intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật trong chiến lược ngoại ngữ thời hội nhập

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

48
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết sử dụng hướng tiếp cận liên ngành và liên văn hóa nhằm đưa ra giả thuyết: Chiến lược phát triển ngoại ngữ cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời hội nhập là tận dụng những hiểu biết về văn hóa và những kỹ năng nghệ thuật để giúp người học tiếp thu ngoại ngữ một cách hiệu quả hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật trong chiến lược ngoại ngữ thời hội nhập

  1. Ti
  2. u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp LỢI THẾ VĂN HÓA VÀ LỢI THẾ NGHỆ THUẬT TRONG CHIẾN LƯỢC NGOẠI NGỮ THỜI HỘI NHẬP Nguyn Hoàng Anh Tu n Trường ĐH KHXH& NV-ĐHQG Tp. HCM Tóm t t: Bài viết sử dụng hướng tiếp cận liên một xã hội ñại ñồng bình ñẳng của Thomas ngành và liên văn hóa nhằm ñưa ra giả thuyết: Chiến Friedman là hoang tưởng (trong ñó có Alan Phan). lược phát triển ngoại ngữ cho các cơ sở giáo dục ñại Dù cho những thành quả của IT có mang lại cuộc học Việt Nam thời hội nhập là tận dụng những hiểu biết cách mạng vĩ ñại về tri thức “nhưng thế giới sẽ về văn hóa và những kỹ năng nghệ thuật ñể giúp người vẫn là thế giới ta ñã quen biết suốt 5.000 năm lịch sử... Thật sự IT lại có khả năng làm gia tăng sự học tiếp thu ngoại ngữ một cách hiệu quả hơn. Kết quả cách biệt giàu nghèo, học thức và vô học... Người nghiên cứu cho thấy: Năng lực ngôn ngữ (ngữ pháp và biết sử dụng IT sẽ khôn khéo dùng lợi thế cạnh vốn từ vựng) là năng lực chuyên môn hẹp, không ñủ tranh này ñể kiếm tiền, kiếm quyền và nhiều ñặc giúp người học ngoại ngữ ñương ñầu với những thách lợi hơn so với ñám ñông còn bỡ ngỡ” [13: 13]. thức khi giao tiếp trong bối cảnh thời ñại hội nhập văn hóa. Để giao tiếp tốt, người sử dụng ngoại ngữ cần bổ Tương tự, Đề án Ngoại ngữ của Việt Nam (2014-2020) với tư cách là một chiến lược ñào tạo sung những năng lực liên ngành/liên văn hóa - chúng cần khai thác những lợi thế gì, hay chỉ làm gia tôi gọi ñó là lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật. tăng sự cách biệt giữa những cá thể có năng lực T khóa: chiến lược ngoại ngữ, liên ngành, liên văn ñặc biệt về ngoại ngữ so với “ñám ñông còn bỡ hóa, lợi thế văn hóa, lợi thế nghệ thuật. ngỡ”? Để giải quyết vấn ñề này, bài viết áp dụng DẪN NHẬP hướng nghiên cứu liên ngành và liên văn hóa, với giả thuyết: Chiến lược phát triển ngoại ngữ cho Xuất phát từ nhu cầu ñổi mới toàn diện giáo các cơ sở giáo dục ñại học Việt Nam trong thời kỳ dục ñại học Việt Nam, góp phần thiết thực triển hội nhập là tận dụng những (lợi thế) hiểu biết về khai Đề án Ngoại ngữ Quốc gia (2014-2020) do văn hóa và những kỹ năng nghệ thuật ñể giúp người Thủ tướng phê duyệt, chúng tôi viết bài Lợi thế học tiếp thu ngoại ngữ một cách hiệu quả hơn. văn hóa và lợi thế nghệ thuật trong chiến lược ngoại ngữ thời hội nhập. “Hội nhập, toàn cầu hóa, Mục ñích của bài viết là ñề xuất thuần túy về thế giới phẳng... là những danh từ thời thượng mà mặt lý thuyết, những chiến lược trình bày trong các chính trị gia và các chuyên gia sính dùng. Đó này là ñể khẳng ñịnh sự tiên tiến của giáo dục ám chỉ một hiện tượng mới về xã hội và kinh tế do phương Tây nhưng ñến nay vẫn còn mới mẻ và xa cuộc cách mạng công nghệ thông tin (IT) mang lại. lạ ñối với lịch sử giáo dục ngoại ngữ của Việt Nếu Thomas Friedman ñặt giả thuyết: sự lan tỏa Nam. Vì thế bài viết sẽ không ñáp ứng những kỳ của thông tin và kiến thức qua Internet ñã san vọng về một nghiên cứu thực chứng, hay một bằng mọi cách biệt về lợi thế kinh tế giữa các nghiên cứu thực trạng-giải pháp với những số liệu quốc gia/các thể chế chính trị/các tầng lớp nhân ñịnh lượng cụ thể. dân... kết quả là một thế giới phẳng, ai cũng có cơ 1. Khái niệm “liên ngành” và “liên văn hóa” hội do công nghệ mới tạo dựng, thì “hội nhập” 1.1. “Liên ngành” như một ñịnh hướng cũng với ý nghĩa gần tương tự: là khái niệm chỉ xu nghiên cứu, một chiến lược ñào tạo ngoại ngữ thế thời ñại mà công nghệ ñã san bằng mọi ñường biên giới, một dân tộc dù muốn hay không vẫn Trước hết, trong thời ñại hội nhập, “liên phải ñối diện với giao lưu tiếp xúc với thế giới. ngành” là một bước chuyển của nhận thức về tính Tuy nhiên, nhiều học giả phê phán giả thuyết về cách ña tầng của những vấn ñề khoa học ñang 660
  3. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 ñược ñặt ra, như một sự phản ứng ñối với sự không những có thể xây dựng ñền ñài mà còn có chuyên môn hóa ngày càng cao của những chuyên thể tô vẽ nó, có thể biên soạn một chuyên luận ngành khoa học ổn ñịnh. Do những yêu cầu khách khoa học… và ña số những người Hy Lạp nổi quan và cả những hạn chế chủ quan của bối cảnh tiếng mà ký ức còn lưu lại hậu thế là các nhà thơ thời ñại, khoa học khởi nguyên từ tư duy tổng hợp, [14: 325]. rồi ñi vào quỹ ñạo phân tích, chuyên sâu. Thời cổ Chính vì thế, “liên ngành” còn là một chính ñại ñã xuất hiện một hình mẫu “nhà khoa học liên sách văn hóa, một chiến lược giáo dục, ñào tạo ngành” như Aristoteles (384-322 TCN). Nhưng toàn diện con người. “Nhà nước Aten quan tâm khi thời ñại “mặt trời triết học ñã lặn” (con người ñến ñời sống văn hóa của công dân bằng cách tạo kiểu mẫu ấy qua ñời), nhân loại hầu như chỉ còn cho họ khả năng tham gia vào ngày hội và ñi xem những con người “thường thường bậc trung” (hạn hát. Thợ thủ công và thương nhân nghèo ñược trợ chế chủ quan), trong khi khoa học ngày càng phát cấp ñể ñi xem hát. Những cuộc thi ñấu thể thao triển ñòi hỏi có sự phân công chuyên môn hóa ñể trong một thời gian dài là ñặc quyền của giới quý ñi vào từng khía cạnh của vấn ñề (yêu cầu khách tộc thì nay ñã trở thành quyền của mọi công dân quan). Tư duy phân tích – chuyên môn hóa có tính Aten” [14: 325]. ưu việt của nó; nhưng bản chất thế giới luôn chằng chịt các mối liên hệ biện chứng, trên bước ñường Trong chiến lược ñào tạo ngoại ngữ, chúng tôi tiến hóa, người ta chợt nhận ra, không thể nhận kêu gọi “liên ngành” trên các bình diện: 1. Về thức thế giới một cách ñơn lẻ và siêu hình, mà cần phương pháp dạy ngoại ngữ, cần áp dụng phương liên ngành dựa trên nền tảng phát triển cao của các pháp của các ngành khoa học xã hội và nhân văn khoa học phân tích ñã có sẵn. Đó chính là hướng khác trong ñào tạo ngoại ngữ, ñiển hình là phương nghiên cứu và ñào tạo mang tính hợp ñề pháp so sánh của văn hóa học, phương pháp luyện (synthese). giọng và trình diễn của các ngành nghệ thuật (sân khấu, ñiện ảnh); 2. Về chuẩn mực ñào tạo nguồn Thứ hai, “liên ngành” là một khái niệm mô tả nhân lực ngoại ngữ, cần ñánh giá năng lực ngoại thực tế diễn ra trong lý luận và nghiên cứu một ngữ trên “năng lực liên văn hóa” và năng lực ngành khoa học mà có hơn một chuyên ngành “trình diễn” ngôn ngữ. tham gia. J.Kokelmans (1979) ñã thử tìm cách khu biệt khái niệm “liên ngành” (interdisziplin) với 1.2. “Liên văn hóa” như một yêu cầu của những khái niệm cùng loại như: ña ngành thời ñại, một năng lực giao tiếp ngoại ngữ (multidisziplin), ña số ngành (pluridisziplin), “Liên văn hóa” (intercultural) là một khái niệm xuyên ngành (transdisziplin). Nhưng, thử nghiệm ra ñời trong thời ñại mà giao tiếp là một yếu tố cắt nghĩa của J. Kokelmans không ñạt kết quả, then chốt của thành công (thế kỷ XXI), ñã xa rồi không tạo ñược một thuật ngữ có tính chính xác những thời kỳ mà mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa khoa học. Bởi vậy, J.Mittelstrass ñề nghị nên xác vẫn có thể tồn tại ñược trong chính sách “bế quan ñịnh sự chuyên ngành hóa ñích thực là sự xuyên tỏa cảng” và bưng bít thông tin. Tiền tố “liên” ngành - tức là “làm cho các ngành riêng lẻ không biểu thị “mối quan hệ”. Tính từ “liên-văn hoá” còn như nó vốn có” [Mittelstrass, dẫn theo 12: 20]. hàm ý một quan niệm rằng, cứ hai nền văn hoá trở Trong khi phương Đông thời kỳ cổ trung ñại, khoa lên thì chắc chắn có quan hệ với nhau theo cách học còn ẩn mình trong tư duy tổng hợp sơ khai nào ñó [8]. Trong quan hệ “ña văn hoá” như vậy, “Nho, y, lý, số gắn liền / Văn, sử, triết bất phân”, cần một sự hòa giải toàn diện những “xung ñột phương Tây thời kỳ cổ ñiển (cuối thế kỷ VI - ñầu văn hóa” như xung ñột tư tưởng/tôn giáo/chính thế kỷ V TCN), thế giới quan của người Hy Lạp trị… Đó là một thái cởi mở và khoan dung, giúp ta ñã không ưa tính chuyên nghiệp hẹp. Một nhà tránh ñược mọi cám dỗ của óc cuồng tín tôn giáo triết học tài năng có thể có những phát minh toán và thuyết “bảo căn” (fundamentalism), tư tưởng học và thiên văn học, một nhà ñiêu khắc nổi tiếng cục bộ, toàn thủ (integrism), vị chủng. Trong viễn 661
  4. Ti
  5. u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp tượng chính trị, liên văn hóa cũng là một tên gọi lực tri thức ngôn ngữ (ñích), năng lực tri thức thế khác của tinh thần cộng hòa-dân chủ, không chấp giới và năng lực chiến lược giao tiếp” [5]. nhận sự ñộc quyền thống trị. Trong giáo dục - là 2. Lợi thế văn hóa viễn tượng quan trọng nhất, thái ñộ, tinh thần và sự thức nhận liên văn hóa cần ñược dạy và học 2.1. Lợi thế của mối quan hệ liên ngành trong gia ñình và xã hội, từ nhà trẻ cho ñến ñại ngôn ngữ và văn hóa học, trong tư tưởng lẫn hành ñộng [2]. Lời nói và kho tàng ngữ ngôn của văn hóa Tính liên văn hoá hàm ý một mối quan hệ bình Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng F. de Saussure ñã ñẳng / ñối thoại ñóng vai trò một nguyên lý,… khu biệt và chỉ ra mối quan hệ giữa ngữ ngôn giữa những nền văn hoá khác biệt như những chủ (langue) và lời nói (parole): “Trong khi lời nói thể bình ñẳng với các quyền bình ñẳng. Đó là nền hình thành nên dữ liệu có thể trực tiếp tiếp cận tảng ñể chấp nhận người khác với tính căn nguyên ñược thì ngữ ngôn là một kho tàng ñược thực tiễn ñộc ñáo của họ trong khi vẫn nhận biết sự khác nói năng của những người cùng thuộc một cộng biệt và ña dạng. Nó mặc ñịnh sự gạt bỏ mọi hình ñồng ngôn ngữ lưu lại, một hệ thống ngữ pháp tồn thái của thuyết trung tâm (thuyết coi châu Âu là tại dưới dạng thức tiềm năng trong mỗi bộ óc, hay trung tâm, thuyết Trung Quốc là trung tâm, thuyết nói cho ñúng hơn, trong các bộ óc của một tập thể; dân tộc Arian là trung tâm, v.v.) và tạo dựng một vì ngôn ngữ không có mặt ñầy ñủ trong một người nền tảng ñể phát triển sự giao tiếp và liên ñới [8]. nào, nó chỉ tồn tại một cách vẹn toàn trong quần Claude Clanet, ñịnh nghĩa “liên văn hóa” là chúng. Ngược lại, lời nói là một hành ñộng cá “toàn bộ các tiến trình phát sinh do sự tương tác nhân do ý chí và trí tuệ chi phối... ngữ ngôn có giữa các nền văn hóa, trong mối liên hệ trao ñổi tính xã hội, tính cốt yếu, trừu tượng, bất biến... qua lại và với mục ñích bảo toàn bản sắc văn hóa Ngữ ngôn và lời nói gắn bó khắng khít và giả ñịnh tương ñối của các bên tham gia” (1990). Martine lẫn nhau: Ngữ ngôn là cần thiết cho hiểu quả của Abdallah-Pretceille nhắc nhở thêm rằng:“cái lời nói có thể hiểu ñược; về phương diện lịch sử, chính yếu không phải là miêu tả các nền văn hóa lời nói có trước, làm ngữ ngôn biến hóa. Vì thế, mà là phân tích xem ñiều gì ñang diễn ra giữa các Saussure viết: “Ngôn ngữ vừa là công cụ, vừa là cá nhân hay các nhóm thuộc những nền văn hóa sản phẩm của lời nói”. Thuật ngữ langage chỉ khả khác nhau, phân tích các thói quen xã hội và giao năng ngôn ngữ nói chung, tức là năng lực chung ñối tiếp của mỗi nền văn hóa” (1999) [4]. với việc thụ ñắc và sử dụng ngôn ngữ [11: 47-48]. Vì thế, từ những năm 70 của thế kỷ XX, liên Theo lý thuyết của Saussure 1 , kho tàng ngữ văn hóa ñã ñược các nhà sư phạm phương Tây ñề ngôn là trầm tích của văn hóa, mà người sử dụng xuất như một hướng tiếp cận mới trong việc giảng nó bất luận là người bản xứ hay người nước ngoài dạy ngoại ngữ - nhấn mạnh tầm quan trọng của phải trải qua một quá trình tích lũy lâu dài mới có việc cung cấp cho người học những kiến thức về ñược một năng lực ngôn ngữ ñạt chuẩn. Điều này văn hóa song song với quá trình giảng dạy một lý giải về một nghịch lý mà lâu nay rất nhiều ngoại ngữ, giúp nâng cao năng lực giao tiếp của người ngộ nhận rằng “học ngoại ngữ cho lắm người học [4]; một năng lực giao tiếp ngoại ngữ, cũng không bằng người bản xứ”, nhưng, thực tế một chiến lược tiếp cận ñối tượng tham thoại bằng cho thấy cũng giống như nhiều người Việt Nam thái ñộ chấp nhận các giá trị, niềm tin, cách ứng thi không ñạt môn Tiếng Việt thực hành, người xử - văn hóa của bản thân chỉ là tương ñối, không bản xứ ñi thi các chứng chỉ quốc tế tiếng mẹ ñẻ duy ngã ñộc tôn, tự biết ñặt mình vào vị trị bình vẫn trượt như thường. Và ñó không phải là hiện ñẳng với ñối tác và tôn trọng sự khác biệt văn hóa. Theo Đỗ Bá Quý: “Năng lực giao tiếp liên văn 1 hóa là một tổ hợp của ba khối kiến thức gồm năng F. de Saussure 2005: Giáo trình ngôn ngữ học ñại cương, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb KHXH, H. [11]. 662
  6. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 tượng cá biệt. Nguyên do, người nước ngoài, cũng Văn hóa nhận thức như một logic tri nhận như người bản xứ, khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc ngôn ngữ mình là ñang sử dụng lời nói - một hành ñộng cá Vào cuối những năm 1950, xuất hiện hướng nhân, còn hiệu quả sử dụng của họ ñến ñâu thì còn nghiên cứu liên ngành, kết hợp ngôn ngữ học với tùy thuộc vào năng lực thủ ñắc ngữ ngôn hay kinh khoa học tri nhận - khảo sát quá trình tâm trí trong nghiệm xã hội mà họ từng trải. Và, cơ hội ñể có việc thụ ñắc và sử dụng tri thức ngôn ngữ. Ngôn ñược năng lực ñó chia ñều cho cả hai: người học ngữ học tri nhận kêu gọi tiếp cận ngôn ngữ dựa ngoại ngữ và người bản xứ. trên kinh nghiệm của con người về thế giới và Vì ngộ nhận nên khi chọn giáo viên dạy tiếng cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa thế Anh, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh ñã giới. Ý niệm là những biểu tượng tinh thần phản ñánh giá quá cao giáo viên nước ngoài dạy tiếng ánh cách thức chúng ta tri giác thế giới xung Anh thay vì chọn giáo viên người Việt, ñiều này quanh và tương tác với nó, bao gồm cả sự liên bộc lộ thói sùng ngoại của người Việt Nam hơn là tưởng và những ấn tượng – một trong những kinh nhu cầu thực học2. nghiệm của người sử dụng ngôn ngữ [11: 210]. Nghĩa của từ và giá trị văn hóa của từ Một ñứa trẻ sinh ra học ngôn ngữ mẹ ñẻ bằng cách gì nếu không phải là bằng ý niệm, thông qua Khi học tiếng Pháp, nhiều sinh viên cảm thấy sự tương tác của nó với môi trường xung quanh - khó khăn khi phải hiểu từ “soleil” trong với nghĩa gia ñình và xã hội. Đầu tiên nó học nói bằng cách là “nắng” thay vì chỉ hiểu là “mặt trời”. Tương tự bắt chước theo cha mẹ, sau ñó, lớn lên, ñến trường ở các ngoại ngữ khác vẫn thường có hiện tượng học, nó mới học ñọc và viết. Thế nhưng, theo này. Như tiếng Anh, “sheep” có nghĩa là “con khẳng ñịnh của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, “việc cừu”, nhưng món thịt cừu ñược bày trên bàn ăn lại ñào tạo, dạy học Ngoại ngữ của Việt Nam hiện là “mouton” (mượn của tiếng Pháp). Vấn ñề là khi nay không giống một nước nào trên thế giới,... ở Việt Nam, học sinh, sinh viên học ngoại ngữ gặp từ “soleil”, làm sao có thể liên tưởng ngay ñến nhưng không nói chuẩn hay ñể người khác hiểu nghĩa là “nắng”? Khi phải gọi tên món thịt cừu, ñược mình ñang nói, nghĩ gì. Việc dạy ngoại ngữ làm sao ghi nhớ phải dùng từ “mouton” thay vì từ ở trường phổ thông chưa có những tiêu chí cụ thể “sheep”. Saussure ñã gợi ý ñến khái niệm “giá trị” mang tính tuyệt ñối, trình ñộ của giáo viên chưa trong nghiên cứu ngôn ngữ học, theo hai cách: 1) ñạt ñược yêu cầu ñề ra” 3 . Vậy, cái “không ñạt Đó là kết quả của những quan hệ qua lại với các chuẩn” của giáo dục ngoại ngữ Việt Nam là không thành viên khác của hệ thống; 2) Đó là kết quả của có năng lực “nói chuẩn ñể người khác hiểu”, là do sai chiến lược - ñi ngược với logic tri nhận ngôn những quan hệ qua lại của hai mặt trong ký hiệu ngữ (trước phải học nói, sau mới học ngữ pháp). ngôn ngữ. “Một từ có thể ñem ñổi lấy một cái gì không cùng dạng: một ý niệm, ngoài ra, nó có thể 2.2. Lợi thế của “cái nhìn liên văn hóa” ñem so sánh với cái gì cùng tính chất với nó: một Lợi thế khi thấu hiểu những khác biệt văn hóa từ khác. Một từ không những mang một ý nghĩa Đôi khi những mâu thuẫn xung ñột khi giao mà còn mang (chủ yếu là) giá trị” [11: 54]. Mà, tiếp liên văn hóa chỉ xoay quanh sự khác biệt giữa giá trị của một từ có liên quan ñến giá trị văn hóa. cách nói, cách dùng từ và cách hiểu của mỗi nền Mỗi một nền văn hóa có một hệ giá trị riêng có văn hóa. Điều này cần phải thận trọng suy xét ảnh hưởng ñến cách hiểu và ý nghĩa của từ ngữ nguyên nhân của một “cú sốc văn hóa” là do “rào thuộc nền văn hóa ñó. 3 Xem bài “Ngành giáo dục liệu có “kham” nổi khi dạy và 2 Xem bài báo “Giáo viên Việt thua trên sân nhà”, Báo học Ngoại ngữ yếu kém?” ñăng trên V.O.V.VN, Phụ Nữ, http://phunuonline.com.vn/xa-hoi/giao-duc/giao- http://vov.vn/xa-hoi/nganh-giao-duc-lieu-co-kham-noi- vien-viet-thua-tren-san-nha-/a78478.html [10]. khi-day-va-hoc-ngoai-ngu-yeu-kem-331855.vov 663
  7. Ti
  8. u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp cản ngôn ngữ” chứ không thể vội vàng ñánh giá ñạt một thiện ý. Sự nhạy cảm Nhật Bản ñòi hỏi ñối phương “thiếu văn hóa”. rằng, khi ñãi khách, chủ nhà phải nhạy cảm nhận biết khách cần gì và tự mình giúp khách. Để mặc Học giả người Nhật - Takeo Doi [3: 13-15] tâm sự: một người khách không thân với gia ñình “help “Tôi cảm thấy lúng túng trước sự khác biệt yourself” (tự phục vụ) sẽ có vẻ cực kỳ thiếu tôn giữa lối nghĩ và cảm của mình với lối nghĩ và cảm trọng. Điều ñó còn làm cho tôi tăng thêm cảm giác của người Mỹ [...] Và tôi bắt gặp mình ñang tự người Mỹ là một dân tộc không thể hiện sự trọng nghĩ rằng một người Nhật thì sẽ không bao giờ thô thị và nhạy cảm ñối với người khác như người thiển hỏi một người lạ rằng ông ta có ñói không, Nhật [3:15-16]. mà sẽ làm món gì ñấy mời ông ta chẳng cần phải Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người Mỹ, có thể hỏi [...] Một trường hợp nữa cũng trong những họ sẽ cho rằng lối ứng xử theo nhạy cảm và cách ngày ñầu tiên tôi ở Mỹ-khi một nhà tâm thần học dùng từ kính ngữ cầu kỳ của người Nhật là một ñã làm cho tôi một việc tốt, tôi ñã không nói cám hình thức “lịch sự kiểu Nhật” - giả tạo. ơn (thank you) như người ta trông ñợi, mà lại nói “tôi lấy làm tiếc” (I’m sorry). Ông lập tức nhìn tôi Và Takeo Doi [3: 16-17, 97] nhận ñịnh: “Vì một cách lạ lùng “Anh lấy làm tiếc cái gì chứ?”. sao người Nhật và người Mỹ khác nhau thế [...] tôi Tôi hết sức bối rối. Tôi hình dung mình khó mở rất chú ý ñến những từ mà họ sử dụng [...] Khi tôi miệng nói lời cám ơn bởi thấy ñiều ñó hàm ý một sang Mỹ tôi thấy những nhà tâm thần học ở ñó ghi sự quá bình ñẳng với con người thực ra là cấp trên lại những ñiều bệnh nhân nói bằng chính tiếng của của mình. Tôi ñã bắt ñầu có ý niệm mơ hồ về khó dân tộc họ và theo ñuổi việc xem xét bệnh lý của khăn mà tôi phải có dính dáng ñến cái gì ñó còn bệnh nhân với cách nói của chính họ [...] Các học hơn là hàng rào ngôn ngữ”. giả ñã ñưa ra nhiều lý thuyết khác nhau về cung cách tư duy của người Nhật, nhưng phần lớn về sau “Một ñiều khác làm cho tôi bực mình: tục lệ ñều tán thành rằng so sánh với tư duy phương Tây chủ nhà người Mỹ hỏi khách trước khi ăn là anh ta thì nó không có tính logic mà mang tính trực giác”. thích uống rượu hay nước ngọt. Rồi nếu khách xin rượu, chủ nhà sẽ hỏi anh thích rượu scotch hay Trịnh Đức Thái khi nghiên cứu kịch bản (tổ rượu bourbon, muốn uống nhiều hay ít và uống chức cấu trúc) của giao tiếp buôn bán giữa người theo kiểu nào... Sau khi ăn xong, anh ta lại phải Việt Nam và người Pháp, ñã có phát hiện lý thú: chọn uống cà phê hay trà, và còn chi tiết hơn Sự vắng mặt trong các ngữ ñoạn của các nghi lễ nhiều - muốn uống có ñường hay, sữa... không... mở ñầu và kết thúc trong tiếng Việt và sự có mặt Sao mà họ bắt khách phải chọn lựa lắm thứ vớ vẩn thường xuyên của chúng trong tiếng Pháp là khác ñến thế [...] Và có lẽ tôi nên chấp nhận nó ñúng biệt rõ nét nhất. Trong giao tiếp liên văn hóa sẽ có như nó là thế, như tục lệ Mỹ, thì hay hơn”. những hiểu nhầm: Người Pháp sẽ cho rằng người Việt bất lịch sự khi không thực hiện các nghi lễ Trong khi tục lệ của Nhật khi mời khách không chào hỏi hay cám ơn. Mặc cả là một ñặc thù của phải bạn thân của mình là phải nói một câu khiêm giao tiếp buôn bán Việt Nam (về nguyên tắc nó nhường “có thể món này không hợp khẩu vị của không ñược chấp nhận tại Pháp). Người Việt còn anh nhưng...” Đằng này một chủ nhà người Mỹ có có thói quen linh hoạt - không ổn ñịnh trong ứng khi lại tự hào miêu tả mình nấu món ăn như thế xử, trong khi người Pháp luôn giữ thái ñộ lịch sự nào, mà không cho khách có lựa chọn nào khác, suốt kịch bản buôn bán thì người Việt luôn thay ñổi trong khi cho khách tự do chọn ñồ uống trước hay từ bất lịch sự ñến lịch sự rồi lại bất lịch sự [15]. sau ñó. [Hơn nữa] câu “please help yourself” (xin cứ tự nhiên nhá) mà người Mỹ dùng thật khó lọt Lợi thế của tính linh hoạt trong ứng xử văn hóa tai tôi trước khi tôi trở nên quen với lối nói chuyện Khi những nội dung văn hóa ñược lồng ghép tiếng Anh. Tất nhiên nghĩa câu ấy chỉ ñơn giản vào chương trình dạy ngoại ngữ, người học sẽ “xin cứ dùng thức gì bạn muốn, ñừng ngại” nhưng hiểu ñược cách cảm nhận về thời gian, không gian, dịch từng chữ thì có vẻ như “không ai giúp bạn các giá trị… của nền văn hóa của ngôn ngữ ñó. ñâu” và tôi không thể biết làm sao mà nó lại diễn Những kiến thức này rất quan trọng, bởi lẽ phần 664
  9. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 lớn sự thất bại trong giao tiếp giữa các cá nhân Khi ñã nắm vững những lý thuyết văn hóa, thường là do các bên không hiểu ñược nhau và người học ngoại ngữ sẽ tự nhận ra việc tiếp nhận nhất là không linh hoạt khi gặp những tình huống thêm một ngôn ngữ khác cần phải hiểu rõ cấu trúc ña dạng, phức tạp. Hall (1990) phân biệt ba nội của những mô hình văn hóa ngôn ngữ chứ không dung chính yếu dựa vào ñó ta có thể hiểu ñược thuần túy là một sự ñối chiếu chữ của dân tộc cách hành xử của một người nước ngoài: thời gian, mình (tiếng mẹ ñẻ) với chữ của một dân tộc khác. không gian và hoàn cảnh giao tiếp. Mỗi nền văn Một giai thoại kể rằng Nguyễn Công Hoan lúc còn hóa khác nhau sẽ có một cách cảm nhận về thời ñi học tiếng Tây (Pháp) ñã tuyên bố “chẳng bao gian khác nhau. Nếu ở nền văn hóa này sự ñúng giờ học cái thứ tiếng không có tôn ti ñó nữa” chỉ giờ và sự chính xác ñược xem trọng thì trong một vì ông không giải quyết ñược tình huống chuyển nền văn hóa khác hai yếu tố này có thể không ngữ giữa các ñại từ nhân xưng của tiếng Pháp ñóng vai trò quan trọng trong cách nhìn nhận và sang tiếng Việt- vốn rất ña dạng danh xưng cho ñánh giá của mọi người. Khái niệm không gian ñề ngôi thứ hai (ông, bà, cô, chú...) trong khi tiếng cập ñến sự gắn bó của cá nhân với một nơi nào ñó. Pháp chỉ có một từ “tu/vous” mà ông nhầm tưởng Nó liên quan ñến mức ñộ chấp nhận của một cá nó chỉ có nghĩa là “mày”. nhân ñối với sự hiện diện của “kẻ lạ mặt” trong Mấu chốt tính linh hoạt là khả năng giải thích “khu vực” của mình. Ví dụ, người Mỹ có thói và giải quyết. Làm sao ñể giải quyết những tình quen khi ñến nhà người khác là ñi vào bếp và tự huống chưa từng gặp trong ký ức văn hóa, giải phục vụ mà không cần hỏi ý kiến của gia chủ. thích một câu nói vừa nghe hay một bài ñọc hiểu Hoặc một khái niệm khác cũng liên quan ñến cách một cách chuẩn xác. Chúng ta dùng lợi thế của lý cảm nhận về không gian ñó là khái niệm “bong thuyết cảm ý – phương pháp dịch thuật dựa trên bóng cá nhân”: khoảng cách ñược xem là hợp lý trình tự ba bước: 1) Hiểu ý (thông hiểu ngôn ngữ giữa hai người khi giao tiếp với nhau tùy thuộc nguồn, truyền ñạt thông ñiệp văn hóa); 2) Ly từ vào mỗi nền văn hóa. Nếu như người Pháp trong hay thoát ly nguyên ngữ (không bám vào ngôn lúc giao tiếp có thói quen xích lại gần người ñối ngữ nguồn, chỉ giải mã ý nghĩa của nó - hiểu ý và diện mình thì với người Mỹ hành ñộng ñó bị xem quên lời); và 3) Tái diễn ý. như là mang tính ñe dọa. Hoàn cảnh giao tiếp: sự ảnh hưởng của hoàn cảnh giao tiếp vào trong nội Chúng tôi muốn nói linh hoạt trong việc chọn dung hội thoại ở các nền văn hóa khác nhau là lựa cách hiểu, cách mở mang kiến thức ngoại ngữ khác nhau [4]. từ nhiều góc cạnh khác nhau chứ không phải theo một con ñường như nền giáo dục ta ñã làm nữa. Học ngoại ngữ không ñơn giản là học thuộc lòng từ vựng rồi chuyển nghĩa của từ ngữ này Lợi thế của tính bao dung và tinh thần hợp sang ngữ khác dựa trên từ tương ñương giữa hai tác, cộng thông văn hóa ngôn ngữ. “Bởi lẽ rất hiếm có hai ngôn ngữ hoàn Văn hóa là một khái niệm trung dung không toàn tương ñồng cả về cấu trúc lẫn nội dung. Giả ám chỉ tốt, xấu. Nếu ñứng trên một nền văn hóa sử có một từ tương ñương về nghĩa giữa hai ngôn này ñể phê phán một người thuộc nền văn hóa ngữ ñi nữa, thì bối cảnh (thời gian và không gian) khác là “vô văn hóa” là một phát biểu nhầm lẫn sử dụng)/mục ñích/ cách sử dụng chưa hẳn giống (nhầm lẫn giữa “trình ñộ học vấn” với văn hóa nhau. Các quy ước về ngôn ngữ ñã không giải ứng xứ). thích ñược mọi hiện tượng ngôn ngữ. Vì vậy cần Vì ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn những góc nhìn khác” [6: 21]. Góc nhìn về hóa nên chuyển ngữ cũng là truyền tải văn hóa, “những thao tác ñể hai nền văn hóa cộng thông”; chuyển ý tưởng/ý nghĩa/ý niệm của nền văn hóa góc nhìn tâm lý, xảy ra trong tâm thức người tiếp này sang nền văn hóa khác. Theo quan ñiểm nhân nhận một ngoại ngữ;... Học ngoại ngữ không còn là học, trọng tâm của dịch thuật là “viết về văn vấn ñề giải quyết từ ngữ nữa mà còn vượt lên trên hóa” 4 . Người học ngoại ngữ cần rèn luyện khả phương tiện ñó, trở thành một nghệ thuật, một ứng xử văn hóa thông qua các phương pháp khoa học. 4 Rubel and Rosman, dẫn theo Hồ Đắc Túc [2012: 86]. 665
  10. Ti
  11. u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp năng tự trao cho mình trách nhiệm và bổn phận thức ngữ pháp/ thực thể 5 ) có thể xuyên qua các hiểu người bản xứ muốn nói gì, cảm ñược ý niệm biên giới ngôn ngữ và văn hóa dân tộc; Phương của người bản xứ như là ý niệm của tiếng mẹ ñẻ. pháp so sánh - ñối chiếu, chọn một ngôn ngữ làm trung tâm chú ý, còn ngôn ngữ kia là phương tiện Một số nhà ngôn ngữ học quan niệm: ngôn ngữ nghiên cứu. “Bằng cách so sánh một cách hệ tuy khác nhau nhưng có ñiểm chung như có cấu thống ngôn ngữ và nền văn hóa ñược học với trúc chìm giống nhau (lý thuyết của Chomsky). ngôn ngữ và nền văn hóa của người học, người ta Nhưng số khác lại cho rằng mỗi ngôn ngữ có một thu ñược nhiều kết quả có thể giúp các nhà giáo thế giới riêng của nó, không thể nào lột tả hết thế dục ngoại ngữ chuẩn bị các tư liệu giảng dạy, thiết giới của ngôn ngữ bên kia qua thế giới của ngôn kế các bài kiểm tra ñồng thời có thể ñánh giá nội ngữ bên này (Edward Sapir) [6: 87, 88]. Vì thế, dung sách giáo khoa, chẩn ñoán chính xác những quan niệm “liên văn hóa” kêu gọi học ngoại ngữ khó khăn mà người học gặp phải khi học một với thái ñộ bao dung - chấp nhận những cái khác ngoại ngữ” [11: 580]. biệt trên tinh thần cộng thông văn hóa - ñem nguyên tác về phía người ñọc (chú trọng văn hóa Như vậy, dạy ngoại ngữ ñòi hỏi nhiều tri thức ngôn ngữ ñích) và ñem người ñọc lại gần ngôn chuyên sâu về văn hóa, về ngôn ngữ trung tâm ngữ gốc (bao dung sự lạ lẫm của văn hóa ngôn hơn. Thí dụ: dạy tiếng Anh, cần xác ñịnh ngôn ngữ gốc). Chẳng hạn chúng ta muốn người ngữ trung tâm là Anh ngữ, người dạy cần nắm phương Tây hiểu một khía cạnh văn hóa trong vững văn hóa Anh – Mỹ và văn hóa các nước nói cách xưng hô của Việt ngữ: “Thưa bà con cô bác” tiếng Anh khác (như Úc, Canada...) ñể so sánh ñối thì có thể dịch ñơn giản là “Everybody!” nhưng chiếu với văn hóa - ngôn ngữ Việt Nam, tiếng cũng nên giải thích thêm (trong văn viết) cụm từ Việt và cơ sở văn hóa Việt Nam là phương tiện trên mang một ý nghĩa thân mật chỉ mối quan hệ nghiên cứu giúp cho sinh viên Việt Nam học tốt cộng ñồng theo kiểu văn hóa làng xã Việt Nam. hơn môn tiếng Anh. Đây là chiến luợc giải quyết thực trạng các giáo viên dạy ngoại ngữ ở Việt 2.3. Đào tạo những chuyên gia ngoại ngữ Nam còn yếu, ngoài kiến thức về tiếng Anh họ “liên văn hóa” không ñủ khả năng cung cấp thêm kiến thức văn Sự phân khoa/ngành ở các trường ñại học như: hóa và không ñủ khả năng khu biệt hai ngôn ngữ. Ngữ văn Anh, Ngữ văn Pháp... và Văn hóa học 3. Lợi thế nghệ thuật chỉ là phân loại tương ñối về mặt hành chính... Về mặt chuyên môn, cần ñào tạo những chuyên gia 3.1. Lợi thế của kỹ năng bắt chước liên ngành văn hóa - ngôn ngữ, có tinh thần trau Tri thức ngoại ngữ thì mênh mông6 và tồn tại dồi và gìn giữ văn hóa dân tộc như hình mẫu một cách khách quan (có phần khô khan, không tự GS.Cao Xuân Hạo nổi tiếng dịch thuật nhờ những có chức năng hấp dẫn7). Trong khi ñó, người học chuẩn mực trao dồi và gìn giữ tiếng nói của dân ngoại ngữ - ñặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay hay có tộc từ những câu ca dao, tục ngữ, câu Kiều, câu thói quen ñòi hỏi học theo nhu cầu, học theo sở ngâm... [16]. thích, các tiết học phải thật sinh ñộng, thật dễ hiểu Đối với sinh viên trình ñộ ñại học - những dịch mà không cần phải mất nhiều công sức, tiết kiệm giả, những chuyên gia ngôn ngữ tương lai, dạy thì giờ ñến lớp… Cho nên, người truyền ñạt phải ngoại ngữ là phải dạy phương pháp: Phương pháp biến tri thức và phương thức dạy thành nghệ thuật phân tích, ñánh giá và so sánh một tài liệu hay một ñể người nghe dễ tiếp thu hơn. sự kiện văn hóa nào ñó có liên quan ñến nền văn Mặt khác, khi giao tiếp liên văn hóa không ñạt hóa mang ngôn ngữ ñang giảng dạy với nền văn hóa của người học; Phương pháp so sánh - loại hình, tìm hiểu cái giống nhau và khác nhau trong 5 Phổ quát thực thể, ví dụ mỗi ngôn ngữ ñều phân biệt ngữ âm/âm vị/ngữ pháp/kết cấu/ngữ nghĩa của hai danh từ và ñộng từ, ñều phân biệt ba ngôi… 6 hoặc nhiều ngôn ngữ ñể rút ra phổ niệm ngôn ngữ Theo thống kê, thế giới hiện có khoảng 5.000 (năm ngàn) ngôn ngữ [1]. - những ñặc trưng phổ quát của ngôn ngữ (hình 7 Phần lớn sinh viên rất “ngán” các môn liên quan ñến Ngôn ngữ học. 666
  12. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 ñược thỏa mãn cho cả hai bên tham thoại (mỗi bên giọng như một nghệ sỹ sân khấu ñiện ảnh hay ca ñều muốn bảo thủ quan ñiểm và hệ giá trị của sỹ luyện thanh nhạc. Đó không phải là cách tạo mình), người sử dụng ngoại ngữ phải khéo léo dáng thuần túy mà là bí quyết ñể tăng khả năng dùng nghệ thuật như một công cụ hỗ trợ giao tiếp. diễn ñạt ñiều muốn nói. “Trong các lớp ngoại ngữ, sinh viên thường miễn cưỡng khi phải học lý Muốn như thế, ngành sư phạm ngoại ngữ cần thuyết. Nhưng trở ngại không phải bởi chính lý bổ sung các bộ môn rèn luyện các kỹ năng mềm thuyết, mà bởi cách diễn ñạt [...] Biết hai ngôn cho sinh viên như: kỹ năng luyện giọng và tạo ngữ nhưng không thể diễn ñạt bằng chữ, bằng lời phong cách (action). Hai kỹ năng này yêu cầu khả thì khó làm tròn công tác dịch thuật” [6: 30, 33]. năng bắt chước nhiều hơn là tư duy. Người học phải biết quan sát (khẩu hình và những yếu tố phi 3.3. Đào tạo những “diễn viên ngôn ngữ” ngôn ngữ...) và làm theo bản gốc. Hãy học ngoại Không ai có thể hiểu hết một nền văn hóa và ngữ như một ñứa trẻ học nói! Có ý kiến cho rằng nhận diện ñầy ñủ về những khác biệt văn hóa ñể học ngoại ngữ không nhất thiết phải uốn lưỡi sửa có thể dự doán các tình huống gây hiểu nhầm giọng cho giống người bản xứ, người Việt thì nói trong giao tiếp liên văn hóa. Vì thế, thực tế ñòi hòi tiếng Anh theo kiểu người Việt, người Singapore người tham thoại trong giao tiếp liên văn hóa phải thì nói tiếng Anh theo kiểu người Singapore... sẵn sàng nhập vai, ñặt mình vào vị trí của ñối tác Chúng tôi không tán thành quan ñiểm này, vì cách ñể hiểu và diễn cho ñúng. Những phát thanh viên học ngoại ngữ như vậy sẽ không tiến xa ñược. trên báo ñài (như Quốc Khánh, Bửu Điền, Thảo Khách quan mà ñánh giá, một ông Trương Vĩnh Vân...) không chỉ có năng lực ngoại ngữ mà cái Ký nói tiếng Pháp bằng giọng Paris với một ông chính là kỹ năng trình diễn ngôn ngữ. nói tiếng Pháp như tiếng Việt, thì bạn sẽ chọn ai? Chúng tôi gợi ý nên áp dụng một số phương 3.2. Lợi thế của kỹ năng trình diễn và tạo pháp sau trong các tiết giảng ngoại ngữ: Phương phong cách pháp tập ñọc diễn cảm một ñoạn văn: Để phát âm Bên cạnh kỹ năng bắt chước, kỹ năng trình rõ ràng, ta phải tập ñọc mỗi ngày một ñoạn văn diễn một bài diễn thuyết (nói trước công chúng) hay trích từ sách kinh ñiển, chẻ ra từng câu, ñọc bằng ngoại ngữ, rất cần phải trau dồi cho sinh thật kỹ từng chữ, phải chú ý ñến chỗ nào lặng ñi viên. Rất nhiều sinh viên học yếu ngoại ngữ là do ñể lấy hơi, chỗ nào giữ hơi ñể dồn dập thay ñổi thiếu tự tin khi nói, không nói lâu ngày thì dễ nhịp ñiệu nói… ñến khi nào người luyện nhập tâm quên, kiến thức cứ rơi rụng theo thời gian. Muốn ñến nỗi trong khi nói chuyện bình thuờng cũng tự tin khi nói, thì phải luyện giọng nói. Một giọng phát âm rõ từng chữ, là thành công; Phương pháp nói ñược coi là hay cần ñạt ñược các chuẩn mực: ñứng trước gương soi: Khi luyện tập, nên ñứng rõ lời, tròn tiếng, âm lượng, tốc ñộ và ngữ ñiệu nói trước gương cho dễ theo dõi chỉnh sửa khẩu hình ñược ñiều khiển một cách chủ ñộng nhằm tạo sức và ngôn ngữ cơ thể. Nếu muốn âm phát ra tròn truyền cảm. Tốc ñộ nói: Người nói nên tránh tiết tiếng thì khẩu hình cũng phải tương tự. Để có cách tấu ñều ñều suốt từ ñầu ñến cuối. Phải có lúc nói chuyện tỉ tê thầm thì, trong một ñoạn có câu nhanh hơn một chút, phải có lúc chậm hơn một nói to cao giọng, có câu hạ thấp giọng thầm thì chút, thậm chí có lúc ngưng hẳn ñể mọi người suy như gió thoảng có sức cuốn hút người nghe, còn nghĩ. Tránh nói quá nhanh hoặc quá chậm. Nói ñòi hỏi ở ánh mắt, nét mặt...; Phương pháp lấy nhanh quá làm cho người nghe phải tiếp nhận một hơi từ bụng (nói giọng bụng): Thông thường khi lượng thông tin lớn trong một thời gian ngắn hít vào thì ngực căng ra nhưng bụng lại hơi co lại, khiến cho não họ không xử lý, phân tích, ñón nhận nhưng phương pháp này yêu cầu hít thật sâu, ngực kịp, và khiến họ bị quá tải, nghe vài phút là mệt. chỉ hơi căng một chút, còn bụng căng nhiều hơn, Ngược lại, nói quá chậm cũng làm bộ não người khi phát âm, cố gắng mở to vòm miệng ñể hơi từ nghe không cần phải làm việc nhiều, và cũng sinh bụng cộng hưởng bên trong khoang miệng, tạo buồn ngủ.Ta phải khéo ñiều chỉnh tốc ñộ sao cho nên tiếng vang; Phương pháp tái hiện- thu âm lại vừa phải, ñừng nhanh, nhưng cũng ñừng rề rà quá. giọng nói: Không phải lúc nào cũng có người Tóm lại, người học ngoại ngữ cũng phải luyện hướng dẫn theo dõi mà chỉ ra khuyết ñiểm cho 667
  13. Ti
  14. u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp mình, cần ghi âm và nghe lại ñể tự ñánh giá, tự TÀI LIỆU THAM KHẢO ñiều chỉnh. 1. Báo Quảng Ngãi (2014), Có bao nhiêu ngôn ngữ trên thế giới, - http://www.baomoi.com/Co-bao-nhieu- Tạo phong cách (action) ngon-ngu-tren-the-gioi/79/13680648.epi Tùy tình huống mà người sử dụng ngoại ngữ 2. Bùi Văn Nam Sơn (2013), Tính liên-văn hóa: một phải tạo phong cách cho phù hợp. Ví dụ: Tình thái ñộ giáo dục, Báo Doanh nhân Sài Gòn cuối tháng 4.2009, - http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet- huống ñọc một bản tin trên các ñài truyền hình thì hoc/phan-khoa-triet-hoc/triet-hoc-van-hoa/tinh-lien- phải giữ phong thái trang nghiêm… từ cử chỉ cho van-hoa-mot-thai-do-giao-duc_284.html tới trang phục phải ñẹp, thanh lịch và nhất là ít sử 3. DOI Takeo (2008), Giải phẫu sự phụ thuộc, Hoàng dụng phi ngôn ngữ. Tình huống thuyết giảng trước Hưng dịch, Nxb Tri thức, H. ñám ñông, yếu tố phi ngôn ngữ như nét mặt, ánh 4. Diệp Thanh Hoài (2011), Hướng tiếp cận liên văn mắt, cử chỉ của ñôi tay… nếu sử dụng ñúng mực hóa trong việc giảng dạy ngoại ngữ, - http://departementfrancais.hcmussh.edu.vn/?ArticleId= thì sẽ là công cụ hỗ trợ ñắc lực giúp người hùng 36a15acf-5cf4-482b-a578-7bfaccb84c95 biện truyền tải thông ñiệp dễ dàng hơn và tự tin 5. Đỗ Bá Quý (2010), Phát triển năng lực giao tiếp hơn trước ñám ñông. Tình huống giao tiếp trực liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, - tiếp như ngoại giao, ñám phán, những cái bắt tay, data.ulis.vnu.edu.vn/jspui/.../QUÝ%20Do%20Ba.doc nụ cười, tư thế ñứng và ngồi… cần phải rèn luyện 6. Hồ Đắc Túc (2012), Dịch thuật và tự do, Cty VH Phương Nam & ĐH Hoa Sen xb, Tp.HCM theo chuẩn mực của nghệ thuật giao tiếp và theo hệ giá trị ứng xử của các nền văn hóa khác nhau. 7. HUIJSER Mijind (2008), Lợi thế văn hóa, Nguyễn Đình Huy dịch, Nxb Trẻ, Tp.HCM. KẾT LUẬN 8. HYUNDOK Choe (2008), “Triết học liên văn hoá: khái niệm và lịch sử”, Lương Mỹ Vân dịch, Tạp chí Năng lực ngôn ngữ (ngữ pháp và vốn từ vựng) Triết học số 2 (201) năm 2008, là năng lực chuyên môn hẹp, không ñủ giúp người http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa- học ngoại ngữ ñương ñầu với những thách thức hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/1933-choe-hyundok- triet-hoc-lien-van-hoa-khai-niem-va-lich-su.html khi giao tiếp trong bối cảnh thời ñại hội nhập văn 9. Mai Lan Anh (2014), Phát triển vốn từ vựng cho hóa. Để giao tiếp tốt, người sử dụng ngoại ngữ cần sinh viên học tiếng Anh, http://huc.edu.vn/chi- bổ sung những năng lực liên ngành/liên văn hóa - tiet/3110/Phat-trien-von-tu-vung-cho-sinh-vien-hoc- chúng tôi gọi ñó là lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ tieng-Anh.html thuật hay chiến lược ngoại ngữ của Việt Nam thời 10. Minh Nhật 2012: “Giáo viên Việt thua trên sân hội nhập. Nội dung là: nhà”, Báo Phụ Nữ, http://phunuonline.com.vn/xa- hoi/giao-duc/giao-vien-viet-thua-tren-san-nha- 1) Đào tạo một thế hệ trẻ giỏi ngoại ngữ trên /a78478.html cơ sở nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải dung hợp 11. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb GD, H. văn hóa ngoại lai khi tiếp xúc với một ngoại ngữ, phát triển thành những chuyên gia liên ngành văn 12. Nguyễn Tri Nguyên (2010), Văn hóa học- những phương diện liên ngành và ứng dụng, Trường ĐH Văn hóa học kiêm ngôn ngữ học; phải thay ñổi “một tư hóa Tp.HCM, Nxb ĐH Công nghiệp Tp.HCM. duy khác” về dạy và học ngoại ngữ hiện nay, tư 13. Phan Alan (2011), Đừng hoang tưởng về biển lớn, duy “liên văn hóa” - phải có một thói quen làm Nxb Hồng Đức, H. việc mới dựa trên tinh thần biết lắng nghe, tôn 14. RADUGHIN A.A (cb) (2004), Văn hóa học- trọng và chấp nhận sự khác biệt. Những bài giảng, Viện VHTT xb, H. 15. Trịnh Đức Thái (2010), Bình diện liên văn hóa 2) Dạy ngoại ngữ trình ñộ ñại học trở lên là trong giao tiếp, dạy phương pháp: phương pháp so sánh ngôn ngữ/ http://www.data.ulis.vnu.edu.vn/jspui/handle/1234567 so sánh văn hóa, và rèn luyện cho người học cách 89/615 sử dụng nó như “một diễn viên ngoại ngữ” (một 16. Trinh Nguyễn (2014), Một Copernic của ngôn ngữ học Việt Nam, - phát thanh viên bản tin tiếng nước ngoài, một nhà http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140615/mot- hùng biện bằng ngoại ngữ,...). copernic-cua-ngon-ngu-hoc-viet-nam.aspx 668
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0