với mục tiêu tăng<br />
gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của<br />
trưởng kinh tế là ưu tiên hàng đầu thì<br />
việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa<br />
những khó khăn trước mắt này đã tạo áp<br />
kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu<br />
lực cho chính phủ gia tăng chi tiêu ngân<br />
cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã<br />
sách để cải thiện môi trường đầu tư. Sự gia<br />
hội và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh<br />
tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài nên<br />
tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng<br />
nhu cầu đầu tư cho máy móc, công nghệ có<br />
những hạn chế trong quản lý điều hành và<br />
nhu cầu tăng. Chính vì vậy đã làm cho tổng<br />
tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”.<br />
lượng cầu trong nước tăng cao. Ngoài ra,<br />
– Lạm phát do chi phí đẩy. Giá thành là Việt Nam đã và đang theo đuổi những<br />
bộ phận chính cấu tạo nên giá cả của sản chính sách có định hướng thâm hụt nhằm<br />
phẩm. Khi giá thành tăng cao, giá cả cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt<br />
tăng lên và đây là một trong những nguyên ngân sách diễn ra trong khoảng hơn một<br />
nhân chính của lạm phát. Việt Nam là một thập kỷ qua và có mức độ ngày càng tăng.<br />
đất nước đang phát triển, để phục vụ nhu Thâm hụt ngân sách, không bao gồm chi trả<br />
cầu sản xuất phải nhập khẩu nhiều các mặt nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai<br />
hàng máy móc trang thiết bị, nguyên vật đoạn 2003 – 2007 chỉ là 1,3%GDP, nhưng<br />
liệu, dầu…. Trong khi đó, giá cả của các con số này đã tăng gấp đôi lên 2,7%GDP<br />
mặt hàng này trên thế giới đang tăng cao đã trong giai đoạn 2008 – 2012. Việc thâm hụt<br />
làm đội lên giá thành sản xuất. Ngoài ra, ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng<br />
chi phí về lãi suất vay quá cao vừa là biện nhanh nợ công. Tổng nợ công của Việt<br />
pháp kiềm chế lạm phát nhưng đồng thời Nam đã tăng nhanh từ 40%GDP vào năm<br />
nó sẽ làm cho chi phí tài chính của doanh 2007 lên đến hơn 57%GDP vào cuối năm<br />
nghiệp gia tăng, điều này sẽ góp phần làm 2010. Cùng khoảng thời gian đó, nợ nước<br />
tăng giá cả hàng hóa khi doanh nghiệp ngoài của Việt Nam cũng tăng từ 32% lên<br />
chuyển chi phí sang cho người tiêu dùng và đến gần 42%GDP.<br />
đẩy lạm phát tăng lên cao.<br />
– Tăng trưởng tiền tệ và tín dụng không<br />
– Gia tăng tổng cầu gây nên sự tăng phù hợp. Một nguyên nhân khác gây nên<br />
trưởng quá nóng tại Việt Nam. Việt Nam mức lạm phát chính trong thời gian vừa qua<br />
trong vòng 10 năm gần đây do luôn duy trì là do mức tăng trưởng tiền tệ và tín dụng tư<br />
<br />
35<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (20) – 2015<br />
<br />
đầu năm 2007. Về mức cung tiền, trong năng cung ứng hàng hóa cho nền kinh tế, từ<br />
năm 2007 số lượng đã tăng đột biến so với đó hạn chế sự mất cân đối giữa tổng cung<br />
các năm trước. Nguyên nhân chủ yếu là khi và tổng cầu, giá cả sẽ được ổn định lâu dài.<br />
gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút được Trước hết, cần thực hiện chính sách mở<br />
một số lượng lớn đầu tư từ nước ngoài. rộng tín dụng nhằm khuyến khích đầu tư,<br />
Ngoài ra, thâm hụt tài khóa sẽ được tài trợ đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất…<br />
phần lớn bởi vay nợ thông qua phát hành để nâng cao năng lực sản xuất xã hội, nâng<br />
trái phiếu Chính phủ (thậm chí là ứng trước cao năng suất lao động, hạ giá thành sản<br />
ngân sách) làm tăng cung tiền và gây ra phẩm… Đây là biện pháp tích cực mang<br />
lạm phát cao cho nền kinh tế. tính chất lâu dài vì vừa có thể ổn định được<br />
3. Một số giải pháp kiểm soát lạm giá cả, vừa đưa nền kinh tế phát triển. Tuy<br />
phát nhiên, biện pháp này không thể mang lại<br />
kết quả nhanh chóng được. Việc mở rộng<br />
Thứ nhất, cần xác định chỉ số lạm phát<br />
tín dụng, khuyến khích đầu tư thì thời gian<br />
và tăng trưởng kinh tế phù hợp trong từng<br />
đầu sẽ làm tổng cầu gia tăng lên, giá cả sẽ<br />
thời kỳ cụ thể. Hiện nay, lạm phát dao động<br />
tăng nhanh nên còn có thể gọi đây là biện<br />
xung quanh 5%, mức này giúp ổn định kinh<br />
pháp dùng lạm phát chống lạm phát.<br />
tế vĩ mô, nhưng mặt trái là các doanh<br />
nghiệp đang dựa vào vốn của ngân hàng, Thứ tư, sử dụng hiệu quả các công cụ<br />
nếu kiểm soát lạm phát chặt quá, sẽ làm chính của chính sách tiền tệ. Các công cụ<br />
khó cho hoạt động của các doanh nghiệp, của chính sách tiền tệ là các hoạt động của<br />
dẫn đến hoạt động các ngân hàng cũng khó Ngân hàng Nhà nước nhằm tác động trực<br />
theo. Vì vậy, Chính phủ điều hành các tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền tệ<br />
chính sách kinh tế sao cho vừa đảm bảo trong lưu thông và lãi suất trên thị trường.<br />
mục tiêu kiểm soát được lạm phát, vưa thúc Công cụ gián tiếp, như nghiệp vụ thị trường<br />
đẩy sản xuất kinh doanh cho các doanh mở, chính sách tái chiết khấu, dự trữ bắt<br />
nghiệp và ngân hàng. buộc và tỷ giá. Ngược lại là công cụ trực<br />
tiếp, gồm ấn định khung lãi suất và hạn<br />
Thứ hai, tác động vào cung tiền tệ.<br />
mức tín dụng. Sử dụng hiệu quả các công<br />
Những nhân tố tác động trực tiếp đến lạm<br />
cụ của chính sách tiền tệ có tác dụng nhanh<br />
phát là cung và cầu tiền tệ. Tùy theo từng<br />
và hiệu quả ngay vì nó quyết định đến mức<br />
trường hợp, cung tiền tệ cần thắt chặt hay<br />
cung ứng tiền tệ trên thị trường. Tuy nhiên,<br />
mở rộng. Khi lạm phát tăng cao sử dụng<br />
không phải lúc nào sử dụng các công cụ<br />
biện pháp thắt chặt cung tiền tệ. Đây là<br />
của chính sách tiền tệ là giải pháp tối ưu<br />
những biện pháp nhằm hạn chế sự gia tăng<br />
cho bất kỳ một nền kinh tế nào. Muốn giảm<br />
của tổng cầu hàng hóa từ đó thu hẹp mức<br />
áp lực lạm phát cần phải phối hợp đồng bộ<br />
chênh lệch quá mức giữa tổng cầu và tổng<br />
với các chính sách tài khóa và bình ổn kinh<br />
cung hàng hóa, giá cả sẽ dần dần ổn định<br />
tế vĩ mô khác, đặc biệt là các nước có độ ổn<br />
trở lại.<br />
định của nền kinh tế vĩ mô còn kém như<br />
Thứ ba, mở rộng cầu tiền tệ. Ngược lại Việt Nam.<br />
với biện pháp thắt chặt cung tiền tệ để tác<br />
động làm giảm tổng cầu hàng hóa, mở rộng<br />
cầu tiền tệ hướng tới việc làm tăng khả<br />
<br />
36<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015<br />
<br />
INFLATION AND ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM –<br />
REALITY AND SOLUTION<br />
Le Van Hai<br />
Banking University Ho Chi Minh City<br />
ABSTRACT<br />
Inflation is an objective economic category of market economy, with implications for the<br />
economy, both positively and negatively. In Vietnam, the inflation in recent years has tended<br />
to reduce, but still higher than the economic growth. Inflation in Vietnam occur erratically.<br />
Rate of rising inflation and erratic fluctuations in the period 2007 – 2013 adverse impact on<br />
the pace of economic development. To control inflation, the State need verify inflation indexes<br />
and economic growth fitting together in each specific period, impacting on money supply,<br />
money bridge expansion, using effectively main tools of money policies.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Chu Khánh Lân (2010), Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam và gợi ý chính sách, Học viện<br />
Ngân hàng.<br />
[2] David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dorbusch (2008), Kinh tế học (phiên bản thứ 8), NXB<br />
Thống kê, Hà Nội.<br />
[3] Khuất Duy Tuấn (2011), Bàn về sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ<br />
trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng.<br />
[4] Nguyễn Quách Minh Hồng (2010), Sử dụng công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát<br />
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.<br />
[5] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011,<br />
2012 và 2013.<br />
[6] Paul A Samuelson, Wiliam D.Nordhalls (2011), Kinh tế học, tập 2, NXB Tài Chính, Hà Nội.<br />
[7] Ủy ban kinh tế của Quốc hội (2012), Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính sách<br />
tiền tệ ở Việt Nam, NXB Tri thức, Hà Nội.<br />
[8] Ủy ban kinh tế, địa chỉ: http://ecna.gov.vn<br />
[9] Bộ tài chính, địa chỉ: http://www.mof.gov.vn 23.<br />
[10] Tổng cục Thống kê, địa chỉ: http://www.gso.gov.vn<br />
[11] Ngân hàng Nhà nước, địa chỉ: http://www.sbv.gov.vn<br />
[12] Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, địa chỉ: http://www.vnba.org.vn<br />
[13] Ngân hàng Thế giới, địa chỉ: web.worldbank.org.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
37<br />