intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

lối xưa xe ngựa: phần 2 - nxb văn nghệ thành phố hồ chí minh

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:57

34
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

nối tiếp phần 1, phần 2 " lối xưa xe ngựa" do nxb văn nghệ thành phố hồ chí minh ấn hành gồm các nội dung chính: khoa cử thời hậu lê dưới mắt samuel baron, công chúa đời trần, hoạn quan, nửa dòng máu việt,... mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: lối xưa xe ngựa: phần 2 - nxb văn nghệ thành phố hồ chí minh

Chương VI - NGUYỄN THỊ DU VỊ NỮ TRẠNG NGUYÊN<br /> ĐỘC NHẤT CỦA TA SINH NĂM NÀO ?<br /> Vị nữ Trạng nguyên có một không hai của nước ta vốn tên là Nguyễn thị Du, song Vũ<br /> Phương Đề, người đầu tiên viết về bà, từ thế kỷ thứ XVIII, chỉ cho biết bà họ Nguyễn; Đại<br /> Nam Nhất Thống Chí và Trần Lê Sáng chép bà tên Nguyễn thị Duệ (1); Bùi Hạnh Cẩn<br /> đưa ra tên Nguyễn thị Niên (2); Đông Châu ngoài tên Nguyễn thị Du còn ghi thêm tên<br /> Nguyễn Ngọc Toàn (3).<br /> I. THÂN THẾ : “Nhất kính chiếu tam vương”<br /> Bà sinh quán ở làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bùi Hạnh Cẩn chép<br /> bà người “xứ Đông”).<br /> Năm 10 tuổi (Đồ Nam Nguyễn Trọng Thuật ghi là “năm 20 tuổi”) bà theo cha tị nạn<br /> lên Cao Bằng, lúc ấy tuy họ Trịnh đã đánh bại họ Mạc, chiếm lại kinh đô, nhưng lòng dân<br /> theo họ Mạc còn đông.<br /> Bà là người tuyệt sắc, lại rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài. Ông thân bà tiếc<br /> tài con gái, cho cải nam trang đi học. Năm 17 tuổi, chúa Mạc mở khoa thi, sĩ tử tham dự<br /> rất đông, bà đỗ thủ khoa (4), còn chính thầy học của bà chỉ đỗ thứ hai. Có lẽ vì thiếu tài<br /> liệu, không thấy Phan Huy Chú ghi chép những khoa thi cuối của nhà Mạc ở Cao Bằng,<br /> nên không rõ đích xác bà đỗ năm nào.<br /> Khi dự yến đãi các tân khoa, chúa Mạc thấy nhan sắc và phong cách của bà sinh lòng<br /> ngờ vực, gạn hỏi và khám phá ra bà là gái giả trai, bèn nạp cung phong làm Tinh Phi (Sao<br /> Sa) ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Thời xưa phụ nữ không<br /> được phép đi thi, thậm chí dự một buổi bình văn ở nhà Giám (Quốc Tử Giám) cũng không<br /> được (Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút), bà cải trang đi thi như thế là phạm tội khi quân,<br /> nhưng chúa Mạc không những không trừng phạt mà còn nạp cung, phong tước phi, tỏ ra<br /> rất quý trọng tài sắc bà.<br /> Nhà Mạc mất, bà vào rừng ẩn náu, bị quân Trịnh bắt được. Bà chống gươm xuống đất<br /> nói :“Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với<br /> lưỡi gươm này ta sẽ tự tử”. Quân Trịnh bèn giải bà về nộp chúa Nghị Vương, chúa rất<br /> sủng ái.<br /> Về già bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền.<br /> Nghị Vương mất, con là Dương Vương lên nối ngôi, triệu bà ra giữ chức Lễ Sư dậy<br /> cung nhân, nên người ta cũng gọi bà là Lễ Phi (Lễ là danh hiệu, tước vị là Chiêu Nghi, cao<br /> nhất trong 9 bậc cung tần, dưới loại phi) (5).<br /> Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch, cả hai chúa Trịnh đều<br /> khen ngợi, trọng vọng. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại.<br /> Khoa Tân Mùi (1631) em họ ngoại bà là Nguyễn Minh Triết, sau đổi tên là Nguyễn Thọ<br /> Xuân, ứng chế xong bảo với bạn hữu :“Bài của tôi viết, cả triều chưa dễ mấy ai hiểu, có<br /> chăng chỉ bà chị tôi là bà Lễ Phi hiểu được mà thôi”. Quả nhiên, bài đưa ra nhiều điển lạ,<br /> quan trường không hiểu hết, chúa hỏi thì bà lý giải cặn kẽ, chúa cho Xuân đỗ đầu. (Năm<br /> <br /> 1647, Xuân làm đến chức Tả Thị lang bộ Hộ, sau thăng đến chức Thượng thư, Thiếu bảo<br /> Cẩn quận công, thọ hơn 90 tuổi).<br /> Tương truyền nhà bà có ngôi tiên phần ở núi Trì Ngư, thuộc kiểu đất “Nhất kính chiếu<br /> tam vương” (một gương soi ba vương), bà thờ ba đời chúa chính ứng với điều này.<br /> Năm 70 tuổi bà xin về làng, dựng am “Đàm Hoa” để ở, lại được cấp các thuế trong<br /> làng làm ngụ lộc.<br /> Bà mất năm 80 tuổi, táng ở núi Trì Ngôi (Ngư ?) làng Kiệt Đặc. Ngọn tháp xây trên<br /> mộ gọi là “Tinh Phi cổ tháp”, được liệt vào hạng “Chí Linh Bát Cổ”, có khắc mười chữ<br /> trên bia :“Lễ Phi sinh thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương”.<br /> Trong bia “Chí Linh Bát Cổ” cũng ghi lại bài thơ đề trên “Tinh Phi cổ tháp” :<br /> Ngọc thủ chiết cao chi,<br /> Kính nhan lưu cố thấp;<br /> Tùng cổ thử giang sơn,<br /> Chí kim kỷ minh giáp;<br /> Hoa thảo tự khai tạ,<br /> Ngư tiều tương vấn đáp;<br /> Sơn sắc chính thanh hương,<br /> Thu thanh hà tiêu táp.<br /> Đại ý :“Một cái tay ngọc ngà vin bẻ cành đan quế thứ nhất khi xưa kia, nay thì trên cái<br /> kiểu đất “hình mặt gương” này còn lưu lại với đời một toà tháp cổ. Giang sơn này từ bấy<br /> lâu nay trải bao năm tháng mà đổi với cái cảnh cổ tháp này, chỉ có hoa kia tự khai khai tạ<br /> tạ cùng ông ngư phủ, chú tiều phu khi qua tới mà cùng nhau trò chuyện mà thôi. Đang khi<br /> ta viếng cảnh nhớ người, núi non xanh ngắt một mầu, bỗng đâu xào xạt tiếng gió thu, giục<br /> lòng khách thương kim tự tích”.<br /> Bài thơ này do Nguyễn Trọng Thuật sao chép lại (Nam Phong số 161, 1931) khi ấy cổ<br /> tháp không còn dấu vết, duy chỉ có một ngôi chùa nhỏ (am ?) làng Kiệt Đặc còn thờ tượng<br /> bà. Trên bàn có bức hoành đề hai chữ “Hoa Am” và một đôi câu đối :<br /> Giáp khoa tiên chiếm Cao Bình bảng,<br /> Đại bút do truyền bát cổ bi.<br /> Lại có một cái bia do chúa Trịnh (Dương Vương ?) tặng phong là “Chính vương phủ<br /> thị nội cung tần đức lão Lễ Sư”. Chúa cấp ruộng hương hỏa để thờ bà.<br /> Sự tích bà còn ghi trong Chí Linh phong thổ ký. Làng Kiệt Đặc thờ bà làm thần.<br /> II - SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG<br /> Bà giỏi cả Hán văn lẫn quốc âm, sáng tác nhiều, tiếc rằng ngay từ thế kỷ XVIII đã bị<br /> thất lạc gần hết (theo Vũ Phương Đề). Văn thơ bà có tiếng là hay, song những câu còn<br /> được lưu truyền lại không mấy xuất sắc, nhưng cũng xin chép ra để khỏi thất lạc :<br /> Bà có soạn một tập Gia Ký (6) bằng quốc âm, văn vần, ghi chép việc riêng của mình.<br /> <br /> Đây là cảm nghĩ ở dọc đường khi lánh nạn lên Cao Bằng :<br /> Đành thay là kẻ có mình,<br /> Che trên đã có trời xanh phù trì.<br /> Bà lại tự ví mình với Bạc thị, vợ Hán Cao tổ, có tiếng là người hiền đức:<br /> Hiềm vì một chút đảo điên,<br /> Song le Bạc thị vốn duyên Hán hoàng. (7)<br /> Bà xưng là người hiền cũng không ngoa : trong làng có người làm hại anh bà, nhưng<br /> khi vinh hiển, bà không thèm cậy quyền thế để trả thù, ai cũng khen phục bà là người độ<br /> lượng. Người ấy sau hết lòng phụng sự bà.<br /> Tự xét về văn tài mình bà viết :<br /> Nữ nhi dù đặng có thi (8),<br /> Ắt là tay thiếp kém gì Trạng nguyên ?<br /> Nếu quả bà thi đỗ năm 17 tuổi, thì hai câu này chắc viết khi còn trẻ lắm, vì một khi<br /> chính mình đã đỗ Trạng rồi thì không còn lý do gì để so sánh “kém gì Trạng nguyên” nữa<br /> ?<br /> Trong làng có cậu ấm chọc ghẹo, bà ghét :<br /> Sá gì vàng đá hỗn hào,<br /> Thoảng đem cánh phượng bay cao Thạch thành (9)<br /> Bà còn lập cho học trò Chí Linh một Văn Hội, ngày rầm, mồng một, họp tại nhà thờ<br /> họ bà ở làng Kiệt Đặc, đợi đầu bài của bà ở kinh cho chạy ngựa trạm đem về. Riêng sự<br /> kiện này cũng chứng tỏ chúa Trịnh quý trọng bà lắm mới cho dùng ngựa trạm là của công<br /> để phục vụ riêng cho học trò của bà ở huyện Chí Linh. Bài làm xong đóng hòm gửi về<br /> kinh, bà chấm rồi gửi trả. Bà lại xuất tiền cho người trưởng họ chu biện cơm nước cho sĩ<br /> tử hôm làm bài. Văn học Chí Linh thịnh là nhờ công không nhỏ của bà.<br /> III. HAI BÀI TÍNH ĐỐ : Bà sinh năm nào và lấy chúa Mạc nào ?<br /> Sử sách của ta ít quan tâm tới tiểu sử các tác gia, riêng đối với phụ nữ càng tỏ ra mơ<br /> hồ đến nỗi một vị nữ Trạng nguyên có một không hai của ta mà sinh năm nào, mất năm<br /> nào, lấy chúa Mạc nào cũng không ai hay, đành phải phỏng đoán. Những sự kiện khiến ta<br /> có thể dựa vào để ước tính là :<br /> Năm 10/20 tuổi bà lên Cao Bằng lánh nạn rồi cải trang đi học. Năm 17 tuổi thi đỗ<br /> Trạng nguyên, lấy chúa Mạc, sau lại thờ hai chúa Trịnh Nghị Vương (1623-57) và Trịnh<br /> Dương Vương (1657-82). Năm Tân Mùi (1631) bà chấm thi cho Nguyễn Thọ Xuân đỗ<br /> đầu. 70 tuổi về làng dựng am “Đàm Hoa”. Mất năm 80 tuổi.<br /> Tất cả những chi tiết này chỉ có chuyện Nguyễn Thọ Xuân đỗ đầu năm 1631 còn được<br /> xác nhận trong Lịch Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí.<br /> Để tiện việc phỏng tính, chúng ta cần ôn lại sơ qua quãng lịch sử cuối thời nhà Mạc :<br /> 1592<br /> <br /> - Mạc Mậu Hợp thua quân Trịnh, chạy trốn ở huyện Kim Thành (Hải Dương), rồi bị<br /> bắt và bị chém ở Thăng Long.<br /> -Lúc ấy lòng dân vùng Đông Bắc (Hải Dương, Kinh Bắc v.v…) còn quy phụ nhà Mạc.<br /> Dư đảng nhà Mạc nổi lên khắp nơi, từ sông Nhị hà trở lên miền Bắc khói lửa liên miên,<br /> giặc cướp không yên, dân mất mùa, đói kém.<br /> -Mạc Kính Chỉ chiếm Đông Triều, Thanh Lâm, xưng hiệu Bảo Định rồi Khánh Hựu ở<br /> Chí Linh. 1593 Mạc Kính Chỉ bị chém ở bến Thảo Tân (Bến Cỏ, Thăng Long).<br /> -Mạc Kính Dụng, con Kính Chỉ, giữ Thái Nguyên, xưng Uy Vương, 1598 bị thắt cổ ở<br /> chợ cửa Đông (Thăng Long).<br /> -Mạc Kính Chương chiếm Thiên Thi. 1596 bị giết…<br /> 1593<br /> -Mạc Kính Cung xưng đế hiệu Càn Thống, giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn.<br /> -Nhà Lê khôi phục Thăng Long, vua Lê Thế Tông về kinh sư.<br /> 1598<br /> -Tháng 12, Mạc Kính Cung thua chạy sang Tầu từ 1594, được nhà Minh giúp ép Trịnh<br /> Tùng cho Kính Cung trấn ở Cao Bằng.<br /> 1600<br /> -Bọn Phan Ngạn, Bùi văn Khuê làm phản theo về nhà Mạc, vua phải lánh đi Thanh<br /> Hoa.<br /> -Mạc Kính Cung được Bùi thị, mẹ Mạc Mậu Hợp, đón về chiếm Đông Kinh (Thăng<br /> Long) dân theo vài vạn. Tháng 12, thua quân Trịnh Tùng, chạy sang Kim Thành.<br /> 1601<br /> -Mạc Kính Cung lại thua, bỏ Kim Thành, trốn lên Lạng Sơn.<br /> -Vùng Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc bình định.<br /> 1609<br /> -Mạc Kính Cung chiếm Lạng Sơn rồi quấy rối Thái Nguyên, sau thua quân Trịnh phải<br /> chạy vào hang động ẩn náu.<br /> 1613<br /> -Trịnh Tráng dẹp xong Yên Quảng, đi kinh lý vùng này.<br /> 1616 -Mạc Kính Cung nhường ngôi cho Mạc Kính Khoan (Biên Niên Lịch Sử Cổ<br /> Trung Đại) (Theo Lê Quý Đôn thì mãi đến 1621/23 Mạc Kính Khoan mới tiếm ngôi).<br /> 1618 -Mạc Kính Khoan chiếm Thái Nguyên, Cao Bằng, thua quân Trịnh Tráng, chạy<br /> trốn. 1621-23 -Mạc Kính Khoan xưng Khánh Vương, hiệu Long Thái, cùng Kính Cung<br /> chiếm giữ Cao Bằng, nhưng biệt lập (theo Lê Quý Đôn).<br /> 1623<br /> -Trịnh Tráng lên ngôi, phải dẹp dư đảng của em là Trịnh Xuân, về đóng ở Thanh Hoa.<br /> <br /> -Mạc Kính Khoan thừa cơ kéo quân đến Gia Lâm, dòm dỏ kinh sư, người theo hàng<br /> vạn, bị Trịnh Tráng đánh tan phải chạy về Cao Bằng<br /> 1625<br /> -Mạc Kính Cung bị diệt. Mạc Kính Khoan xin làm phiên trấn, triều đình thuận nhưng<br /> bắt bỏ đế hiệu.<br /> 1638<br /> - Mạc Kính Khoan mất, con là Kính Vũ lên ngôi, lại xưng đế hiệu Thuận Đức.<br /> 1657<br /> -Trịnh Tráng mất, được truy phong Nghị Vương. Con là Trịnh Tạc (Dương Vương) lên<br /> nối ngôi.<br /> 1667<br /> -Mạc Kính Vũ thua quân Trịnh Tạc, chạy trốn sang Tiểu Trấn Yên của nhà Thanh.<br /> 1669<br /> -Nhà Thanh bắt Trịnh Tạc trả lại 4 châu ở Cao Bằng cho Mạc Kính Vũ.<br /> 1677<br /> - Mạc Kính Vũ theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh. Quế mất, triều đình gửi thư<br /> cho nhà Thanh kể tội Kính Vũ. Khi Kính Vũ thua quân Đinh văn Tả chạy sang Long<br /> Châu, nhà Thanh bắt giao trả họ Trịnh. Nhà Mạc đến đây mới dứt.<br /> A/ Câu hỏi thứ nhất : Bà sinh năm nào ?<br /> a) Sớm nhất vào năm 1589<br /> Mãi đến tháng 12 năm 1598, Mạc Kính Cung mới dựa thế nhà Minh, được về trấn<br /> đóng ở Cao Bằng. Gia đình bà chỉ có thể di cư lên Cao Bằng sớm nhất vào năm sau<br /> (1599), khi ấy bà mới 10 tuổi :<br /> 1599 - 10 = 1589<br /> b) Muộn nhất vào năm 1591<br /> - Bà chỉ phò hai chúa Trịnh thì muộn nhất phải mất cùng năm với Trịnh Tạc (165782), nếu mất sau 1682 thì thành “nhất kính chiếu tứ vương” chứ không phải “tam vương”<br /> nữa. Nếu bà mất vào năm 1682, thọ 80 tuổi, thì bà sinh muộn nhất vào năm :<br /> 1682 - 80 = 1602<br /> 10 tuổi theo cha lên Cao Bằng tức là vào năm :<br /> 1602 + 10 = 1612<br /> Khi ấy Hải Dương, quê bà, đã bình định từ 1601, thì gia đình bà còn chạy lên Cao<br /> Bằng làm gì ? Tất nhiên không phải bà sinh năm 1602.<br /> - Gia đình bà chạy lên Cao Bằng muộn nhất phải vào đầu năm 1601, ngay trước khi<br /> Hải Dương bình yên, như vậy bà sinh muộn nhất vào năm :<br /> 1601 - 10 = 1591<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2