intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Liên kết với các vùng và địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

60
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này được nghiên cứu phục vụ các mục tiêu cụ thể khác nhau với cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bài viết này xuất phát từ tình hình thực tế và tập trung trình bày về một số vấn đề liên quan đến phát triển vùng và liên kết vùng/địa phương để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Liên kết với các vùng và địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> LIÊN KẾT VỚI CÁC VÙNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG TRONG<br /> PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PGS,TS. Bùi Tất Thắng*<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> VẤN ĐỀ LIÊN KẾT VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG Ở những cách tiếp cận, những tiêu chí đôi khi khác nhau<br /> VIỆT NAM HIỆN NAY khi đánh giá các mặt mạnh, mặt hạn chế để hoạch định<br /> Nhiều năm trở lại đây, phát triển vùng và liên kết vùng phương cách phát triển. Vì vậy, vùng - lãnh thổ để phát<br /> để phát triển luôn là một trong những chủ đề thu hút sự triển công nghiệp hay nông nghiệp, thủy sản hay cây<br /> quan tâm của không chỉ các nhà nghiên cứu về phương lương thực, kết cấu hạ tầng hay du lịch... có thể được nhìn<br /> diện học thuật, mà còn là nhu cầu thực tế trong công tác nhận không giống nhau trên mỗi không gian địa lý nhất<br /> quản lý của các cấp, các ngành; trong hoạt động kinh định. Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập<br /> doanh của doanh nghiệp; và thậm chí trong cuộc sống kinh tế quốc tế, ranh giới “vùng” của sự phát triển càng<br /> thường nhật của người dân. Đã có rất nhiều các công trở nên lỏng lẻo với các phạm vi không gian rộng, hẹp rất<br /> trình nghiên cứu về sự cần thiết, vai trò, cách thức, nội khác nhau. Ngay trong phạm vi quốc gia, sự việc cũng trở<br /> dung… của liên kết vùng vì sự phát triển. Các nghiên cứu nên phức tạp hơn khi các vùng, lãnh thổ được xem xét ở<br /> này được nghiên cứu phục vụ các mục tiêu cụ thể khác khía cạnh không gian kinh tế lại không phải bao giờ cũng<br /> nhau với cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bài viết trùng với ranh giới hành chính; trong khi việc quản lý sự<br /> này xuất phát từ tình hình thực tế và tập trung trình bày phát triển lại do những cơ quan hành chính chịu trách<br /> về một số vấn đề liên quan đến phát triển vùng và liên kết nhiệm. Vì vậy, thông thường, đối với công tác quản lý<br /> vùng/địa phương để phát triển kinh tế - xã hội của thành phát triển, khái niệm vùng, lãnh thổ kinh tế luôn gắn với<br /> phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới. các đơn vị hành chính và mang tính quy ước.<br /> 1. Khái niệm vùng, liên kết vùng Ở Việt Nam, trong các văn bản chính thức hiện hành,<br /> a) Vùng/lãnh thổ có các loại vùng như sau:<br /> Trong chính sách phát triển kinh tế, vùng/lãnh thổ là - Vùng kinh tế - xã hội: Là một bộ phận của lãnh thổ<br /> một trong những khái niệm gây nhiều tranh cãi, nhất là quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung<br /> khi liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nào đó. Lý do chủ ương có các hoạt động kinh tế - xã hội tương đối độc lập,<br /> yếu của tình hình này là các lĩnh vực khác nhau đều có thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước. Đây<br /> <br /> * Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư<br /> <br /> Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 59<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế trọng điểm. Trong đó, vùng kinh tế<br /> tế - xã hội theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam tập trung nhiều<br /> - xã hội trên mỗi vùng của đất nước. (Nghị định số 92/2006/NĐ-CP của Chính KCN nhất với gần 50% tổng số KCN<br /> phủ ngày 07 tháng 9 năm 2006 Về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể trên cả nước; vùng kinh tế trọng điểm<br /> phát triển kinh tế - xã hội; Điều 3. Khoản 6). Theo cách phân chia này, hiện nay, phía Bắc chiếm khoảng 20% tổng số<br /> ở Việt Nam có 6 vùng, gồm: Vùng núi và Trung du Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng KCN trên cả nước; và vùng kinh tế<br /> Sông Hồng, vùng Duyên Hải miền Trung, Vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng trọng điểm miền Trung chiếm xấp xỉ<br /> bằng sông Cửu Long. 10% tổng số KCN trên cả nước.<br /> Cả nước hiện có 15 khu kinh tế<br /> ven biển đã được thành lập gồm: 2<br /> khu ở vùng Đồng bằng sông Hồng;<br /> 10 khu ở vùng Duyên hải miền Trung<br /> và 3 khu ở vùng đồng bằng sông Cửu<br /> Long, với tổng diện tích mặt đất và<br /> mặt nước là hơn 662.000 ha.<br /> Các khu công nghệ gồm: Khu<br /> Công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội), Khu<br /> công nghệ cao Sài Gòn (Thành phố<br /> Hồ Chí Minh) và Khu công nghệ cao<br /> Đà Nẵng (Thành phố Đà Nẵng).<br /> + Hành lang kinh tế, vành đai<br /> kinh tế: Các hành lang kinh tế hiện<br /> đang xây dựng và hoạt động gồm:<br /> Hành lang Kinh tế Đông - Tây (East-<br /> West Economic Corridor - EWEC) là<br /> - Các lãnh thổ đặc biệt, bao gồm: Vùng kinh tế trọng điểm; khu kinh tế, khu một sáng kiến được nêu ra vào năm<br /> kinh tế quốc phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ của cả 1998 tại Hội nghị Bộ trưởng Tiểu vùng<br /> nước; hành lang kinh tế, vành đai kinh tế. (Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày Sông Mekong Mở rộng lần thứ tám tổ<br /> 11 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị chức tại Manila (Philippines) nhằm<br /> định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh<br /> duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội). tế giữa bốn nước Lào, Myanma, Thái<br /> + Vùng kinh tế trọng điểm: Là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, hội tụ Lan và Việt Nam. Hành lang này chính<br /> các điều kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò thức thông tuyến vào ngày 20 tháng<br /> động lực, đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. (Nghị định số 12 năm 2006. Hành lang kinh tế Côn<br /> 92/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 9 năm 2006 Về lập, phê duyệt và Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng<br /> quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; Điều 3. Khoản 7). Hiện nay, - Quảng Ninh và hành lang kinh tế<br /> ở Việt Nam có 4 vùng kinh tế trọng điểm, gồm: Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải<br /> Bắc, Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Phòng - Quảng Ninh (cùng với vành<br /> và Vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ - gọi tắt là hai<br /> + Khu kinh tế, khu kinh tế quốc phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất, hành lang, một vành đai) được hình<br /> khu công nghệ: Tính đến nay (8/2015), cả nước đã xây dựng và có quyết định thành trong khuôn khổ hợp tác kinh<br /> thành lập 295 khu công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích đất tự tế Việt Nam - Trung Quốc. Bên cạnh<br /> nhiên hơn 84 nghìn ha, trong đó có 212 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động; đó, sách báo kinh tế còn nói tới một<br /> 6 khu kinh tế cửa khẩu; 15 khu kinh tế ven biển. Các KCN được phân bổ ở số hành lang kinh khác như hành<br /> hầu khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh lang đường 18, đường 51, v.v....<br /> <br /> 60 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> + Ngoài ra, còn các các loại hình vùng đặc biệt nhưng sự công khai, minh bạch trong các chính sách, thông tin<br /> “lỏng” hơn như vùng núi; vùng đồng bằng; vùng trung du; và hoạt động của bộ máy công quyền; (ii) đảm bảo các<br /> vùng biển, ven biển và hải đảo; vùng biên giới; vùng sâu quyền về tài sản (cả hữu hình và vô hình); và (iii) đảm bảo<br /> vùng xa; vùng khó khăn; vùng đô thị; vùng nông thôn; duy trì chế độ hợp đồng.<br /> vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh,… - Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và<br /> Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước còn hình hiện đại.<br /> thành Ban chỉ đạo của 3 vùng mới: Tây Bắc, Tây Nguyên 2. Hiện trạng liên kết vùng/địa phương ở Việt Nam<br /> và Tây Nam Bộ. Trong bối cảnh chuyển sang kinh tế thị trường, nền<br /> - Vùng/lãnh thổ theo cấp quản lý hành chính: Lãnh thổ kinh tế Việt Nam cũng có đầy đủ các kiểu liên kết vùng-<br /> cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và lãnh lãnh thổ, bao gồm:<br /> thổ cấp huyện (huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) - Các hình thức liên kết tự nhiên của quá trình phát<br /> và cấp xã/phường/thị trấn. triển, trong đó nổi bật nhất là kiểu liên kết mang tính lan<br /> Trong hệ thống các vùng kể trên, chỉ có các vùng/lãnh tỏa, lôi kéo giữa trung tâm và ngoại vi, đô thị và nông<br /> thổ theo cấp quản lý hành chính (tỉnh/thành phố, huyện/ thôn. Dạng liên kết này diễn ra một cách tự nhiên, khách<br /> thị xã và xã/phường/thị trấn là có cấp quản lý theo chính quan trong quá trình phát triển, trước hết là từ các trung<br /> quyền; các khu kinh tế, khu công nghiệp là có ban quản tâm, các đô thị với các ngành kinh tế đặc thù là công<br /> lý; các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ có Ban chỉ nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ. Chủ thể chính của<br /> đạo; và các vùng kinh tế trọng điểm có Ban điều phối. Các loại hình liên kết này là các doanh nghiệp, các đơn vị sự<br /> vùng khác không xác định các cơ quan quản lý rõ ràng. nghiệp và các gia đình, cá nhân. Đây là loại liên kết giữa<br /> b) Liên kết vùng/địa phương các chủ thể đóng trên địa bàn của các vùng khác nhau với<br /> Mỗi một vùng/địa phương (bất kể quy mô và hình nhau (liên kết theo chiều ngang) và mang nặng tính thị<br /> thức như thế nào) đều có một số đặc điểm chung, nổi trội trường, gồm các giao dịch mua bán, các loại hợp đồng, cổ<br /> so với các vùng/địa phương khác. Sự khác biệt giữa các phần công ty…<br /> vùng/địa phương tự nó cũng hàm nghĩa là mỗi vùng/địa - Liên kết theo quan hệ phân cấp chính quyền giữa<br /> phương đều có những thế mạnh (và thế yếu) đặc thù, tạo Trung ương và địa phương (liên kết dọc, giữa cơ quan<br /> ra những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định trong quản lý vùng lớn với vùng nhỏ), nên mang nặng tính<br /> sự phân công lao động xã hội. Liên kết vùng/địa phương mệnh lệnh hành chính (bắt buộc) và chủ thể chính là các<br /> không chỉ bù đắp những khoảng trống, thiếu hụt nguồn cấp quản lý theo thứ bậc trên - dưới. Loại liên kết này chủ<br /> lực giữa các vùng/địa phương, mà còn gia tăng tính lợi yếu bao gồm các lĩnh vực liên kết trong xử lý các vấn đề<br /> ích nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô. Vì thế, một cách tự mang tính liên ngành: Xây dựng quy hoạch phát triển<br /> nhiên, để phát triển sản xuất, đặc biệt là trong kinh tế thị ngành và vùng ở từng địa phương; xây dựng và thực thi<br /> trường, các vùng/địa phương tất yếu có nhu cầu liên kết chính sách thu hút và phân bổ đầu tư; xây dựng và phát<br /> (cả nội vùng lẫn liên vùng). triển các sản phẩm chủ yếu; xây dựng hệ thống cơ sở<br /> Do việc quản lý vùng/địa phương có các chủ thể nhất hạ tầng vùng, như đường sá, cảng biển, sân bay; cơ sở<br /> định, nên việc liên kết vùng/địa phương có thể được thúc hạ tầng thông tin liên lạc; bệnh viện, trường học, trung<br /> đẩy hay kìm hãm bởi các chính sách rất cụ thể. Bởi vậy, tâm nghiên cứu; xây dựng các khu, cụm công nghiệp,<br /> những nghiên cứu về liên kết vùng/địa phương còn chỉ ra khu chế xuất, khu công nghệ cao; vùng sản xuất nông<br /> những điều kiện của liên kết vùng/địa phương một cách nghiệp; trung tâm thương mại, du lịch và dịch vụ; phát<br /> hiệu quả, bền vững; trong đó phải kể đến: triển nguồn nhân lực và đào tạo; xây dựng và thực thi các<br /> - Sự tương đồng về thể chế và sự đồng thuận của các chính sách xóa đói giảm nghèo; các chính sách liên quan<br /> nhóm xã hội cùng chia sẻ lợi ích chung, trong đó có lợi đến di cư và di chuyển lao động và nhà ở; giải quyết các<br /> ích phát triển riêng của mỗi vùng/địa phương. vấn đề xã hội; bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên<br /> - Sự đồng bộ về khuôn khổ thể chế, sự nhất quán về thiên nhiên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi<br /> cơ chế chính sách và sự thông thoáng trong cung cách khí khậu, phòng trách và khắc phục các thảm họa thiên<br /> quản trị của các vùng/địa phương, nhất là về các mặt: (i) tai; v.v….<br /> <br /> Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 61<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> - Liên kết giữa các vùng/địa phương với nhau, chủ yếu Bốn là, gần đây xuất hiện hiện tượng các tỉnh thành<br /> do các cơ quan quản lý cấp địa phương với nhau (liên kết gia tăng hoạt động xúc tiến đầu tư một cách riêng rẽ, tuy<br /> theo chiều ngang) và mang tính hành chính tự nguyện. thể hiện được tinh thần năng động, tích cực; nhưng ở góc<br /> Loại hình liên kết này mới được quan tâm nhiều hơn độ của các nhà đầu tư thì lại thấy một đối tác thiếu tính tổ<br /> trong những năm gần đây. Về lý thuyết, các lĩnh vực cần chức và thống nhất về đường hướng, chính sách và thông<br /> thiết phải phối hợp hành động cũng giống như trong liên tin. Hậu quả là đôi khi lợi bất cập hại.<br /> kết dọc giữa các cơ quan quản lý theo phân cấp (trung Năm là, sự phối hợp giữa các địa phương còn mang<br /> ương - địa phương) nêu trên, chỉ khác là cách thức tiến tính hình thức, thiếu cơ chế liên kết và thực hiện các cam<br /> hành thì diễn ra theo chiều ngang (giữa các địa phương kết phối hợp một cách hiệu quả. Các thỏa thuận hợp tác,<br /> với nhau) và chủ yếu mang tính tự nguyện. liên kết giữa các địa phương nhiều khi còn chưa có sự<br /> phối hợp thực chất, chưa xuất phát từ yêu cầu thực tế<br /> Vì nhiều lý do về thể chế, cho tới nay, các liên kết khách quan. Nội dung liên kết còn chung chung, chưa rõ<br /> vùng theo chiều dọc (Trung ương và địa phương) vẫn ưu tiên, chưa tạo ra lợi ích thiết thực, động lực cho tất<br /> là loại liên kết chủ yếu, thậm chí trong một số trường cả các bên tham gia liên kết, chưa lôi kéo được khu vực<br /> hợp còn lấn át các loại liên kết ngang. Tính vùng trong doanh nghiệp tham gia liên kết mà chủ yếu là các cấp<br /> quan hệ liên kết dọc chưa được tính đến một cách thỏa chính quyền địa phương. Khi xây dựng quy hoạch, việc<br /> đáng. Bằng chứng rõ ràng là việc chạy đua quyết liệt đóng góp ý kiến của các địa phương khác trong vùng vẫn<br /> trong việc xây dựng những dự án các loại trên địa bàn còn mang tính hình thức, chưa xác định rõ nội dung, cách<br /> các tỉnh mà từ lâu, cả trên các phương tiện thông tin đại thức liên kết, phối hợp trong phát triển.<br /> chúng lẫn các diễn đàn chính thức, chúng được xem như Các cơ chế phối hợp hiện nay chủ yếu mang tính<br /> những “phong trào”, những “hội chứng” về nhà máy tự nguyện, không có sự ràng buộc trách nhiệm, chế tài<br /> rượu bia, xi măng, thủy điện, cảng biển, sân bay, khai chặt chẽ. Thực tế, đã có một số địa phương mặc dù đã<br /> thác khoáng sản, khu đô thị, v.v...; tạo thành nhiều “nền có những cam kết nhưng vì lợi ích cục bộ của mình đã<br /> kinh tế” trong một nền kinh tế quốc gia. Xu hướng này không tham gia tích cực vào việc liên kết vùng (thí dụ<br /> gây ra một số vấn đề nổi cộm trong nền kinh tế hiện nay. trong kết nối các tuyến giao thông, xây dựng các khu xử<br /> lý chất thải nguy hại...).<br /> Một là, tình trạng thiếu thống nhất về những thông Thực ra, các quy định mang tính pháp lý về liên kết,<br /> tin kinh tế cơ bản, khiến cho việc tìm hiểu môi trường phối hợp cả chiều dọc lẫn chiều ngang trên một số lĩnh<br /> kinh doanh trở nên khó khăn, thậm chí gia tăng chi phí vực quản lý vĩ mô đã được nhà nước ban hành. Hầu như<br /> tìm hiểu và gia nhập thị trường. Đây là vấn đề tồn đọng trong các văn bản pháp lý, phần nói về giải pháp và/hoặc<br /> từ lâu và vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng, khiến cho tổ chức thực hiện, đều có đề cập đến vấn đề phối hợp<br /> sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh chậm được giữa các ngành, các địa phương. Đặc biệt, riêng trong lĩnh<br /> được cải thiện. vực liên kết, phối hợp vùng, Thủ tướng Chính phủ đã ban<br /> Hai là, cuộc chạy đua xây dựng các công trình kết hành Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg về Quy chế phối<br /> cấu hạ tầng (bến cảng, sân bay…), khu đô thị, khu công hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế<br /> nghiệp và một số loại sản phẩm với cơ cấu kinh tế na ná trọng điểm. Theo Quyết định này, các Bộ, tỉnh/thành phố<br /> như nhau giữa các tỉnh, khiến cho trong một số lĩnh vực, thuộc vùng kinh tế trọng điểm sẽ phải tham gia, phối hợp<br /> không sử dụng hết công suất, xuất hiện tình trạng dư trong quá trình xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển<br /> cung, dẫn đến lãng phí nguồn lực. kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm; quy hoạch tổng<br /> Ba là, xuất hiện tình trạng tranh chấp tài nguyên (tranh thể phát triển KTXH của các địa phương trong vùng; quy<br /> giành) và xử lý ô nhiễm môi trường (đùn đẩy). Không hiếm hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, quy hoạch<br /> ví dụ những cơ sở sản xuất hoặc khu công nghiệp ở tỉnh này ngành, quy hoạch sản phẩm chủ yếu; huy động vốn đầu<br /> gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt hại kinh tế (và sức khỏe tư phát triển và đầu tư phát triển; phát triển đào tạo và<br /> con người) cho chính họ và cho những tỉnh khác (nhất là ô sử dụng lao động; rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành<br /> nhiễm nguồn nước), nhưng chưa có cơ chế xử lý thỏa đáng. thực hiện cơ chế, chính sách tài chính, đầu tư; thiết lập hệ<br /> <br /> 62 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> thống thông tin và cung cấp thông tin vùng…Việc phối - Nội dung lập, phê duyệt và quản lý các quy hoạch còn<br /> hợp tốt các vấn đề này sẽ tránh được sự chồng chéo, trùng bất cập<br /> lắp trong phát triển giữa các địa phương trong vùng. Trong nội dung của quy hoạch phát triển ngành, sản<br /> Ngoài ra, Ban chỉ đạo các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, phẩm đã yêu cầu luận chứng các phương án phát triển và<br /> Tây Nam Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương khuyến nghị phương án phân bố sản xuất trên các vùng và<br /> đã tổ chức nghiên cứu và tiến hành trên thực tế các hoạt các tỉnh, tuy nhiên trong một số quyết định phê duyệt quy<br /> động liên kết vùng. Trong khuôn khổ các vùng đô thị như hoạch không chỉ rõ phương án phân bố sản xuất trên các<br /> vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, cũng tỉnh, là địa bàn có cơ quan hành chính nhà nước quản lý.<br /> có Ban Chỉ đạo quy hoạch và đầu tư xây dựng vùng, thực Phương pháp luận về quy hoạch, quản lý quy hoạch<br /> hiện công tác hoạt động điều phối, liên kết vùng có nhiều phát triển sản phẩm trong điều kiện kinh tế thị trường<br /> sáng kiến liên kết, hợp tác của các địa phương. chưa rõ.<br /> Những mặt tồn tại, hạn chế nêu trên do các nguyên Quy hoạch vùng chưa chỉ rõ các nhiệm vụ của các địa<br /> nhân chủ yếu: phương dựa trên lợi thế của mình.<br /> - Chức năng, nhiệm vụ của các địa phương không tạo Công tác tổ chức lập, thẩm định các quy hoạch phát<br /> động lực cho sự liên kết vùng triển ngành, quy hoạch cấp vùng/tỉnh và cơ chế quản lý<br /> - Các địa phương vì nhiệm vụ về tăng trưởng và quy hoạch, phối hợp chỉ đạo thực hiện quy hoạch, việc<br /> chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu ngân sách... nên cạnh điều hành tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai<br /> tranh với nhau trong thu hút đầu tư, xây dựng các khu, quy hoạch... còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu, có<br /> cụm công nghiệp... Nhiều địa phương vẫn muốn duy trì giải pháp khắc phục.<br /> cơ cấu sản xuất toàn diện và khép kín. Chính sách của các (Kỳ sau: Liên kết vùng/địa phương trong phát triển kinh<br /> địa phương vẫn còn nặng tính phong trào. tế - xã hội ở Thủ đô Hà Nội)<br /> - Tổ chức, hoạt động của các Ban Chỉ đạo chưa tạo điều<br /> kiện thuận lợi cho việc liên kết, điều phối phát triển vùng Tài liệu tham khảo<br /> Chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tây 1) Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm<br /> Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay chưa tạo điều kiện thuận lợi cho 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy<br /> công tác liên kết vùng để phát triển kinh tế - xã hội. Chưa hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.<br /> xác định cụ thể nội dung, phương pháp phối hợp giữa 2) Báo cáo đánh giá nhu cầu đào tạo lồng ghép phát<br /> Ban với các địa phương trên địa bàn và với các Bộ, ngành. triển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế<br /> Hiệu lực của công tác điều phối tại các vùng KTTĐ hoạch của Dự án “Tăng cường năng lực lồng ghép phát<br /> chưa cao, do Ban Chỉ đạo, Văn phòng điều phối hoạt triển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế<br /> động phi hành chính. Các tổ chức điều phối không nắm hoạch”.<br /> nguồn lực, không có quyền quyết định đầu tư phát triển, 3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt<br /> chỉ có trách nhiệm tư vấn, do đó tiếng nói của tổ chức quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng<br /> điều phối còn hạn chế. Tổ điều phối các Bộ, ngành và các và địa phương; quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh<br /> địa phương tham gia còn hình thức (do không có cán bộ vực, sản phẩm.<br /> chuyên trách, nhưng chủ yếu nhận thức chưa đúng mức). 4) TS. Nguyễn Văn Huân Viện Kinh tế Việt Nam: Liên kết<br /> Các cán bộ tham gia tổ điều phối đều kiêm nhiệm nên vùng từ lý luận đến thực tiễn<br /> thời gian tham gia ít, trách nhiệm hạn hẹp. 5) TS. Hồ Kỳ Minh và Ths. Lê Minh Duy Nhất (Viện<br /> Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng): Liên kết<br /> vùng từ lý luận đến thực tiễn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 63<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> QUẢN LÝ ĐẦU TƯ, KHAI THÁC DỰ ÁN KHU ĐÔ THỊ MỚI<br /> <br /> <br /> <br /> ĐỀ XUẤT<br /> MỘT SỐ<br /> GIẢI PHÁP<br /> Ths. Nguyễn Hồng Phú*<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KHU ĐÔ THỊ MỚI - có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quyết định<br /> MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, một<br /> Trên thực tế việc quản lý đầu tư xây dựng khu đô thị số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho<br /> mới (KĐTM) thời gian qua còn lỏng lẻo, vì vậy rất cần phép đầu tư dự án KĐTM, không kiểm tra kỹ các điều<br /> hoàn thiện các quy định cho phù hợp, tránh tình trạng kiện của dự án, các chủ đầu tư cố tình lách luật để việc<br /> một số địa phương quá chú trọng đến thu hút đầu tư mà phê duyệt giao cho địa phương, các địa phương thì dễ<br /> không để ý đến quy trình cấp phép dẫn đến nhiều dự án dãi nhằm thu hút đầu tư. Cơ chế quản lý sử dụng đất của<br /> nhà ở trong KĐTM không lập theo quy định, gây ra khó dự án còn lỏng lẻo cùng với đó việc quản lý thực hiện<br /> khăn cho người dân trong việc chứng nhận quyền sở hữu theo quy hoạch xây dựng còn kém hiệu quả, hiện tượng<br /> nhà và các quyền cư trú hợp pháp khác. Hay việc quản lý lấn chiếm, xây dựng, trồng trọt trái phép đã gây khó khó<br /> trong quá trình đầu tư xây dựng của cơ quan nhà nước có khăn cho công tác giao đất, giải phóng mặt bằng (GPMB)<br /> thẩm quyền chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng để các chủ khiến việc triển khai thực hiện dự án tiến triển chậm và<br /> đầu tư chỉ tập trung vào việc tăng diện tích kinh doanh chi phí đền bù GPMB tăng vọt gây lãng phí đất đai và bức<br /> mà không quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xúc đối với xã hội.<br /> xã hội, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các hộ dân trong Mặt khác, việc phân cấp quản lý các dự án KĐTM cũng<br /> KĐTM. phát sinh những vấn đề cần được xem xét, điều chỉnh,<br /> Việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng để khắc phục tình trạng khống chế các dự án KĐTM quy<br /> Đối với việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng dự án mô nhỏ hơn 200ha để địa phương được tự quyết định,<br /> KĐTM, theo quy định hiện hành, Ủy ban nhân dân cấp không phải xin phép Thủ tướng Chính phủ, dẫn đến thực<br /> tỉnh có thẩm quyền quyết định đầu tư, cấp giấy phép đầu tế thiếu sự quản lý, kiểm soát của Chính phủ đối với quá<br /> tư và quản lý thực hiện các dự án đầu tư xây dựng KĐTM trình chuẩn bị và triển khai thực hiện dự án KĐTM.<br /> trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh. Thủ tướng chỉ Thủ tục đầu tư xây dựng nhà ở trong KĐTM theo quy<br /> phê duyệt chủ trương đầu tư và cho phép đầu tư đối với định của pháp luật về nhà ở nói chung và Nghị định<br /> các dự án KĐTM có diện tích từ 200ha trở lên. Dự án KĐTM 02/2006/NĐ-CP nói riêng còn có sự khác nhau. Theo pháp<br /> <br /> *Viện Kinh tế Xây dựng, Bộ Xây dựng<br /> <br /> 64 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> luật về nhà ở, trước khi đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án chưa có. Phổ biến tình trạng quy hoạch ban đầu thì có<br /> (không phân biệt quy mô diện tích đất) thì chủ đầu tư đầy đủ các công trình hạ tầng nhưng sau đó điều chỉnh<br /> phải lập dự án nhà ở để trình UBND cấp tỉnh hoặc UBND quy hoạch và không có các công trình hạ tầng nữa để<br /> cấp huyện hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chuyển đất làm công trình khác. Thực tế cho thấy nhiều<br /> (đối với dự án sử dụng vốn ngân sách) hoặc trình UBND chủ đầu tư chỉ ưu tiên thực hiện các công trình nhà ở để<br /> cấp huyện, UBND cấp tỉnh hoặc trình Thủ tướng Chính kinh doanh, quy hoạch chi tiết bị điều chỉnh nhiều lần với<br /> phủ phê duyệt (đối với dự án sử dụng vốn ngoài ngân mục đích tăng diện tích kinh doanh, giảm diện tích công<br /> sách). Nhưng theo Quy chế KĐTM ban hành kèm theo trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, không phù hợp với quy<br /> Nghị định 02/2006/NĐ-CP thì chủ đầu tư dự án KĐTM chuẩn quy hoạch về chỉ tiêu các công trình hạ tầng xã hội.<br /> (không phân biệt nguồn vốn đầu tư) chỉ cần lập dự án Nhiều dự án KĐTM thiếu các hạng mục công trình như<br /> KĐTM (trong đó có cả nhà ở) để trình UBND cấp tỉnh cho trường mầm non, phòng sinh hoạt tổ dân phố, nhà văn<br /> phép đầu tư mà không phải lập thêm dự án nhà ở theo hóa khu dân cư, phòng sinh hoạt thể dục thể thao, chỗ<br /> pháp luật về nhà ở, trong trường hợp dự án KĐTM có quy để ô tô, xe máy,…<br /> mô sử dụng đất từ 200ha trở lên thì phải trình Thủ tướng Cấp phép đầu tư, quản lý thực hiện đầu tư<br /> Chính phủ chấp thuận. Thực tế cho thấy, có nhiều trường Thủ tục cấp phép đầu tư còn chưa rõ ràng dẫn đến tính<br /> hợp chủ đầu tư cấp I thực hiện đầu tư xây dựng các khu trạng cấp phép đầu tư cho nhiều doanh nghiệp không đủ<br /> nhà ở hoặc công trình nhà ở cao tầng trong KĐTM để bán năng lực dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực xã hội.<br /> cho người dân nhưng do không lập dự án nhà ở riêng Chủ đầu tư tìm cách điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi<br /> biệt nên đã dẫn đến hiện tượng là có địa phương không tiết của dự án đã được phê duyệt khi giao đất, cho thuê<br /> cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho người mua đất như tăng hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, điều<br /> nhà vì không có dự án nhà ở được lập theo quy định của chỉnh chức năng sử dụng đất, thay đổi vị trí các hạng mục<br /> pháp luật về nhà ở. công trình,… để tăng lợi nhuận.<br /> Quản lý xây dựng và chất lượng xây dựng công trình<br /> Việc quản lý xây dựng và chất lượng xây dựng công<br /> Theo khảo sát ở một số khu đô thị tại địa bàn<br /> trình được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản<br /> Hà Nội đã phát hiện rất nhiều bất cập, đặc biệt<br /> lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý đầu tư xây dựng đối<br /> là những “lỗ hổng” trong quản lý từ công tác quy<br /> với từng dự án KĐTM được thực hiện riêng theo điều lệ<br /> hoạch đến phát triển xây dựng. Tại hầu hết các<br /> quản lý thực hiện dự án KĐTM đó. Trong đó, chủ đầu tư<br /> dự án đều có sự điều chỉnh về chức năng sử dụng,<br /> cấp I là đầu mối, có quyền hạn và trách nhiệm quản lý việc<br /> quy hoạch chi tiết so với quy hoạch ban đầu, có<br /> xây dựng, chất lượng xây dựng và trật tự xây dựng toàn<br /> dự án còn bị điều chỉnh tăng diện tích xây dựng<br /> bộ các công trình thuộc dự án KĐTM. Tại rất nhiều dự án<br /> nhà ở dẫn đến kiến trúc bị phá vỡ; một số khác thì<br /> KĐTM, hệ thống các công trình hạ tầng trong các KĐTM<br /> chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng cây xanh<br /> (bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội) không<br /> sang xây dựng công trình thương mại, câu lạc bộ,<br /> được đầu tư đồng bộ, không kết nối được với hạ tầng<br /> nhà hàng... khiến cảnh quan môi trường khu đô<br /> khu vực xung quanh. Việc xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ<br /> thị bị thu hẹp. Có thể dễ dàng nhận thấy, nguyên<br /> thuật, hạ tầng xã hội vừa chậm, vừa thiếu, nhiều dự án<br /> nhân chính đều xuất phát từ mục đích tăng diện<br /> KĐTM đã bán nhà ở cho người dân vào sinh sống song<br /> tích nhà ở, khu kinh doanh, dịch vụ, thương mại<br /> các công trình hạ tầng thiết yếu và các dịch vụ đô thị vẫn<br /> của chủ đầu tư nhằm có thêm lợi nhuận. Việc<br /> Một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho điều chỉnh này đã tạo ra nhiều hệ luỵ, bất hợp lý<br /> phép đầu tư dự án khu đô thị mới trong xây dựng khiến mục đích sử dụng của các<br /> công trình trong đồ án không đảm bảo và ảnh<br /> hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân; phá<br /> vỡ cảnh quan kiến trúc của khu đô thị, khu nhà ở<br /> và kéo theo tiến độ của các công trình xây dựng<br /> bị gián đoạn.<br /> <br /> Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 65<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> Các địa phương phần lớn phát triển khu đô thị theo Tại Điều 16 Quy chế KĐTM đã quy định rõ tổ chức thực<br /> quy hoạch và phong trào của những chủ đầu tư có tiền, hiện KĐTM trên cơ sở đảm bảo yêu cầu cơ bản về nguyên<br /> có tiềm lực chứ chưa chú trọng vào việc phát triển các tắc một đầu mối quản lý mặt bằng. Theo đó, Chủ đầu tư<br /> dự án có kế hoạch và có định hướng cho địa phương. Vì cấp 1 là đầu mối tổ chức thực hiện quản lý mặt bằng xây<br /> vậy, nhiều địa phương có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu dựng đối với dự án KĐTM, Chủ đầu tư cấp 2 là đầu mối tổ<br /> hàng hoá bất động sản. Người dân phần lớn có nhu cầu chức thực hiện quản lý mặt bằng đối với dự án được tham<br /> ở phân khúc bất động sản giá rẻ, mà các nhà đầu tư lại gia. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều dự án KĐTM tổ<br /> muốn kinh doanh ở lĩnh vực bất động sản hạng sang, bất chức thực hiện đầu tư xây dựng chưa tốt để xảy ra tình<br /> động sản du lịch để tìm kiếm lợi nhuận cao. Như vậy bài trạng công trình xây dựng chưa xong mà một số hạng<br /> toán hiệu quả xã hội mà địa phương phải giải trong việc mục đầu tư hạ tầng đã hư hỏng như KĐTM Trung Văn ..<br /> cấp phép đầu tư các dự án là chưa đúng hướng. Vì vậy, hay việc xây dựng công trình xây dựng xong nhưng hạ<br /> việc cấp thiết để địa phương có thể chủ động trong xây tầng chưa đấu nối được như KĐTM Vân Canh, hay làm<br /> dựng nguồn cung phù hợp cho địa phương mình chính xong hạ tầng nhưng chậm triển khai các hạng mục công<br /> là việc xây dựng một kế hoạch quy hoạch đầu tư xây trình gây lãng phí như KĐTM Sài Đồng,…<br /> dựng với định hướng rõ ràng phù hợp với địa bàn và nhu Đối với dự án KĐTM, khu nhà ở đã được cấp có thẩm<br /> cầu thực tế của địa phương. Việc cấp phép phải thiên về quyền (UBND cấp tỉnh) phê duyệt quy hoạch chi tiết xây<br /> hướng đánh giá cao tính hiệu quả về mặt xã hội của địa dựng và giao cho một đơn vị xây dựng đồng bộ hệ thống<br /> phương. Mạnh dạn không cấp phép đầu tư đối với các dự hạ tầng kỹ thuật (chủ đầu tư cấp 1), việc đầu tư xây dựng,<br /> án không phù hợp đặc thù, nhu cầu của địa phương. khai thác các công trình kiến trúc trên các ô đất thuộc<br /> Theo quy định của Nghị định số 02/2006/NĐ-CP thì khu đô thị, khu nhà ở được UBND cấp tỉnh giao cho các<br /> một trong những điều kiện của chủ đầu tư là phải có đơn vị khác triển khai (không do chủ đầu tư cấp 1 chuyển<br /> đăng ký kinh doanh, do vậy tuyệt đại đa số chủ đầu tư nhượng) dẫn đến việc khó xác định các dự án đầu tư trên<br /> các dự án KĐTM đều là doanh nghiệp. Thực tế cho thấy các ô đất nêu trên có được coi là dự án thứ phát trong<br /> một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định KĐTM, dự án nhà ở hay không.<br /> về cho phép đầu tư dự án KĐTM. Không kiểm tra kỹ các Tình trạng chia lô bán nền, đầu cơ đất, không hình<br /> điều kiện của chủ đầu tư, còn dễ dãi nhằm thu hút đầu thành đô thị còn phổ biến. Trong thực tế có nhiều dự án<br /> tư. Nhiều trường hợp một doanh nghiệp được giao nhiều KĐTM chủ đầu tư cấp I không đầu tư xây dựng hạ tầng mà<br /> dự án cùng một lúc nên không có đủ khả năng thực hiện. thực chất là chia lô bán nền, lợi nhuận từ đất không được<br /> Nhiều chủ đầu tư không có đủ điều kiện, nhất là điều kiện đưa vào đầu tư xây dựng hạ tầng, các chủ đầu tư thứ phát<br /> về kinh nghiệm và tài chính để thực hiện dự án dẫn đến đầu cơ đất, chờ lên giá để bán kiếm lời, dẫn đến diện tích<br /> dự án không được triển khai hoặc chậm được triển khai, đất của dự án không được phủ kín theo tiến độ, không<br /> thậm chí có trường hợp bán trao tay để hưởng chênh hình thành nên khu đô thị.<br /> lệch dẫn đến tình trạng dự án treo, gây lãng phí đất đai và<br /> bức xúc đối với xã hội.<br /> Trong vấn đề thuế, nên khuyến khích các giao dịch chính thức công khai,<br /> hạn chế thấp nhất các giao dịch “ngầm”<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 66 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br /> KINH NGHIỆM QUẢN LÝ<br /> <br /> Việc hoàn thành, khai thác, chuyển giao các dự án Vì vậy, quy định về vấn đề này trong các dự án KĐTM tại<br /> KĐTM mỗi địa phương không có sự thống nhất. Do Nghị định<br /> Việc hoàn thành, khai thác và chuyển giao của dự án số 02/2006/NĐ-CP chưa có quy định phần diện tích nào<br /> KĐTM chủ yếu quy định những nội dung của việc chuyển thuộc sở hữu chung và phần diện tích nào thuộc sở hữu<br /> giao, từ chuyển giao không bồi hoàn các hạ tầng công riêng trong dự án KĐTM nên việc quản lý, vận hành cả dự<br /> trình được quy định tại quyết định đầu tư, giấy phép đầu án KĐTM chưa đạt yêu cầu đề ra.<br /> tư và việc chuyển giao công trình tự nguyện do chủ đầu Những khuyến khích và ưu đãi trong đầu tư KĐTM<br /> tư đề nghị. Trong giai đoạn chưa chuyển giao hoặc không được quy định dựa trên cơ sở đặc thù của từng loại dự<br /> chuyển giao, chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm vận án KĐTM. Các cơ quan quản lý Nhà nước và chính quyền<br /> hành các công trình hạ tầng phục vụ hoạt động chung địa phương trong việc tạo điều kiện hình thành đầu vào<br /> của toàn dự án. Quy chế KĐTM cũng quy định cụ thể việc cho dự án, các khuyến khích, điều kiện ưu đãi... cho dự án<br /> kinh doanh của chủ đầu tư trong dự án KĐTM, bao gồm: KĐTM.<br /> việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất, cho MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NHÀ<br /> thuê công trình, chuyển nhượng công trình, kinh doanh Ở KHU ĐÔ THỊ MỚI<br /> dịch vụ hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ quản lý chung cư, dịch Đối với việc công nhận chủ đầu tư các dự án phát triển<br /> vụ sau kinh doanh. Tuy nhiên vấn đề sở hữu chung – sở nhà ở thương mại, theo quy định của Luật Nhà ở 2014,<br /> hữu riêng trong KĐTM chưa được quy định cụ thể dẫn các nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở hợp pháp thì mới<br /> đến gần đây rất nhiều cư dân ở các KĐTM, chủ yếu ở Hà được xem xét công nhận là chủ đầu tư dự án. Trong khi<br /> Nội kiện tụng kéo dài đòi được sử dụng miễn phí bãi đỗ đó, Luật Đất đai không quy định phải là đất ở; hơn nữa,<br /> xe, vì cho rằng khi mua căn hộ, chủ đầu tư đã phân bổ vào trên thực tế, các nhà đầu tư nhận chuyển quyền sử dụng<br /> giá thành chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật, diện tích công đất nông nghiệp để thực hiện dự án nhà ở thương mại thì<br /> cộng, diện tích dùng chung... Các cơ quan chức năng phổ biến, rất ít nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở. Sau<br /> đang lúng túng không có căn cứ giải quyết do hợp đồng khi được công nhận, chủ đầu tư, mới có cơ sở tiến hành<br /> mua bán không thỏa thuận cụ thể về vấn đề này, còn thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định. Do<br /> doanh nghiệp lấy lý do “bí mật kinh doanh” không chịu đó, kiến nghị cho phép công nhận chủ đầu tư đối với<br /> cung cấp cơ cấu giá. Cần phải đưa ra quy định thống nhất trường hợp nhà đầu tư có quyền sử dụng đất hợp pháp<br /> về cơ cấu giá thành căn hộ gồm những gì. Suất đầu tư hạ (chưa phải là đất ở) phù hợp với quy hoạch được duyệt là<br /> tầng và diện tích dùng chung có được phân bổ vào giá đất ở, kế hoạch sử dụng đất để phát triển đô thị, không<br /> thành căn hộ bán cho người sử dụng không? Nếu không yêu cầu bắt buộc phải có quyền sử dụng đất ở mới được<br /> cộng thì giá căn hộ như thế nào, nếu đã phân bổ thì các công nhận là chủ đầu tư.<br /> diện tích ấy phải được tính vào diện tích dùng chung của Trong vấn đề thuế, nên khuyến khích các giao dịch<br /> các cư dân đã mua nhà. chính thức công khai, hạn chế thấp nhất các giao dịch<br /> Nghị định số 02/2006/NĐ-CP chưa quy định cụ thể “ngầm” (không theo quy định của pháp luật hoặc không<br /> vấn đề này nên còn gây tranh cãi, khiếu kiện trong thực thể hiện giá trị thực của bất động sản) chiếm một tỷ trọng<br /> tế. Nghị định số 02/2006/NĐ-CP không có quy định cụ thể đáng kể trên thị trường. Nhà nước xem xét thuế thu nhập<br /> về vấn đề sở hữu chung- sở hữu riêng trong KĐTM mà chỉ từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển dịch bất động sản<br /> có quy định về việc hoàn thành, chuyển giao, khai thác và và các loại phí, lệ phí cần nghiên cứu điều chỉnh ở mức<br /> sử dụng công trình trong KĐTM. Theo đó, các công trình thuế suất hợp lý theo nguyên tắc ở mức thấp và giảm lệ<br /> sau khi xây dựng xong phải bàn giao đưa vào sử dụng. phí trước bạ nhằm khuyến khích người dân đăng ký sở<br /> Đối với phần sở hữu riêng của chủ đầu tư thì chủ đầu tư hữu (sử dụng) nhà đất.<br /> có trách nhiệm tổ chức quản lý, vận hành; đối với phần Về đất, việc thu tiền sử dụng đất một lần khi giao đất<br /> công trình xây dựng để bán thì chủ đầu tư phải làm thủ tạo áp lực vốn cho nhà đầu tư, hạn chế việc tăng cung bất<br /> tục cấp quyền sở hữu cho người mua. Việc xác định phần động sản cho thị trường đồng thời tạo áp lực tăng giá bất<br /> sở hữu chung - sở hữu riêng trong dự án KĐTM chỉ căn cứ động sản. Nhà nước nên cho phép thu tiền sử dụng đất<br /> vào mục đích đầu tư được nêu trong dự án do chủ đầu nhiều lần theo tiến độ thực hiện dự án.<br /> tư đề xuất và được chính quyền địa phương chấp thuận.<br /> Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 67<br /> TIN ĐÀO TẠO<br /> <br /> <br /> KHÓA ĐÀO TẠO QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH<br /> HỘI NHẬP QUỐC TẾ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Thời gian qua, xây dựng và phát triển đô thị luôn Mục tiêu của Khóa học là nhằm cung cấp những kiến<br /> là những vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam. thức và kinh nghiệm của Hàn Quốc về quản lý xây dựng<br /> Nhiều nguồn lực đã được đầu tư nhằm nâng cấp cơ sở hạ và phát triển đô thị theo hướng bền vững, góp phần<br /> tầng, quy hoạch xây dựng, điều chỉnh dân số,… hướng nâng cao sức cạnh tranh đô thị của Việt Nam nói chung<br /> tới mục tiêu quản lý và phát triển đô thị bền vững - mục và của TP. Hà Nội nói riêng trong thời kỳ hội nhập quốc tế.<br /> tiêu chung của cả Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Nhận Tại Khóa học này, trên cơ sở những kinh nghiệm tiên<br /> thức được tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực tiến của Hàn Quốc, với phương pháp giảng dạy tích cực,<br /> quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức hiện đại, lấy người học làm trung tâm, phát huy tối đa<br /> lãnh đạo, chuyên môn đô thị trên địa bàn, đáp ứng yêu tính chủ động của từng học viên, khuyến khích phát hiện<br /> cầu của TP. Hà Nội, trong hai ngày 21 và 22/8/2017, Học vấn đề và đề xuất giải pháp xử lý,... học viên Khóa học<br /> viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị - AMC đã phối hợp được những giáo sư nổi tiếng, giàu kinh nghiệm của các<br /> với Sở Nội vụ Hà Nội và Tổ chức định cư con người Liên Đại học Hàn Quốc danh tiếng (Đại học Hongik, Đại học<br /> Hợp quốc - UN Habitat tổ chức khóa đào tạo “Quản lý xây Anyang) trao đổi, thảo luận, hướng dẫn các tình huống<br /> dựng và phát triển đô thị bền vững trong bối cảnh hội nhập về xây dựng và phát triển đô thị theo hướng đô thị thông<br /> quốc tế - Kinh nghiệm từ Hàn Quốc”. minh qua các chuyên đề: Xây dựng đô thị thông minh;<br /> Tham dự Lễ khai giảng khóa đào tạo có ông Phạm Văn Bộ Liên kết đô thị - nông thôn.<br /> - Phó Giám đốc Học viện; ông Nguyễn Quang - Giám Với nội dung phong phú, thiết thực, bổ ích,... Khóa học<br /> đốc UN-Habitat Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bích Hoa - Phó đã góp phần nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát<br /> Trưởng phòng Đào tạo, Sở Nội vụ Hà Nội cùng 37 học triển xây dựng đô thị cho từng học viên nói riêng, cho<br /> viên Khóa học là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn ngành Xây dựng và các đô thị Việt Nam nói chung. Kết<br /> – nghiệp vụ các Sở Xây dựng, Giao thông vận tải, Tài thúc khóa học, học viên được cấp Giấy chứng nhận hoàn<br /> nguyên môi trường, Công thương, vv..., các Phòng Quản thành chương trình đào tạo “Quản lý xây dựng và phát<br /> lý Đô thị cấp Huyện trên địa bàn TP. Hà Nội. triển đô thị bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế- Kinh<br /> nghiệm Hàn Quốc”.<br /> <br /> 68 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br /> TIN ĐÀO TẠO<br /> <br /> <br /> BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CHO 162 ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG<br /> NHÂN DÂN CÁC CẤP TẠI TP. HỒ CHÍ MINH<br /> Ngày 15/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đề 6: Giám sát việc thực hiện giải quyết khiếu nại tố cáo;<br /> đô thị đã tiếp tục phối hợp với Sở Xây dựng, Sở Nội vụ và phòng, chống tham nhũng liên quan đến lĩnh vực xây<br /> Trường Trung cấp Xây dựng TP. Hồ Chí Minh tổ chức khóa dựng tại địa phương.<br /> Bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xây dựng cho đại biểu Hội Tham gia khóa học, học viên sẽ được hướng dẫn, trao<br /> đồng nhân dân các phường thuộc nhiều quận trên địa đổi, thảo luận và thực hành các bài tập tình huống sát<br /> bàn TP. Hồ Chí Minh. với thực tế của địa phương, góp phần nâng cao trình độ<br /> Tham dự Lễ Khai giảng khóa học có ông Đỗ Phi Hùng chuyên môn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đơn<br /> - Nguyên Phó Giám đốc Sở Xây dựng thành phố, ông vị, đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br /> Nguyễn Thanh Dũng - Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp và hội nhập quốc tế sâu rộng.<br /> Xây dựng cùng lãnh đạo, đại diện một số phòng ban và<br /> đông đủ học viên tham gia khóa học.<br /> Khóa học được tổ chức từ ngày 15/8/2017 đến ngày<br /> 29/8/2017 vào các ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần.<br /> Nội dung của khóa học bao gồm 06 chuyên đề: Chuyên<br /> đề 1: Tổng quan về công tác giám sát trong lĩnh vực xây<br /> dựng; Chuyên đề 2: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về<br /> trật tự xây dựng ở địa phương; Chuyên đề 3: Giám sát việc<br /> tuân thủ pháp luật về đầu tư xây dựng tại địa phương;<br /> Chuyên đề 4: Vai trò của hội đồng nhân dân các cấp trong<br /> quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây<br /> dựng; Chuyên đề 5: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về<br /> quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; Chuyên<br /> <br /> <br /> <br /> BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ VẬN HÀNH NHÀ CHUNG CƯ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG<br /> <br /> Sau những năm đổi mới cho đến nay,<br /> thị trường, nhà chung cư ở nước ta đã có<br /> những bước phát triển vượt bậc cả về<br /> số lượng và về chất. Tuy nhiên cùng với<br /> sự phát triển nhanh chóng về số lượng,<br /> quản lý vận hành nhà chung cư cũng đã<br /> nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập, như<br /> tranh chấp giữa chủ đầu tư và các hộ dân<br /> về diện tích sử dụng về dịch vụ, kỹ thuật<br /> quản lý vận hành của tòa nhà… Nhằm<br /> mục tiêu xây dựng hệ thống quản lý vận<br /> hành, đáp ứng dịch vụ kỹ thuật tốt nhất,<br /> quản lý quản trị tốt, hạn chế rủi ro xảy ra<br /> hay kỹ năng bán rủi ro cho tòa nhà chung<br /> <br /> Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 69<br /> TIN ĐÀO TẠO<br /> <br /> cư đang hoạt động. Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và chung cư và xử lý nước thải; nghiệp vụ quản lý việc sử<br /> đô thị phối hợp với Công ty Quản lý nhà chung cư thành dụng nhà chung cư; kiến thức cơ bản của pháp luật về<br /> phố Đà Nẵng tổ chức khóa học “Bồi dưỡng nghiệp vụ quản quản lý và sử dụng nhà chung cư; quản lý vận hành, bảo<br /> lý vận hành nhà chung cư” tại Đà Nẵng. hành, bảo trì hệ thống thiết bị phòng cháy và chữa cháy;<br /> Tham dự Lễ Khai giảng khóa học có các ông Trần quản lý, vận hành, bảo trì nhà và hệ thống cấp điện, cấp<br /> Quang Triết và ông Lê Doãn Lâm - Giám đốc và Phó Giám và thoát nước; kiến thức về pháp luật nhà ở, Luật Đất đai,<br /> đốc Công ty, ông Lê Đình Phương - Trưởng phòng Tổ chức dân sự và dân dụng liên quan tới nhà chung cư; quản lý<br /> kế hoạch, ông Nguyễn Tiến Dân - Phó Giám đốc Phân rủi ro, quản lý an ninh và ứng phó với thiên tai tại nhà<br /> viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị miền Trung cùng chung cư.<br /> đông đủ học viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn Kết thúc khóa học, học viên có thể điều hành, vận<br /> – nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc Công ty. hành tốt, xử lý các tính huống rủi ro, những vấn đề đang<br /> Khóa học diễn ra trong 04 ngày từ 08/8/2017 đến vướng mắc tại các tòa nhà chung cư và được cấp chứng<br /> 11/8/2017, học viên được truyền đạt những nội dung chỉ hoàn thành Khóa bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý vận<br /> về: Quản lý vận hành thang máy, thang cuốn trong nhà hành nhà chung cư.<br /> chung cư; quản lý vệ sinh, môi trường, cảnh quan của nhà<br /> <br /> <br /> <br /> BỒI DƯỠNG VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ CẤP PHÉP XÂY DỰNG TẠI LẠNG SƠN<br /> <br /> Nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực về quản lý xây dựng; quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn xã, phường;<br /> dựng và cấp phép xây dựng cho các cán bộ làm công tác tiếp nhận thông tin vụ việc và giải quyết khiếu nại, tố cáo<br /> liên quan, ngày 08/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây về trật tự xây dựng trên địa bàn xã phường.<br /> dựng và đô thị phối hợp với Sở Xây dựng Lạng Sơn tổ Với phương pháp giảng dạy tích cực cùng nhiều bài<br /> chức khóa Bồi dưỡng một số nội dung về quản lý xây dựng tập tình huống cụ thể học viên dễ dàng tiếp thu nội<br /> và cấp phép xây dựng tại Lạng Sơn. dung khóa học, giúp trang bị cho bản thân những kiến<br /> Khóa học diễn ra trong 02 ngày (08/8/2017 - thức cơ bản, cần thiết góp phần nâng cao các kỹ năng<br /> 09/8/2017), giảng viên tham gia giảng dạy là người có tổ chức và thực hiện công tác quản lý xây dựng và cấp<br /> trình độ chuyên môn sâu và nhiều năm kinh nghiệm phép xây dựng tại cá
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2