intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Làng truyền thống của người Ba Na Rơ Ngao ở Kon Tum

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

36
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích các đặc điểm về làng truyền thống của người Ba Na Rơ Ngao ở Kon Tum. Qua đó thấy được vị trí, chức năng của làng gắn bó mật thiết với đời sống của người Rơ Ngao ở Kon Tum nói riêng, các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Làng truyền thống của người Ba Na Rơ Ngao ở Kon Tum

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 76 (04/2021) No. 76 (04/2021) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ LÀNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI BA NA RƠ NGAO Ở KON TUM Ba Na Rơ Ngao’s traditional village in Kon Tum province ThS. Nguyễn Thị Nguyên Lê Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM TÓM TẮT Trên cơ sở tiếp cận các tư liệu, hình ảnh, vật dụng, trang phục… của người Ba Na Rơ Ngao tại Bảo tàng Kon Tum; một số công trình nghiên cứu về các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên của các tác giả đi trước; qua khảo sát thực tế và phỏng vấn sâu người dân Ba Na Rơ Ngao, cùng với những người có chức sắc, bài viết phân tích các đặc điểm về làng truyền thống của người Ba Na Rơ Ngao ở Kon Tum. Qua đó thấy được vị trí, chức năng của làng gắn bó mật thiết với đời sống của người Rơ Ngao ở Kon Tum nói riêng, các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên nói chung. Từ khóa: Ba Na, Kon Tum, làng, Tây Nguyên, truyền thống, Rơ Ngao ABSTRACT On the basis of accessing documents, images, objects, costumes... of the Ba Na Rơ Ngao people at Kon Tum Museum; some studies on the ethnic minorities in the Central Highlands of the previous authors, through field surveys and in-depth interviews with Ba Na Rơ Ngao people, together with people with dignitaries, the article analyzes the characteristics of traditional villages of the Ba Na Rơ Ngao people in Kon Tum province. Thereby, it can be seen that the position and function of the village is closely related to the life of the Rơ Ngao people in Kon Tum in particular, and the local ethnic groups in the Central Highlands in general. Keywords: Ba Na, Central Highands, Kon Tum, tradition, Rơ Ngao, village 1. Mở đầu làng của các tộc người cụ thể. Chẳng hạn: Theo nghĩa tiếng Việt “Làng là đơn vị làng (Việt), người Ba Na gọi là kon, người dân cư nhỏ nhất ở nông thôn vùng đồng Gia rai gọi là plei, người Ê đê gọi là buôn, bằng và trung du Việt Nam, thường có đời người Xơ Đăng gọi là pơ lê, v.v. Đây là tổ sống riêng về nhiều mặt” (Hoàng Phê, chức xã hội cổ truyền có vị trí quan trọng 2014). Ở Tây Nguyên, các dân tộc tại chỗ trong đời sống cộng đồng các DTTC ở Tây (DTTC) có đơn vị dân cư tương ứng với Nguyên nói chung và ở Kon Tum nói riêng. làng của người Việt. Tùy theo cách sử dụng Tỉnh Kon Tum có 7 nhóm DTTC, trong ngôn ngữ của cộng đồng bản địa, để có tên đó, có 6 tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Email: nguyennguyenle1987@gmail.com 90
  2. NGUYỄN THỊ NGUYÊN LÊ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Á (Austroasiatic), dòng Môn - Khmer, như 2. Nội dung Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ-Triêng, Rơ Măm, 2.1. Các thành tố cấu tạo tên làng và Hrê, Brâu; còn 1 tộc người sử dụng ngữ hệ sự chuyển hóa tên làng của người Rơ Ngao Nam Đảo (Malayo-Polynesia): người Ba 2.1.1. Các thành tố cấu tạo tên làng Na (Bahnar) là một trong 54 các tộc người ở Tên làng là địa danh chỉ nơi cư trú do Việt Nam; “có các tên gọi khác: Bơ Nâm, con người kiến tạo. Nơi đó ẩn chứa nhiều Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông.” giá trị ngôn ngữ, bản sắc văn hóa của vùng (xin xem: Ủy ban Dân tộc, truy cập đất, một tộc người trong từng thời kì lịch 05/4/2017). Người Ba Na cư trú chủ yếu ở sử. Về đặc điểm cấu tạo địa danh ở Tây vùng Tây Nguyên Việt Nam. “Người Ba Na Nguyên, “gồm hai thành tố: thành tố đứng ở Việt Nam có dân số 227.716 người, cư trú trước gọi là thành tố chung (kí hiệu là A), tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố, tập chứa đựng thông tin về loại hình của đối trung chủ yếu ở Gia Lai 104.997 người tượng (sông, núi, thôn, buôn, làng…); (chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh); Kon Tum thành tố đứng sau gọi là thành tố riêng (kí 99.416 người (chiếm 12,5% dân số toàn hiệu là B), chứa đựng thông tin về đặc tỉnh).” (Tổng điều tra dân số và nhà điểm riêng của đối tượng hoặc những ý ở, 2009). “Người Ba Na gồm các nhóm địa nghĩa mà chủ thể đặt tên, gửi gắm” phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), (Nguyễn Minh Hoạt, 2018) Tơ Lô, Gơ Lar Krem.” (xin xem: Uỷ ban Cũng như các DTTC ở Tây Nguyên, Dân tộc, truy cập 19/10/2021). tên làng của người Rơ Ngao ở Kon Tum Ở tỉnh Kom Tum, người Ba Na thuộc thường lấy tên núi, sông, suối, hồ, cây… nhóm Rơ Ngao, cư trú tại Thành phố Kon hay tên của người có uy tín trong làng. Về Tum và một số huyện: Đắk Hà, Đăk Tô, mặt ngôn ngữ, tên gọi của làng được cấu Đăk Glei, Sa Thầy và một số vùng khác dọc tạo thành một tổ hợp định danh, gồm hai theo sông Đăk Bla. Đây là một tộc người thành tố: sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên đã kiến lập Thành tố chung (A) là tên thể loại địa nên nền văn hoá làng độc đáo. Làng truyền danh chỉ nơi cư trú, theo tên gọi của các thống của người Ba Na Rơ Ngao (gọi tắt là DTTC: gồm các tên: Kon (làng - tiếng Ba người Rơ Ngao) thường có rào gỗ, tre bao Na), Plei (làng - tiếng Gia rai), Đăk (dak- bọc; có cổng ra, vào để ngăn thú dữ và nước, suối: tiếng M’nông), v.v. chống ngoại xâm. Người Rơ ngao có thói Thành tố riêng (B) là tên riêng chỉ đặc quen sáng mở cổng làng, chiều đóng cổng điểm, tính chất… của thể loại địa danh chỉ làng; khi làng có việc hệ trọng, như: dịch nơi cư trú, như: Kơ tol (tiếng Ba Na - ở bệnh, cúng ma… thì cổng làng đóng suốt giữa), Krông (tiếng Ê đê - sông - từ vay ngày. Mỗi làng có chừng ba bốn chục nóc mượn khu vực Đông Nam Á), Kơ năng nhà gọi là hnam, được xây dựng theo hướng (tiếng Ba Na - ghè cổ; tiếng Ê đê - ceh - Tây- Đông; trung tâm làng là nhà Rông. ché), Drợp (tiếng Ba Na - vùng đất cao), Làng gắn bó mật thiết với đời sống của Wơt (tên riêng của người Rơ Ngao xưa có người Rơ Ngao, là không gian sinh tồn kinh lòng yêu thương đồng bào trong làng và tế, văn hóa chứa đựng các giá trị truyền các làng lân cận), Yo (tên suối), Kơ Chót thống của tộc người ở Kon Tum nói riêng, (tên suối), v.v. Kết hợp giữa (A) và (B), có các DTTC ở Tây Nguyên nói chung. các tên làng theo bảng sau: 91
  3. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021) Bảng 2.1. Một số tên làng của người Rơ Ngao Thành tố chung (A) Thành tố riêng (B) Tên làng Nghĩa Kon Kơ tol Kon Kơ tol Làng ở giữa Krông Plei Krông Làng sông Plei Kơ năng Plei Kơ năng Làng ghè (ché) cổ Drợp Plei Drợp Làng ở vùng đất cao Wơt Đăk Wơt (làng) Suối Wơt Đăk (Dăk) Yo Đăk Yo (làng) Suối Yo Kơ Chót Đăk Kơ Chót (làng) Suối Kơ Chót Qua bảng 2.1., tên một số làng của - Đăk Yo, Đăk Kơ Chót: Làng gắn với người Rơ Ngao có nguồn gốc và ý nghĩa tên suối (Yo, Kơ Chót: tên suối). như sau: Tổng hợp 50 tên Kon của dân tộc Rơ - Kon Kơ Tol: Làng gắn với đặc điểm Ngao tại Kon Tum (nguồn: Trích Báo cáo địa bàn cư trú. Trước đây, ở khu vực Hơ Khoa học về 6 dân tộc tại chỗ ở Kon Tum Mông hiện nay có xảy ra dịch bệnh, đồng – Ban Dân tộc). Số lượng tên thành tố bào phải chuyển lập làng ở giữa vùng Hơ chung (A) gồm: Kon 23, Đăk 15, Plei 7, Mông và vùng Krông nên đặt tên làng là Kơ 2, Măng 2, Yang 1. Kon Kơ Tol; nghĩa là làng ở giữa chừng 2.1.2. Sự chuyển hóa tên làng (Kơ Tol: ở giữa). Do phát triển về dân số và sử dụng đất - Plei Krông: Làng ở giữa hai dòng sản xuất, tên làng của người Rơ Ngao có sự sông Krông Bơ Lah (Đăk Bla) và sông chuyển hóa rất đa dạng. Đó là hiện tượng Krông Pô Kô (Đăk Pô Kô) tên là Plei làng “mẹ” tách ra thành các làng “con”. Krông: nghĩa là làng sông (Krông: Sông). Những làng “con” được tách ra trong một - Plei Kơ năng: Plei Kơ năng nghĩa là địa bàn nên gần làng “mẹ”, giữa hai làng làng ghè cổ (ché). Làng gắn với đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các làng địa bàn cư trú. Ngày xưa, khi đến đây lập mới thường lấy tên gốc của làng “mẹ” làng, dân làng phát hiện một cái ché cổ nên đồng thời thêm vào thành tố riêng một yếu khi lập làng đặt tên làng là Kơ năng (Kơ tố để phân biệt. năng: ché cổ). Kon Tu Dốp (làng dưới), (thuộc xã Pô - Plei Drợp: Nghĩa là làng ở trên cao Kô, huyện Đăk Tô), đã tách thành 5 làng (Drợp: vùng đất cao). Xuất phát từ việc dựa vào tên của làng “mẹ”, thêm số tự xưa kia ở làng xảy ra việc tranh chấp giữa nhiên vào phần riêng để có các làng “con”, các cá nhân, do quá trình xử không công như: Kon Tu Dốp 1 (làng dưới 1), Kon Tu bằng nên có một người đàn ông đã bỏ làng Dốp 2 (làng dưới 2), v.v. Như vậy, thành tố sinh sống ở vùng cao hơn, lập làng mới đặt riêng (B) Tu Dốp của làng “mẹ” đã chuyển tên là Plei Drợp. thành 1 bộ phận của thành tố chung (A). - Đăk Wơt: Làng gắn với tên người có Hay (làng) Đăk Rao tách thành Đăk uy tín (Wơt - Tên riêng của một người Rơ Rao lớn và Đăk Rao nhỏ, các làng được Ngao xưa có lòng yêu thương đồng bào tách dựa trên số lượng các hộ gia đình theo trong làng và các làng lân cận). quy định để thuận lợi cho việc quản lí; 92
  4. NGUYỄN THỊ NGUYÊN LÊ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN đồng thời mỗi làng phải có một nhà Rông, 2.2.1. Tiêu chuẩn, thủ tục chọn nơi lập làng có trường học, có trạm y tế, v.v. Với người Rơ Ngao, chọn lập làng là Hoặc làng Kon Mơ Nay, (thuộc xã Đăk việc hệ trọng, công việc này ảnh hưởng đến Blà, TP. Kon Tum) được tách thêm một sự hưng thịnh của làng. Theo họ, về yếu tố làng nữa gọi là Kon Mơ Nay Sơ Lam và sau tâm linh, nếu mảnh đất tốt, được thần linh có thêm hai làng mới là Kon Mơ Nay Ktu 1 phù hộ thì dân làng sẽ trồng được nhiều lúa và Kon Mơ Nay Ktu 2; Kon Măng La, gạo, chăn nuôi nhiều gia súc, con cái khỏe (thuộc xã Ngọc Bay, TP. Kon Tum) sau mạnh, tránh thiên tai hoả hoạn, cuộc sống tách thành hai làng: Măng La Ktu và Măng no đủ. Vì vậy, việc lập làng cần đáp ứng La Klah; Làng mới lập lấy tên làng cũ, những tiêu chuẩn: thêm vào thành tố phụ: Ktu, Klah; theo tiếng Về nguồn nước, nơi lập làng phải gần Rơ Ngao: Ktu là “cũ”, “nguyên thủy”, “gốc” nguồn nước sinh hoạt. Hầu hết các làng và Klah có nghĩa là “tách ra”. Hiện tượng đều quay mặt về hướng nguồn nước, chạy tách làng phổ biến ở nhiều làng DTTC tại quanh theo các mạch sông, mạch suối. Thành phố Kon Tum. Trong làng phải có con đường dẫn ra Đặt tên làng mới, bổ sung sau thành tố mương lấy nước, mọi sinh hoạt quần tụ bên (B) bằng các số tự nhiên có tính phổ biến, con sông, con suối. Để đảm bảo an ninh và như: Kon Gur 1, Kon Gur 2; Kon Mơ Nay chống ngoại xâm, thú dữ xâm nhập vào Ktu 1, Kon Mơ Nay Ktu 2; Kon Tu Dốp 1, làng, người dân Rơ Ngao đã cắm chông, Kon Tu Dốp 2, Đăk Ri Pêng 1, Đăk Ri thò, đào hào… xung quanh làng. Pêng 2… hình thức này dễ nhớ, dễ thuộc Về đất ở, người Rơ Ngao chọn những và có thứ tự. vùng đất cao, bằng phẳng để dựng nhà, dễ Do tiếp xúc ngôn ngữ các DTTC với lên rừng làm rẫy, săn bắt, hái lượm; thuận tiếng Việt, quá trình chuyển hóa địa danh, lợi cho việc xuống sông suối, ao hồ lấy có hiện tượng, các địa danh tiếng DTTC đã nước, bắt cá. Nơi dựng nhà ở phải cao ráo, hòa trộn với tiếng Việt tạo nên những tổ dễ quan sát và phòng tránh thú dữ. Hội đồng hợp ngôn ngữ có hình thức kết hợp mới. già làng và dân làng luôn có trách nhiệm Đó là một địa danh ở ngôn ngữ bản địa đã trong việc chọn một nơi lập làng phù hợp. bao hàm thành tố (A) và thành tố (B), như Về các thủ tục chọn nơi lập làng, địa danh làng của người Ba Na: Kon (A) người Rơ Ngao xưa có quan niệm: việc lập Kơ tol (B), Kon (A) Tu Dốp (B)… khi làng không phụ thuộc vào con người mà do chuyển sang cách dùng của người Việt, thì thần linh (Yang) quyết định, qua chiêm người Việt đã thêm thành tố (A) làng phía mộng hay các quy ước riêng. Chẳng hạn, trước. Vì vậy thành tố (A) của địa danh các giết con gà trống, nắm chân ném đi, làm DTTC sẽ chuyển thành một bộ phận của sao để đầu gà quay lại phía mình là tốt. thành tố (B), chẳng hạn: Kon Kơ tol (Ba Nếu quay hướng khác là xấu phải ném lại. Na) - Làng (Việt) Kon Kơ tol; Kon Tu Dốp Hoặc lấy vài chục hạt gạo, đặt một nơi nào (Ba Na) - Làng (Việt) Kon Tu Dốp; Kon đó, sáng hôm sau đến kiểm tra, đếm lại số Mơ Nay (Ba Na) - Làng (Việt) Kon Mơ hạt gạo. Nếu số hạt gạo không bị mất nghĩa Nay; Plei Krông (Ba Na) - Làng (Việt) Plei là đất lành và lập làng được. Nếu số hạt Krông, v.v. gạo bị mất nhiều (do kiến tha đi) là đất xấu, 2.2. Tiêu chuẩn, thủ tục chọn nơi lập không ở được, nên phải tìm nơi khác. làng và cấu trúc của làng Người Rơ Ngao tin rằng, nếu được thần 93
  5. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021) linh cho phép, làng sẽ gặp nhiều thuận lợi, Ngoài hàng rào còn có nghĩa địa ở phía may mắn trong đời sống, sinh hoạt cộng Tây, kho lương thực (sum - tiếng Ba Na) đồng. Khi dời làng, người Rơ Ngao phát dự trữ lúa trong năm bố trí theo hướng gió hoang vùng đất được chọn trước để di Đông để tránh hỏa hoạn cũng là chỗ lấy chuyển làng đến đó. Đêm kế tiếp, sau công nước dùng. Nguồn nước được người dân việc phát hoang này, cũng thông qua chiêm chuyền máng chảy về hoặc đào mương đưa mộng, nếu họ mơ thấy thần linh cho điều nước suối về làng. tốt lành thì sẽ thực hiện nghi lễ chuyển Nhà ở của người Rơ Ngao nói riêng và làng. Nếu không mơ thấy thần linh cho của các DTTC ở Kon Tum nói chung được điều tốt lành thì không dời làng. gọi là: nhà sàn hay nhà dài. Đó là những Người Rơ Ngao hay một số DTTC ở ngôi nhà không chỉ dài về mặt đo lường Trường Sơn - Tây Nguyên, rất coi trọng (độ dài trung bình 10m) mà ở đó còn chứa yếu tố tâm linh. Người dân trong làng quan đựng độ dài truyền thống gia đình nhiều niệm, có thần linh che chở cuộc sống của thế hệ, nhiều hộ sống chung. Người Rơ làng sẽ no ấm, bình an. Tín ngưỡng đa thần Ngao khi lập gia đình, có thời gian một, hai được thể hiện trong cảm quan của người hoặc nhiều năm sống bên nhà chồng hay Rơ Ngao, thần linh luôn có mặt trong cuộc nhà vợ (để trả ơn cha mẹ) vẫn ở trong căn sống, hiện hữu trong hình sông, dáng núi, nhà chung ấy, chỉ khác là đặt thêm một bếp cỏ cây, v.v. Yếu tố tâm linh góp phần nấu. Khi có điều kiện hoặc được sự hỗ trợ hướng con người tới cái chân - thiện - mỹ, của hai bên cha mẹ, cặp vợ chồng trẻ có giúp con người sống có trật tự, gần gũi với thể tự làm cho mình ngôi nhà mới. thiên nhiên, chuộng hòa bình, đoàn kết, Việc làm nhà của người Rơ Ngao hăng say lao động, sống vì cộng đồng, v.v. được sắp xếp vào thời gian rảnh rỗi (ning Tuy nhiên, do tiếp xúc giao thoa văn nơng - tiếng Ba Na). Lúc dựng nhà mới, hóa với người Kinh và các tộc người khác, hay sửa nhà, già làng (Bok Kră pơlơ - tiếng trong cuộc sống hiện đại, các thủ tục chọn Ba Na) vận động dân làng giúp đỡ công nơi lập làng xưa không còn tồn tại mà dựa sức, vật liệu dựng nhà. Khi xong khung vào kết cấu địa hình và quy hoạch vùng nhà, xong cột, rui, mè, dù chưa kịp lợp mái, dân cư của chính quyền địa phương. dựng vách, chủ nhà vẫn tiến hành tổ chức lễ 2.2.2. Cấu trúc của làng dựng nhà (Pơ dâng hnam - tiếng Ba Na). Làng của người Rơ Ngao được cấu Làm nhà xong, ngày gia chủ dọn về nhà trúc bởi các ngôi nhà của người dân được cũng là ngày khánh thành nhà mới, người xây dựng thành hàng theo hình bầu dục hay Rơ Ngao tổ chức lễ ăn uống mừng nhà mới hình vành khuyên bao quanh khoảng đất (Et hơtok hnam nao - tiếng Ba Na). rộng và bằng phẳng tạo nên sân chung. Ở 2.3. Làng là không gian sinh tồn về giữa sân có nhà Rông là nơi sinh hoạt văn kinh tế và văn hóa hóa, tín ngưỡng, hội họp của làng. Làng 2.3.1. Làng là không gian sinh tồn về còn có một nhóm nhà được bố trí phía kinh tế trong, sát hàng rào bao quanh như một hệ Người Rơ Ngao trước đây mưu sinh thống công sự phòng thủ bảo vệ an ninh và theo phong tục dưới sự điều hành của thiết ngăn ngừa thú dữ. Ngày nay, hàng rào chế tự quản. Họ phát triển kinh tế qua các thường chỉ dùng để ngăn chặn trâu bò, có hoạt động: canh tác nương rẫy theo phương một số làng không còn hàng rào bao quanh. thức phát - đốt - chọc - tỉa; chăn nuôi gia 94
  6. NGUYỄN THỊ NGUYÊN LÊ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN súc; nghề thủ công đan lát, dệt vải… trao hóa Rơ Ngao thể hiện ở tính cộng đồng, đổi theo phương thức vật đổi vật. Công cụ dân chủ và bình đẳng gắn liền với cuộc lao động của người Rơ Ngao còn thô sơ, họ sống của con người. Ở đó con người là chủ chưa biết sử dụng trâu, bò làm sức kéo. thể sáng tạo nghệ thuật đồng thời là người Săn bắt, hái lượm không diễn ra tùy tiện thưởng thức nghệ thuật. Ngày nay, quá mà tuân theo luật tục về bảo vệ đất, nguồn trình biến đổi của tổ chức xã hội qua các nước. Thành quả thu được sau săn bắn, hái thời kì lịch sử đã tác động đến làng của lượm không chỉ là giá trị vật chất cá nhân người Rơ Ngao truyền thống trên nhiều mà chia đều trong cộng đồng. phương diện. Trong xã hội hiện đại, cuộc sống của 2.4. Văn hóa người Rơ Ngao trước người dân Rơ Ngao có nhiều thay đổi. Dân cuộc sống hiện đại và các giải pháp bảo tồn số tăng nhanh cùng với chính sách quản lí 2.4.1. Văn hóa người Rơ Ngao trước rừng của Nhà nước làm cho hoạt động cuộc sống hiện đại canh tác nương rẫy không còn điều kiện Trước cuộc sống hiện đại, quá trình quay vòng theo chu kì luân khoảnh khép phát triển đô thị ở Kon Tum, văn hóa làng kín. Canh tác nương rẫy đã chuyển sang truyền thống của người Rơ Ngao đang bị hình thức thâm canh liên tục nhiều năm với thu hẹp và mất dần. Không gian làng các kĩ thuật mới. Hoạt động săn bắn, săn truyền thống gắn với rừng cây, con suối, bắt, hái lượm đã không thường xuyên như bình yên trong nắng sớm, nghe rõ từng trước, vì diện tích rừng đã thu hẹp, cách xa tiếng chim kêu, thác chảy. Thế nhưng, nay nơi cư trú. rừng đã lùi xa. Nhà ở của người Rơ Ngao 2.3.2. Làng là không gian sinh tồn văn hóa xây dựng bằng xi măng, cốt thép, lợp tôn, Lễ hội của người Rơ Ngao chia làm ba lên tầng lầu. Trang phục truyền thống biến nội dung chính: Lễ hội vòng đời người, lễ đổi nhanh chóng, người già vẫn giữ thói hội về sản xuất trồng trọt, lễ hội về sự tồn quen mặc áo khố tự dệt, lớp trung niên và tại và phát triển của cộng đồng. Trong lễ thanh niên mặc theo lối người Kinh, nghề hội, con người được ăn uống, vui chơi thỏa dệt không còn phổ biến. Bữa cơm truyền thích còn được gọi là mùa Ăn năm uống thống: canh, luộc, nướng, cơm lam nấu ống tháng, mùa trai gái tìm hiểu nhau nên gọi chỉ xuất hiện ở lễ hội. Ăn chín uống sôi đã là Mùa của tình yêu, kéo dài từ tháng 10 trở nên phổ biến với đồng bào Rơ Ngao. Dương lịch năm trước đến tháng 3 Dương Về nhà Rông, vì lí do không có nguyên vật lịch năm sau. liệu nên những nhà Rông mới lập ra hết Lễ hội của người Rơ Ngao bao giờ sức xa lạ, mất đi bản sắc. cũng xuất phát từ yếu tố thiêng - nghi thức Tín ngưỡng đa thần chỉ còn tồn tại ở tế lễ, hiến sinh mong sự bình yên, no đủ. lớp người già và phai nhạt ở lớp người trẻ. Khi các hoạt động đó được thần linh chứng Sử thi mai một dần, nạn chảy máu cồng giám thì ở mỗi con người như được cởi chiêng diễn ra trong nhiều năm. Âm nhạc mở, thăng hoa tạo thành không khí lễ hội cồng chiêng ngày nay chỉ phục vụ nhu cầu tưng bừng với chiêng xoang. Cồng chiêng văn nghệ chứ không còn là âm nhạc cồng không chỉ là của cải, nhạc khí dân gian mà chiêng văn hóa. Lễ hội vòng đời người của còn là vật thiêng. Bất cứ lễ hội nào cũng có người Rơ Ngao cũng thay đổi ít nhiều theo cồng chiêng, ứng với mỗi hoàn cảnh là một thời gian. bài chiêng khác nhau. Nét độc đáo của văn Do tác động của di dân, bên cạnh làng 95
  7. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021) thuần dân tộc tại chỗ, ngày càng xuất hiện tổ chức sưu tầm các sản phẩm nghề truyền nhiều làng xen cư tộc người mới đến và thống của các DTTC, như: dệt thổ cẩm, DTTC. Tình trạng này tạo nên nhiều thuận đan lát, nghề gốm, tạc tượng, đẽo thuyền lợi và cũng không ít khó khăn trong tổng độc mộc, làm rượu cần, nghề rèn, chế tác thể sự phát triển của làng. Luật tục ngày nhạc cụ âm nhạc. nay là công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc điều - Có chính sách bảo tồn, phát huy di chỉnh xã hội. Luật tục có trách nhiệm sản văn hóa cồng chiêng. Giáo dục cho hướng dẫn giải quyết những hiện tượng người dân DTTC có ý thức tự giác trong nảy sinh trong cuộc sống, định hướng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa những hành vi đúng đắn. Luật tục về cơ truyền thống phi vật thể, không gian văn bản có thể giải quyết những vấn đề liên hóa cồng chiêng. Đãi ngộ đối với các già quan đến nếp sống văn hóa, đạo đức, ứng làng, trưởng thôn, người có uy tín, nghệ xử trong làng, ứng xử trong xã hội. nhân tại cộng đồng. Qua đó khuyến khích Không gian sinh tồn văn hóa của làng đã đề cao họ có tinh thần trách nhiệm trong biến đổi. Ngày nay, nơi lập làng tiêu chí việc giữ gìn và truyền đạt cho thế hệ sau về hàng đầu không nằm ở nguồn nước và đất bản sắc văn hóa của cộng đồng. sản xuất mà chọn gần đường giao thông, - Xây dựng và phát triển mô hình làng trường học, trạm y tế, gần trung tâm hành văn hoá - du lịch với hình thái cấu trúc chính. Thủ tục chọn đất lập làng không còn không gian, cơ chế chính sách phù hợp có phổ biến vì các làng đã sống định cư, bếp lửa thể gắn kết hài hoà giữa văn hoá và du lịch, tách riêng không còn chung như trước đây. giữa bảo tồn và phát triển. Triển khai quy 2.4.2. Một số giải pháp bảo tồn và hoạch đồng bộ việc bảo tồn, phát huy giá phát huy giá trị văn hóa làng truyền thống trị đặc trưng cấu trúc bản, công trình kiến Rơ Ngao trúc làng truyền thống của người Rơ Ngao - Sưu tầm, nghiên cứu, phục dựng các trên địa bàn. giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể làng 3. Kết luận truyền thống của người Rơ Ngao, như mô Làng truyền thống của người Rơ Ngao hình thiết kế xây dựng làng, giữ vệ sinh ẩn chứa những giá trị văn hóa của người môi trường nước, bảo vệ rừng, phòng cháy, Rơ Ngao trong từng thời kì lịch sử. Tên tránh lũ quét; đề phòng lở núi, đất sập. Tổ làng được cấu tạo gồm hai thành tố: thành chức các lễ hội truyền thống tại địa tố chung (A) là tên thể loại địa danh chỉ nơi phương, trình diễn các tiết mục nghệ thuật cư trú; thành tố riêng (B) là tên riêng chỉ mang đậm bản sắc văn hóa các DTTC. Chủ đặc điểm, tính chất… của làng. Do phát động tổ chức truyền dạy cho các thế hệ về triển về dân số và sử dụng đất sản xuất, tên diễn tấu cồng chiêng và các nhạc cụ của làng của người Rơ Ngao có sự chuyển hóa các tộc người. từ làng “mẹ” tách ra thành các làng “con”. - Thiết kế, xây dựng nhà Rông truyền Những làng “con” được tách ra trong một thống cho các làng DTTC. Tăng cường các địa bàn nên gần làng “mẹ”, giữa hai làng hoạt động văn hóa của làng tại nhà Rông, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các làng qua đó tuyên truyền chính sách chủ trương mới thường lấy tên gốc của làng “mẹ” của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, xây đồng thời thêm vào thành tố riêng một yếu dựng mối đoàn kết, giữ vững an ninh trong tố để phân biệt. cộng đồng. Xây dựng phòng trưng bày và Chọn nơi lập làng phải gần nguồn 96
  8. NGUYỄN THỊ NGUYÊN LÊ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN nước sinh hoạt. Chọn những vùng đất cao, biến động mạnh mẽ trong đời sống tinh bằng phẳng để dựng nhà, dễ lên rừng làm thần của thế hệ trẻ. Một bộ phận người dân rẫy, săn bắt, hái lượm. Người Rơ Ngao xưa có xu hướng chạy theo những giá trị vật có quan niệm: việc lập làng không phụ chất đơn thuần, có tư tưởng sùng ngoại, từ thuộc vào con người mà do thần linh đó coi thường những thuần phong mỹ tục, (Yang) quyết định, qua chiêm mộng hay hoặc lãng quên không quan tâm đến các các quy ước riêng. Làng của người Rơ giá trị truyền thống của dân tộc. Trong Ngao được cấu trúc bởi các ngôi nhà của dòng chảy ấy, những giá trị văn hóa của người dân được xây dựng thành hàng theo làng truyền thống của người Rơ Ngao ở hình bầu dục hay hình vành khuyên bao Kon Tum nói riêng, ở Tây Nguyên nói quanh khoảng đất rộng và bằng phẳng tạo chung cũng đang dần mai một và đứng nên sân chung. Ở giữa sân có nhà Rông là trước nguy cơ biến mất trong đời sống. Vì nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, hội họp vậy, cần có các giải pháp bảo tồn và phát của làng. Làng là không gian sinh tồn về huy những giá trị để góp phần xây dựng kinh tế và văn hóa. tình đoàn kết, phát triển kinh tế và giữ Cuộc sống hiện đại, đã tạo nên những vững an ninh trong khu vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Minh Hoạt (2018). Từ loại danh từ tiếng Ê đê. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàng Phê (chủ biên) (2014). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. Ủy ban Dân tộc, truy cập 05/4/2017. Uỷ ban Dân tộc. Cổng thông tin điện tử: http://www.cema.gov.vn/gioi-thieu/cong-dong- 54-dan-toc/nguoi-bana.htm, truy cập ngày 19/10/2021. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Ngày nhận bài: 05/3/2021 Biên tập xong: 15/4/2021 Duyệt đăng: 20/4/2021 97
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2