intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lê cung hoàng

Chia sẻ: Nguyenkiki Nguyenkiki | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

84
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Niên hiệu : Thống Nguyên Vua mới có tên là Xuân, còn có tên nữa là Khánh, cháu bốn đời của Thánh Tông, là em cùng mẹ với Chiêu Tông, sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão ( 1507).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lê cung hoàng

  1. Lê cung hoàng Niên hiệu : Thống Nguyên Vua mới có tên là Xuân, còn có tên nữa là Khánh, cháu bốn đời của Thánh Tông, là em cùng mẹ với Chiêu Tông, sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão ( 1507). Khi Chiêu Tông chạy khỏi hoàng cung, Mạc Đăng Dung lập ông lên làm vua, lúc đó 16 tuổi, vì sợ Chiêu Tông ở ngoài hiệu triệu binh mã về đánh nên Mạc Đăng Dung không dám
  2. đóng tại kinh thành mà phải đón Hoàng đệ Xuân về Gia Phúc ( Hải Dương) và chuyển hết của báu trong thành về đấy, phong quan tiên tước cho các quan. Sau khi đánh bại các cánh quân Cần Vương của Chiêu Tông, mùa xuân năm Quý Mùy ( 1523) Đăng Dung đưa vua Cung hoàng về đóng ở thành dinh Bồ Đề, cho các quan vào chầu. Năm đó, triều đình vẫn cho mở khoa thi hương, thi hội ở bãi giữa sông Nhị. Vua ra đầu đề « Về đạo làm vua làm thầy ». Nhưng bất chấp đạo làm tôi, tháng 7 năm đó, Đăng Dung dùng chiếu lệnh của Cung đế, phế bỏ vắng mặt Chiêu Tông xuống tước Đà Dương vương. Năm sau, Giáp Thân Đăng Dung tự mình thăng lên tước Bình Chương quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm Ất Dậu ( 1525) Đăng Dung tự làm đô tướng dẫn tất cả thủy lục quân vào đánh Thanh Hóa. Vua Chiêu Tông bị bắt đưa về kinh sư, và bị giết vào tháng 12 năm Bính Tuất ( 1526). Sau sự kiện bi thảm đó, Mạc Đăng Dung rút lùi về Cổ Trai, nhưng trong thực tế vẫn chế ngự triều đình. Năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung tự thăng tước Thái sư An Hưng vương, gia thêm cử tú. Tháng 4 năm Đinh Hợi ( 1527), Cung hoàng sai Trùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên bá Phan Đình Tá và Trung sứ Đỗ Hiếu Đễ cầm cờ mao tiết mang kim sách và mũ áo ô lọng, đại ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, tán tía đến làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng Vương. Mạc Đăng Dung đón tiếp sứ bộ của nhà vua, ở bến đò An Tháp, huyện Tân Minh ( Tiên Lãng, Kiến An ngày nay). Vua còn tặng Mạc Đăng Dung bài thơ « Chu công giúp thành Vương » có ý khuyên Mạc Đăng Dung hãy giúp vua và triều đình theo gương Chu Công đời xưa. Mặc dù được vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, Mạc Đăng
  3. Dung vẫn không chịu dừng lại ở tước vương, mà vẫn chớp thời cơ giành ngôi cho họ Mạc. Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào kinh bắt vua phải nhường ngôi, giáng vua Lê xuống làm Cung vương, bắt giam Vua cùng với Hoàng thái hậu ở cung Tây Nội, sau đó vào tháng bắt buộc thái hậu và Cung vương phải tự tử. Trước khi chết, Thái hậu khấn trời rằng. « Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, con cháu mày sau này cũng thế ». Mạc Đăng Dung sai đem xác hai mẹ con nhà vua bày ra quán Bắc Sơn, rồi đem về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên ( nay thuộc xã Mỹ Xá, huyện Hưng Hà, Thái Bình) theo nghi lễ của thiên tử và Hoàng hậu. Như vậy là Cung Hoàng ở ngôi được đúng 5 năm, thọ 21 tuổi. Nhận xét về ông vua này, sứ thần triều Lê đã viết « Lúc ấy vận nước đã suy, lòng người đã lìa, tài vua lại vào hạng kém, có thể dẹp yên sao được ». Như vậy là triều Lê kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi ( 1428) đến Cung Hoàng ( 1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu tính cả thời gian Lê Lợi dấy quân xưng là Bình Định vương năm Mậu Tuất ( 1418) cộng là 110 năm, đây là thời kỳ vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước. Các nhà sử học thời Lê Sơ để phân biệt với Lê Trung Hưng về sau. Các đời vua triều Lê Sơ đã trải qua : 1> Lê Thái Tổ ( 1428 – 1433) 2> Lê Thái Tông ( 1434 – 1442) 3> Lê Nhân Tông ( 1443 – 1459) 4> Lê Thánh Tông ( 1460 – 1497)
  4. 5> Lê Hiến Tông ( 1497 – 1504) 6> Lê Túc Tông ( 1504) 7> Lê Uy Mục ( 1505 – 1509) 8> Lê Tương Dực ( 1510 – 1516) 9> Lê Chiêu Tông ( 1516 – 1522) 10>Lê Cung Hoàng ( 1522 – 1527) Triều mạc ( 1527 – 1592) MẠC ĐĂNG DUNG ( 1527 – 1592)
  5. Niên hiệu : Minh Đức Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương ( Hải Dương). Cụ tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi, một người nổi tiếng về văn chương đã thi đậu trạng nguyên dưới thời Trần, làm quan đến chức nhập nội hành khiển, thượng thư môn hạ tả bộc xạ. Ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, đối đáp rất thông minh, nhà Nguyên phải nể phục. Đĩnh Chi sinh ra Dao, làm quan Tư hình Viện đại phu, Dao sinh bốn người con trai tên là : Địch, Thoan, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng và sức khỏe. Cuối đời nhà Hồ vì bất đắc chí họ đem con em đến hàng giặc Minh rồi ra làm quan cho nhà Minh. Đến đời các ông Tung, Bình đến Hịch thì không có ai hiển đạt. Hịch lấy con gái Đặng Xuân người cùng làng, tên là Đặng Thị Hiến, sinh được ba trai. Mạc Đăng Dung là trưởng, rồi đến Đốc, và Quyết, hai em của Mạc Đăng Dung đều làm quan, khi Mạc Đăng Dung lên ngôi vua thì phong cả hai em tước vương. Đăng Dung sinh giờ Ngọ ngày Nhâm Tý ( 23 ) tháng 11 năm Quý Mão ( 1483). Thời trẻ Đăng Dung có sức khỏe lại khôi ngô, tương truyền bà họ Nhữ ( có tham vong muốn có người chồng đế vương) trông thấy Mạc Đăng Dung khi còn hàn vi, dung mạo của Mạc Đăng Dung khiến bà kinh ngạc mà than rằng : « Lúc trẻ chẳng gặp nhau, ngày nay đến đây làm gì » bởi bà biết Mạc Đăng Dung sẽ làm vua, mà bà đã có chồng rồi. Bà họ Nhữ đó về sau chính là mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan, từ một thanh niên nghèo, sống bằng nghề đánh cá, Mạc Đăng Dung đi dự thi môn đấu vật, trúng đô lực sĩ, được sung vào chân túc vệ chuyên cầm dù theo vua. Nhưng Mạc Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường làm quan, năm Tân Mùi ( 1511) mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ Xuyên bá. Năm Bính Tý ( 1516),
  6. triều đình sai Mạc Đăng Dung làm trấn thủ Sơn Nam, gia phong Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong Thái sư Nhân Quốc công rồi đến An Hưng vương. Lợi dụng lúc vua Lê ươn hèn, các quan trong ngoài đều tranh giành xâu xé lẫn nhau, Mạc Đăng Dung âm thầm tranh ngôi vua. Tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai lên kinh sư ép vua Lê nhường ngôi, lúc này triều Lê đã quá mục nát, mất lòng dân nên số đông hướng về Mạc Đăng Dung đã ra đón Mạc Đăng Dung về kinh. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Lê ( tất nhiên là người của Mạc Đăng Dung viết) có nói lý do của việc nhường ngôi. Vua Lê hèn kém, đức mỏng, không gánh nổi ngôi trời. Mệnh trời và lòng người hướng về người có đức và người đó, trong thời điểm này, chỉ có Mạc Đăng Dung : Là người tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp bốn phương đều phục, bên trong trị nước trăm họ yên vui, công đức lớn lao, trời người đều quy phục. Hôm tuyên đọc tờ chiếu nhường ngôi cũng là lúc Mạc Đăng Dung xem Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu mới như mọi ông vua khác khi lên ngôi. Vua Lê bị giáng truất xuống làm cung vương bị tống giam cùng với thái hậu ở cung Tây Nội rồi bị giết chết. Những ngày sau Mạc Đăng Dung ra ngự ở chính điện, tế trời đất ở Nam Giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn ông tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi làm « Kiến thủy Khâm minh văn hoàng đế ». Mạc Đăng Dung muốn tỏ một điều « không phải cứ con vua mới được làm vua », ông cho sửa mộ của cha mình thành Lăng ( cho nên về sau nơi ấy gọi là sứ Mả Lăng). Ông cho lập con trai trưởng là Đăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Đốc làm Từ vương, cả ba người em gái đều được phong công chúa. Em gái lớn tên Ngọc là Trang Hoa công chúa, thứ đến tên Huệ là Khánh Diệm công chúa và
  7. em út Ngọc Di là Tú Hoa công chúa. Cùng với việc phong tước cho con, anh em họ Mạc, vua còn phong tước cho một loạt bầy tôi có công tôn phò. Về đối ngoại, để tranh thủ nhà Minh, vua Mạc sai sứ đem biểu sang Yên Kinh nói : Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc lại cho Đại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên dân. Nhà Minh sai người sang dò xét thực hư, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi khác dùng vàng bạc lót những viên tướng biên thùy nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Vì thế, năm Kỷ Sửu ( 1529) hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Minh song không thành. Hai viên quan đó đều chết già trên đất Trung Hoa. Đề hoàn thiện việc thiết lập một triều đại mới, Mạc Đăng Dung không những phải chống chọi với phản ứng của đông đảo các cựu thần nhà Lê mang nặng đầu óc trung quân, mà phải trọn những người trẻ tuổi gánh vác việc nước. Vì vậy bắt trước các vua Trần, tháng 12 năm Kỷ Sửu ( 1529) Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Đăng Doanh làm vua được 3 năm, lúc này mới 46 tuổi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2