intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

lều chõng: phần 2 - nxb văn học

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

76
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

nối tiếp phần 1, phần 2 " lều chõng" của nhà văn ngô tất tố, do nxb văn học ấn hành, câu chuyện bắt đầu từ "Đêm qua với vân hạc, Đốc cung lại là một cuộc phục thù của hai con mắt. bởi vì sau bữa cặm cụi từ sáng đến tối mịt ngắm vuốt từ cái nét móc trở đi để viết cho rồi một bài văn sách chừng bảy, tám tờ, hai chàng chỉ cho đôi mắt yên nghỉ một đêm..." mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: lều chõng: phần 2 - nxb văn học

CHƯƠNG 13<br /> <br /> Đ<br /> <br /> êm qua với Vân Hạc, Đốc Cung lại là một cuộc phục thù của hai con<br /> mắt. Bởi vì sau bữa cặm cụi từ sáng đến tối mịt ngắm vuốt từ cái nét<br /> móc trở đi để viết cho rồi một bài văn sách chừng bảy, tám tờ, hai<br /> chàng chỉ cho đôi mắt yên nghỉ một đêm. Đến trưa hôm sau, khi mà Đoàn<br /> Bằng, Tiêm Hồng bước ra khỏi cửa để cùng về quê báo tin cho dì ghẻ và ông<br /> anh cả biết sự may mắn của mình trong kỳ đệ tam thì Vân Hạc liền bị Đốc<br /> Cung nhắc tới số bốn nén bạc của Trần Đức Chinh và bắt phải lên hàng Lờ lập<br /> tức.<br /> Ở lầu hồng không khác gì ở nhà trọ, danh giá của người học trò đã vào<br /> tam trường lại tôn gấp mấy cái khi mới vào nhất trường. Vả lại đối với hai<br /> chàng, đào Phượng, đào Cúc vẫn là hoa xưa, ong cũ, cái cuộc gặp gỡ sau hai<br /> mươi ngày cách biệt tự nhiên phải đằm thắm hơn lúc bắt đầu biết nhau.<br /> Trong lúc bước chân ra đi, Vân Hạc đã hẹn Đốc Cung chỉ nghe một vài khổ<br /> trống rồi về. Không ngờ trước vẻ yêu kiều nũng nịu của đôi hoa khôi hai<br /> chàng đều không đủ bóng vía để chống lại với sức cám dỗ. Thế rồi cuộc truy<br /> hoan kéo dài đến bảy đêm ngày.<br /> Ngông nhất là đêm hai ba tháng mười.<br /> Vào khoảng chập tối một lúc, trời tuy lạnh nhưng rất sáng sủa. vầng trăng<br /> hạ huyền từ từ ở phía chân trời tiến lên và nhòm thẳng vào khe cửa sổ phía<br /> đông. Nhân một câu cao hứng nói đùa của Vân Hạc, Đốc Cung liền bắt đào<br /> Phượng, đào Cúc cùng mấy ả nữa và một anh kép mang cả đàn, trống, sênh,<br /> phách lên phía bờ sông. Thêm vào đó lại có mấy người học trò cụ bảng Tiên<br /> Kiều bị kéo đi nữa. Cả bọn đến thẳng bến đò. Sau khi thuê được hai chiếc<br /> thuyền lớn, mặc cả phải chở suốt đêm, Vân Hạc, Đốc Cung liền bảo chân sào<br /> vào phố mua rượu và các đồ nhắm đem cả xuống thuyền.<br /> Rồi sai nhổ neo cho thuyền xuôi mãi xuống phía Đồn Thủy. Sông cạn,<br /> sóng êm, đôi thuyền kèm nhau lờ đờ trôi dưới ánh trăng. Ngồi trên mạn<br /> thuyền ngó xuống đáy nước có thể trông thấy mình đương lơ lửng trong một<br /> biển vàng. Đàn bắt đầu dạo, phách bắt đầu điểm. Tiếng hát bắt đầu thánh<br /> thót. Cuộc rượu dần dần đi từ chỗ êm đềm đến chỗ nồng nàn. Giữa những<br /> tiếng cười nói huyên thiên. Đốc Cung tự nhiên gật gù và ngâm:<br /> “Mộc lan chi tiếp sa đường châu.<br /> Ngọc tiêu, kim quản tọa lưỡng đầu<br /> Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc<br /> Tải kỹ tùy ba nhiệm khứ lưu… ”<br /> <br /> Rồi chàng rung đùi:<br /> - Cái cuộc đêm nay của chúng mình, thật đúng với bốn câu đó. Thế mới<br /> biết Lý Bạch là tay chơi sành.<br /> Và chàng nhìn vào Vân Hạc:<br /> - Mày vẫn tự phụ giỏi nôm, hãy thử dịch mấy câu ấy ra điệu lục bát xem<br /> sao.<br /> Vân Hạc ngẫm nghĩ một lát rồi đọc:<br /> “Chèo đường đưa chiếc thuyền nan<br /> Quản vàng, tiêu ngọc thổi ran đôi đầu<br /> Rượu ngon để sẵn nghìn bầu<br /> Chở đào, theo sóng, mặc dầu ngược xuôi…”<br /> Cả bọn đều tấm tắc khen hay, riêng có Đốc Cung chê rằng chữ “đào”<br /> không “ổn”. Nhưng không tìm được chữ gì khác thay vào, chàng muốn đổi<br /> hai câu đó như vầy.<br /> “Đào mấy ả, rượu nghìn bầu,<br /> Chở theo con sóng mặc dầu ngược xuôi”.<br /> Mọi người cân đi, nhắc lại hồi lâu, ai nấy đều bảo câu của Đốc Cung tuy<br /> không đúng nghĩa, nhưng còn thoát hơn của Vân Hạc. Rồi họ bàn nhau dùng<br /> bốn câu ấy làm bốn câu mưỡu và bắt Vân Hạc, Đốc Cung làm tiếp một bài hát<br /> nói tức cảnh đêm ấy. Vân Hạc mở đầu:<br /> “Thủy thiên nhất sắc<br /> Giữa vừng không vằng vặc mảnh trăng treo<br /> Đôi thuyền con đủng đỉnh đua chèo<br /> Dội mặt sóng, tiếng đàn theo tiếng phách”.<br /> Đốc Cung tiếp theo:<br /> “Dục hiệu Tô công ca Xích Bích<br /> Cánh liên Bạch phó oán Tầm Dương.<br /> Thú yên hoa âu cũng nợ văn chương<br /> Dưới bóng nguyệt, chén vàng chi để cạn?<br /> Đến lượt Vân Hạc:<br /> “Cơn đắc ý hãy chơi cho chán<br /> Kiếp trần ai, ba vạn có là bao<br /> Nghìn xưa hiền thánh đâu nào?”<br /> <br /> Hai chàng đọc cho đào Phượng, đào Cúc cùng nhẩm, và bảo hai ả cắt lượt<br /> mà hát. Đêm càng khuya, cuộc rượu càng lơi lả. Tiếng hát khi chìm, khi bổng,<br /> theo với dịp khoan nhặt của phách và đàn, càng giúp thêm cho hứng rượu.<br /> Trên phố lúc ấy không còn hơi một tiếng động.<br /> Mặt sông cực kỳ tịch mịch. Mấy đoàn thuyền bè, giống như những đàn vịt<br /> ngủ hết, hết thảy im lặng rúc đầu vào bờ. Vân Hạc tình cờ ngồi trong mui<br /> thuyền ngó ra, chàng tưởng như khắp cả vũ trụ, chỉ có bọn mình và vầng<br /> trăng khuya còn thức. Một lát sau, đào Phượng đọc hết bài phú Xích bích,<br /> tiếp đến bài hát Tỳ bà, Đốc Cung ra bộ thích ý và khen:<br /> - Ngồi trên mặt nước mà hát hai bài hát ấy mới là hợp cảnh. Không hiểu từ<br /> xưa đến giờ, đã ai thưởng thức cái thú ấy chưa?<br /> Vân Hạc đón lời:<br /> - Không phải bây giờ chúng mình hưởng cái thú ấy là lần đầu tiên. Ngày<br /> xưa các cụ đã hưởng chán rồi. Và vì thủa xưa, cô đào không có nhà riêng, các<br /> cụ muốn nghe hát mà không tiện đem về nhà mình, cho nên phần nhiều phải<br /> hát dưới thuyền. Bởi vì ngồi ở thuyền dưới bóng trăng, thấy nó hợp với cảnh<br /> tượng trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Xích bích phú của Tô Đông Pha,<br /> cho nên các cụ mới diễn cả hai bài ấy ra điệu hát ta, để bắt ả đào ngâm đọc.<br /> Về sau những phường tục tử, đua đòi các cụ, thi nhau đem những bài ấy mà<br /> hát ở nhà cô đào, ấy là vì họ không hiểu cái hay của nó. Các anh thử nghĩ mà<br /> xem, ngồi trên mặt phản mà nghe những câu:<br /> “Say những luống ngại khi chia rẽ<br /> Nước mênh mông dầm vẻ trăng trong”<br /> Hay là:<br /> “Thuyền mấy lá, đông tây lặng ngắt<br /> Một vừng trăng trong vắt lòng sông”<br /> thì phỏng còn có nghĩa lý gì nữa?<br /> Trời gần sáng. Trăng càng lên cao, ánh trăng tỏa xuống lòng sông sáng<br /> như ban ngày. Hứng rượu mỗi lúc mỗi thêm hăng hái. Người nọ dốc mãi<br /> rượu vào chén người kia. Dần dần, cả đám đều say dí dị, ai nấy gục đầu<br /> xuống cạnh chiếu rượu mà ngáy.<br /> Sáng mai Vân Hạc dậy trước, trông thấy mấy người ngổn ngang nằm<br /> quanh một đám chén bát lổng chổng, mới biết đêm qua uống rượu nhiều<br /> quá. Ngó ra ngoài sông, cảnh tượng đều lạ hết thảy. Ngơ ngác nhìn mãi đám<br /> khói sương mù mịt, chàng mới nhận ra cái chỗ thuyền đậu là ở dưới bãi Bát<br /> Tràng.<br /> Các chân sào và các ả đào, hãy còn ngủ lăn, ngủ lóc, chàng phải đánh thức<br /> lái thuyền, giục hắn gọi mấy người kia chèo thuyền lên bến.<br /> <br /> Tới nơi, mặt trời đã lên cao, Vân Hạc toan về nhà trọ. Nhưng vì đào<br /> Phượng, đào Cúc có ý chèo kéo, lại thêm có bọn Đốc Cung hết sức bầu vào,<br /> chàng lại xuống thẳng Hàng Lờ. Thế rồi, cái hào hứng của tuổi thiếu niên lưu<br /> chàng và bọn Đốc Cung ở đó. Để lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm. Nếu<br /> không sợ Đoàn Bằng, Tiêm Hồng ở quê sắp ra có lẽ hôm qua, chàng và Đốc<br /> Cung cũng chưa về nhà trọ. May quá hai chàng vừa tới nhà trọ một lát, thì hai<br /> người kia vừa ra.<br /> Trong lúc nói chuyện, Đoàn Bằng, Tiêm Hồng ngó cái bộ mặt hốc hác,<br /> nhất là ngó đôi con mắt đứt kẽ của hai chàng, cũng biết hai chàng thức đêm<br /> nhiều lắm nhưng hai người vẫn đều giả vờ làm thinh. Bấy giờ Đốc Cung cũng<br /> như Vân Hạc ai nấy đều thấy trong mình mệt nhừ, hai mắt buồn ngủ díp lại,<br /> song người thì nể bạn hơn tuổi, người thì sợ anh, cả hai đều phải cố gượng<br /> làm tỉnh táo, nhanh nhảu, chờ đến tối mới dám đi nằm. Và cả hai đều kéo<br /> một giấc từ chập tối cho đến bây giờ.<br /> Trời sáng rõ.<br /> Đoàn Bằng, Tiêm Hồng đã uống tàn một ấm chè tầu, hai chàng vẫn co<br /> quắp ôm nhau trong tấm chăn bông, và thi nhau đưa ra những tiếng thở sè<br /> sẽ.<br /> Tiêm Hồng ngứa mắt toan kéo tuột bức chăn gọi hai chàng dậy. Đoàn<br /> Bằng xua tay ngăn lại:<br /> - Hãy để cho họ ngủ lúc nữa. Chắc là những ngày vắng mình, chúng nó<br /> thức đêm nhiều lắm. Nếu họ không được ngủ bù để khôi phục cho tinh thần<br /> bằng cũ thì ngày mai vào trường sẽ có hại cho sự làm văn.<br /> Rồi hai người lại giục thằng nhỏ thay chè, pha ấm nước khác, cùng uống<br /> cho tiêu thì giờ.<br /> Ánh sáng loe trên nóc nhà láng giềng, Vân Hạc thình lình thức giấc. Vì bị<br /> ánh sáng lùa vào chói mắt, chàng biết trời đã trưa lắm, vội vàng lật chăn<br /> đánh thức Đốc Cung.<br /> Đoàn Bằng, Tiêm Hồng tuy vẫn tỏ ra bộ điệu vui vẻ nhưng Vân Hạc không<br /> khỏi có ý ngượng thẹn. Chàng len lén đứng dậy ra thềm và gọi thằng nhỏ lấy<br /> nước rửa mặt. Đốc Cung nói chữa bằng một câu khôi hài:<br /> - Té ra hãy còn sớm nhỉ. Tôi tưởng đã trưa lắm.<br /> Đoàn Bằng cười nhạt:<br /> - Phải. Còn sớm lắm. Mặt trời mới gần đến đỉnh đầu thôi mà. Hai ông hãy<br /> đi ngủ thêm giấc nữa, dậy làm gì vội!<br /> Đốc Cung cũng cười và ngâm:<br /> “Xử thế nhược đại mộng<br /> Hồ vi lao kỳ sinh.”<br /> <br /> Rồi chàng thong thả, xỏ chân vào giầy, để đón lấy chậu nước nóng của<br /> thằng nhỏ đã bưng đến thềm.<br /> Hôm nay là ngày ra bảng kỳ đệ tam, nhà trọ làm cơm sớm hơn mọi ngày,<br /> có ý để các ông khách thừa thãi thì giờ đi chơi chúng bạn.<br /> Cố nhiên ở trong mâm cơm, cảm tình của ông chủ nhà càng nồng nàn<br /> hơn những ngày ra bảng hai kỳ đệ nhất, đệ nhị. Ông ta đã cố mua chuộc lòng<br /> khách bằng những món ăn rất cầu kỳ. Rượu rót rồi. Đoàn Bằng khai mào câu<br /> chuyện trước khi cất chén:<br /> - Chúng mình còn được chè chén lu bù, chứ mấy ông quan chấm trường,<br /> nhất là những ông sơ khảo, phúc khảo bây giờ đương khổ vô hạn.<br /> Đốc Cung nâng chén và hỏi:<br /> - Sao vậy?<br /> Đoàn Bằng nhắp một hớp rượu rồi đáp:<br /> - Kham khổ quá, chứ có sao đâu! Theo lệ, cứ mỗi khoa thi, riêng trường Hà<br /> Nội, được có một ông chủ khảo, một ông phó chủ khảo, hai ông giám khảo,<br /> hai ông phân khảo, mười ông phúc khảo và hai mươi ông sơ khảo. Lương các<br /> ông ấy không được tính tháng, phải tính trọn một kỳ thi. Bắt đầu từ lúc tiến<br /> trường đến khi thi xong các công việc, ông chủ khảo được năm chục quan, và<br /> mười phương gạo trắng, ông phó chủ khảo được bốn nhăm quan, số gạo<br /> cũng được như ông chủ khảo. Những ông giám khảo đều ba nhăm quan và<br /> tám phương gạo, các ông phúc khảo mỗi ông được hai nhăm quan và năm<br /> phương gạo, những ông sơ khảo thì bần tiện nhất chỉ được mỗi ông bốn<br /> phương gạo và hai chục quan…<br /> Đốc Cung ngắt lời:<br /> - Ừ, thì nhà nho ăn tiêu tằn tiện, trong hơn một tháng, một mình dùng hai<br /> chục quan cũng đủ lắm rồi.<br /> Đoàn Bằng lắc đầu:<br /> - Tiếng được hai chục quan tiền thật đó, nhưng khi ở trường có được tiêu<br /> một đồng nào. Là vì trong lúc làm trường, người ta đã tính đủ số quan<br /> trường, dựng cho mỗi một ông một gian nhà lá, trong nhà có bếp, có chuồng<br /> xí, có vại chứa nước, có nồi nấu cơm, đủ các đồ lề của một gia đình, bốn bên<br /> đều có phên nứa che kín, gian nọ không được thông với gian kia. Sau khi tiến<br /> trường, người ta tống hết các ông sơ khảo, phúc khảo, giám khảo cho mỗi<br /> ông vào một gian, rồi khóa trái cánh cửa ra ngoài, giao chìa khóa cho ông đề<br /> điệu, bao giờ thi xong, ông đề điệu mới mở cửa cho các ông này cùng ra.<br /> Như thế dù có tiền cũng không mua bán gì được.<br /> Đoàn Bằng lại hỏi:<br /> - Vậy thì những thức ăn uống hàng ngày lấy ở đâu ra?<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2