intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:175

46
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án này nhằm phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS của đại biểu Quốc hội Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay

  1. 01 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH THÁI NGỌC CHÂU HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Nghệ An, 2021
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH THÁI NGỌC CHÂU HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 9310201 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Cán bộ hướng dẫn: 1. PGS.TS Đinh Thế Định 2. PGS.TS Đinh Trung Thành Nghệ An, 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi. Các kết quả số liệu khảo sát nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố ở bất cứ một công trình nghiên cứu khoa học nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nghệ An, ngày tháng 03 năm 2021 Tác giả Thái Ngọc Châu
  4. LỜI CẢM ƠN Luận án hoàn thành là do sự phấn đấu, nỗ lực của bản thân, đồng thời có sự hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện của các nhà khoa học và các cơ quan, đơn vị. Với tình cảm chân thành và lòng kính trọng, tác giả luận án xin trân trọng cảm ơn tập thể lãnh đạo và quý thầy cô Trường Đại học Vinh, Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn, Phòng Đào tạo Sau đại học. Đặc biệt, xin cảm ơn PGS.TS Đinh Thế Định và PGS.TS Đinh Trung Thành đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận án. Tác giả cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, gia đình, cùng sự động viên, giúp đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng nghiệp trong suốt quá trình học tập và viết luận án. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Thái Ngọc Châu
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Chữ cái viết tắt Chữ viết 1. CNH Công nghiệp hóa 2. CNXH Chủ nghĩa xã hội 3. ĐBQH Đại biểu Quốc hội 4. HĐH Hiện đại hóa 5. HĐGS Hoạt động giám sát 6. HĐDT Hội đồng dân tộc 7. HĐND Hội đồng nhân dân 8. KH&CN Khoa học và công nghệ 9. MTTQ Mặt trận Tổ quốc 10. NQĐH Nghị quyết đại hội 11. NQTW Nghị quyết Trung ương 12. UBND Ủy ban nhân dân 13. UBTVQH Uỷ ban thường vụ quốc hội 14. VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật 15. XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU Sơ đồ 2.1: Quy trình chất vấn của ĐBQH tại phiên họp toàn thể 49 Sơ đồ 2.2: Quy trình chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội 50 Sơ đồ 2.3: Quy trình chất vấn bằng văn bản 51 Sơ đồ 2.4: Quy trình giám sát văn bản quy phạm pháp luật 52 Sơ đồ 2.5: Quy trình giám sát việc thi hành pháp luật 53 Sơ đồ 2.6: Quy trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của 54 công dân Sơ đồ 3.1: Cơ cấu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 80 Bảng 3.1: Cơ cấu đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa 83 Biểu 3.1: Mức độ thường xuyên sử dụng hình thức chất vấn 90 Biểu 3.2: Phân loại ngành nghề ĐBQH kiêm nhiệm thực hiện quyền chất 91 vấn Biểu 3.3: Chỉ số tín nhiệm của Bộ trưởng Bộ Công thương và Bộ trưởng Bộ 93 Nội vụ trong nhiệm kỳ khóa XIII Biểu 3.4: Mức độ thường xuyên giám sát văn bản QPPL 97
  7. MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 8 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 8 ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được công bố trong 8 nước và ngoài nước 1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên 20 quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Kết luận chương 1 26 Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC 27 TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM 2.1. Khái niệm và vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 27 2.2. Nội dung, quy trình và điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát của 40 đại biểu Quốc hội 2.3. Hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới và kinh 67 nghiệm cho Việt Nam Kết luận chương 2 78 Chương 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU 79 QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức của Quốc hội và đại biểu Quốc hội 79 Việt Nam hiện nay 3.2. Kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động giám sát của đại biểu 85 Quốc hội Việt Nam hiện nay 3.3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc 110 hội hiện nay Kết luận chương 3 123
  8. Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG 124 GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM 4.1. Quan điểm tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 124 Việt Nam 4.2. Giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 128 Việt Nam Kết luận chương 4 152 C. KẾT LUẬN 153 D. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC 155 GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI E DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156 F PHỤ LỤC 167
  9. 1 A. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 69, Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội có ba chức năng cơ bản là: chức năng lập hiến, lập pháp, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Trong đó, chức năng giám sát đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực thi nghiêm minh; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực hiện đúng và có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thực tiễn 75 năm hoạt động của Quốc hội cho thấy, việc thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát là vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, hạn chế những biểu hiện “tha hóa” quyền lực, tham nhũng, quan liêu. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là những công dân tiêu biểu trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội được nhân dân tín nhiệm trực tiếp bầu ra thông qua tổng tuyển cử tự do - hình thức bầu cử được đánh giá có tính phổ biến, hiện đại và dân chủ nhất trong các hình thức bầu cử. ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội. Cùng với việc tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề về lập hiến, lập pháp, quyết định các chính sách quan trọng phát triển kinh tế, xã hội, ĐBQH thay mặt nhân dân thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoạt động giám sát (HĐGS) của ĐBQH có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ thực hiện vai trò là người đại diện cho nhân dân mà còn góp phần kiểm soát quyền lực của nhà nước, kiểm soát quản lý công và bổ sung cho lập pháp. Từ đó đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực thi chức năng và nhiệm vụ của mình theo khuôn khổ của pháp luật.
  10. 2 Sau 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới (1986 - 2021), đặc biệt là từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, tiếp đến Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 có hiệu lực, HĐGS của Quốc hội, của ĐBQH đã có sự đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung vào những vấn đề mà cử tri và dư luận xã hội quan tâm. Nhờ đó góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế, xã hội ngày càng phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn HĐGS của ĐBQH thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết triệt để. Việc thực hiện HĐGS của từng đại biểu chưa được thực hiện nhiều do còn thiếu những quy định cụ thể và cơ chế hỗ trợ về mặt chuyên môn, do năng lực cũng như kinh nghiệm giám sát của ĐBQH, nhất là ĐBQH kiêm nhiệm chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động này. Hoạt động giám sát chưa đi sâu, phát hiện và đề xuất giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh của xã hội. Điều kiện về thời gian, vật chất, thông tin cho hoạt động giám sát chưa đảm bảo... Trong giai đoạn hiện nay, với tốc độ phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bối cảnh mới của thế giới và đất nước đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhằm đảm bảo cho Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thực hiện tốt các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát tối cao. Theo đó, cần chú trọng tăng cường hoạt động của ĐBQH, nhất là HĐGS nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của cử tri, nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường HĐGS của ĐBQH góp phần vào việc đổi mới và nâng cao hiệu quả HĐGS của Quốc hội nói chung và ĐBQH nói riêng.
  11. 3 Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng HĐGS của ĐBQH, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến hoạt động giám sát của ĐBQH, rút ra những vấn đề tiếp tục nghiên cứu. Thứ hai: Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam. Thứ ba: Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam. Thứ tư: Đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu hoạt động giám sát của ĐBQH với tư cách là một chủ thể giám sát độc lập, bao gồm các hoạt động chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
  12. 4 - Về phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (Luật số 87/2015/QH13) được thực hiện (từ 1/7/2016) cho đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước, về tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung và về HĐGS của ĐBQH nói riêng. - Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước và về HĐGS. Đặc biệt là tham khảo mô hình, phương thức giám sát của nghị viện một số nước như Singapore, Ba Lan, Thụy Ðiển, Nhật Bản. 4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong luận án, tác giả sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu chính: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích hệ thống chính trị, phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài ra luận án còn sử dụng các phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh, định tính, định lượng. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu nghiên cứu, các số liệu liên quan đến đề tài. Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ các phần của luận án như phân tích tài liệu để rút ra những mặt được và những nội dung còn thiếu trong nghiên cứu vấn đề hoạt động giám sát của ĐBQH, phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam, phân tích thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam... Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng trong đánh giá hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam.
  13. 5 - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp khảo sát thực tế và điều tra xã hội học, phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp phân tích mô hình thực tiễn... Nhóm phương pháp nghiên cứu này được sử dụng trong chương 2 và chương 3, nhất là trong phần nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới và đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Luận án sử dụng các số liệu thứ cấp từ các nguồn: Văn phòng Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Cổng thông tin Quốc hội... Tác giả theo dõi một số phiên chất vấn của ĐBQH tại các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp UBTVQH và các phiên giải trình tại HĐDT, Uỷ ban của Quốc hội để đánh giá tình hình thảo luận, tranh luận, nội dung câu hỏi, câu trả lời và thống kê số liệu chất vấn của ĐBQH. Tác giả thực hiện gửi phiếu điều tra đến các ĐBQH. Thời điểm tiến hành khảo sát là tháng 6/2018, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV. Trên cơ sở các nguồn số liệu đó, tác giả tiến hành phân tích, tính toán thông qua công cụ là phần mềm Excel trên máy tính. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 3. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, phương pháp nghiên cứu dự báo, đưa ra những kiến nghị, giải pháp có tính khả thi. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về mặt lý luận Thứ nhất, luận án góp phần bổ sung lý luận về HĐGS của ĐBQH Việt Nam, làm rõ khái niệm HĐGS, vai trò, nội dung, quy trình HĐGS của ĐBQH cũng như các điều kiện bảo đảm HĐGS của ĐBQH. Thứ hai, qua nghiên cứu HĐGS của nghị sĩ một số nước trên thế giới, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
  14. 6 5.2. Về mặt thực tiễn Thứ nhất, luận án đánh giá khách quan thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam, nhất là giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Luật số 87/2015/QH13) được thực hiện cho đến nay. Thứ hai, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS, nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. Thứ ba, luận án phục vụ cho việc tham khảo, nghiên cứu lý luận và giảng dạy về tổ chức hoạt động giám sát của ĐBQH. Đồng thời, rút ra kinh nghiệm trong việc tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Câu hỏi nghiên cứu Thứ nhất: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam dựa trên cơ sở lý luận nào? Thứ hai: Thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam hiện nay như thế nào? Thứ ba: Yêu cầu đối với hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam trong thời gian tới như thế nào? Thứ tư: Giải pháp nào để tăng cường hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam? 6.2. Giả thuyết nghiên cứu ĐBQH là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành Quốc hội. Tất cả các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đều do ĐBQH thực hiện. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, ĐBQH trong HĐGS được Hiến pháp và pháp luật qui định khá cụ thể. Tuy nhiên, thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và mong muốn của cử tri. Các giải pháp mà luận án đưa ra nếu được nhận thức và vận
  15. 7 dụng vào thực tiễn một cách phù hợp sẽ góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các công trình khoa học của tác giả, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
  16. 8 B. NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được công bố trong nước và ngoài nước 1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Cuốn sách The public and it's problems (Công chúng và các vấn đề liên quan) xuất bản năm 1927 là công trình nghiên cứu lớn đầu tiên của nhà triết học người Mỹ John Dewey về triết học và chính trị. Trong cuốn sách này, tác giả phân tích tính khả thi của việc xây dựng một xã hội dân chủ thực sự trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và sự biến đổi của xã hội trong thế kỷ XX; phân tích mối liên hệ giữa “công chúng” và “nhà nước”, chỉ ra những điểm hạn chế trong thực hiện lợi ích cá nhân và lợi ích công cộng. Trong Công chúng và các vấn đề liên quan, John Dewey bác bỏ quan niệm phổ biến về kỷ trị chính trị như là một hệ thống thay thế để quản lý xã hội ngày càng phức tạp. Ông khẳng định: dân chủ mới thực sự là phương tiện hữu hiệu và bền vững nhất để quản lý xã hội nhằm đạt được lợi ích công cộng. Tuy nhiên, để dân chủ phát huy hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia và giám sát thường xuyên của công chúng. Cũng trong Công chúng và các vấn đề liên quan, John Dewey làm rõ các khái niệm như “công chúng”, “nhà nước”, “chính phủ” và “dân chủ chính trị”; cho rằng nhà nước là cơ quan phục vụ công chúng nhưng quyền lực của nhà nước thường bị lạm dụng để phục vụ lợi ích của một nhóm người trong xã hội. Sở dĩ có tình trạng đó là do thiếu sự giám sát của công chúng đối với nhà nước. Để khắc phục tình trạng đó cần phát huy dân chủ, công chúng cần chủ động tham gia vào quá trình làm chủ của mình. Vì vậy, cần phải có sự kiểm soát quyền lực, và do đó công chúng cần phải giám sát quyền lực của nhà nước [114].
  17. 9 Cuốn sách Democracy and Critics (Dân chủ và các nhà bình luận) xuất bản năm 1981 bởi Nhà xuất bản St.Martin, New York, Robert A.Dahl (1915–2014) cho rằng, chưa có quốc gia hiện đại nào đáp ứng được lý tưởng về dân chủ. Theo ông, để đạt được lý tưởng dân chủ, cần phải đáp ứng các tiêu chí sau: Sự tham gia hiệu quả: Trước khi một chính sách được thông qua, tất cả thành viên phải có cơ hội bình đẳng và hiệu quả để bày tỏ ý kiến của mình về chính sách đó. Nói cách khác, công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng bày tỏ nguyện vọng của mình, đồng thời được thảo luận về các chương trình nghị sự, các chính sách của nhà nước. Sự bình đẳng trong bầu cử (bỏ phiếu): Khi quyết định thông qua các chính sách, tất cả thành viên phải có quyền bình đẳng và hiệu quả để bỏ phiếu, và các lá phiếu phải có giá trị như nhau. Sự hiểu biết tập thể: tất cả thành viên phải có cơ hội bình đẳng và hiệu quả để tìm hiểu về những chính sách thay thế liên quan, từ đó quyết định lựa chọn chính sách sẽ đem lại lợi ích tốt nhất cho họ. Kiểm soát chương trình nghị sự: Các thành viên phải có cơ hội độc lập nhằm quyết định lựa chọn và giải quyết các vấn đề sẽ đưa ra trong chương trình nghị sự. Các chính sách của quốc gia phải được sự đóng góp ý kiến của các thành viên và chính sách có thể thay đổi khi các thành viên tán thành. Như vậy, tiến trình dân chủ đáp ứng theo yêu cầu của ba tiêu chuẩn trên sẽ không bao giờ khép lại. Bao gồm sự bình đẳng của người trưởng thành: Tất cả hoặc ít nhất phần lớn cư dân thường trú trưởng thành phải có đầy đủ các quyền công dân đã nêu trong bốn tiêu chí trên [112]. Cuốn sách The Sources of Social Power (Các nguồn sức mạnh của xã hội), xuất bản năm 1986 của tác giả Michael Mann, đã phân biệt bốn nguồn sức mạnh của xã hội và nhà nước, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa chúng trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, đó là: tư tưởng, kinh tế, quân sự và chính trị. Michael Mann xác định nguồn gốc, cơ chế và kết quả của quyền lực mà nhà nước sở hữu liên quan
  18. 10 đến bốn nhóm quyền lực đó trong xã hội. Trong cuốn sách này, Michael Mann đã khái quát quá trình xuất hiện của nhà nước và sự phân tầng xã hội, đưa ra định nghĩa nhà nước, phân tích nội hàm của định nghĩa đó. Tác giả cũng đã phân tích hai phần quan trọng của định nghĩa liên quan đến hai loại quyền lực nhà nước, được gọi là sức mạnh phi thường và cơ sở hạ tầng [117]. Trong cuốn Managing Parliament in the 21st Century: EGPA Yearbook (Quản trị nghị viện trong thế kỷ 21: Niên giám Egpa), các tác giả đã bàn luận về khái niệm giám sát của nghị viện, đồng thời chỉ rõ: giám sát thực thi luật là hệ quả tất yếu của chức năng lập pháp. Chỉ thông qua hoạt động giám sát quá trình thực thi pháp luật, các thành viên nghị viện mới có thể phát hiện được các hạn chế của pháp luật, trên cơ sở đó mới có thể sửa chữa những sai lầm và việc áp dụng pháp luật không đúng đắn của cơ quan hành pháp. Theo đó, giám sát của nghị viện được xem là những hoạt động tất yếu tiếp theo hoạt động lập pháp nhằm xem xét các đạo luật đã được ban hành có được thực thi hiệu quả hay không và trên thực tế các đạo luật đó có giải quyết được các vấn đề như dự định của các nhà soạn thảo hay không. Để đạt được điều này, hoạt động giám sát của quốc hội đòi hỏi phải thực hiện hiệu quả các kỹ thuật và cơ chế quản lý hành chính công [115]. Ricardo Pelizzo - Rick Stapenhurst trong Các công cụ giám sát của nghị viện: Báo cáo điều tra thực chứng đã phân tích các công cụ giám sát của nghị viện ở 82 quốc gia, đánh giá về mối quan hệ giữa công cụ giám sát và những khía cạnh khác nhau trong đời sống chính trị quốc gia. Các tác giả đi sâu phân tích mối quan hệ giữa công cụ giám sát và hình thức chính thể quốc gia, mối quan hệ giữa công cụ giám sát và mức độ dân chủ. Họ cho rằng ở hệ thống chính thể đại nghị, cơ quan lập pháp có nhiều công cụ giám sát để lựa chọn hơn so với các cơ quan lập pháp ở mô hình tổng thống và mô hình bán tổng thống. Các tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ tuyến tính giữa mức độ dân chủ và số lượng các công cụ giám sát [120]. Trong Congressional Investigations and Oversight: Case Studies and Analysis (Điều tra và Giám sát của Quốc hội: Nghiên cứu điển hình và phân tích), các tác giả Stanley M. Brand & Lance Cole xem xét các vấn đề pháp lý và chính sách xung quanh
  19. 11 các cuộc điều tra của quốc hội thông qua một loạt các nghiên cứu điển hình tập trung vào giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay. Các tác giả khẳng định tầm quan trọng của các hoạt động điều tra và giám sát hiệu quả của Quốc hội trong hệ thống chính phủ dân chủ Hoa Kỳ, cũng như các cơ sở cho quyền lập hiến, lập pháp của nghị viện. Cũng trong Case Studies and Analysis (Điều tra và Giám sát của Quốc hội: Nghiên cứu điển hình và Phân tích) các tác giả phân tích cơ cấu và các chức năng của chính phủ, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát quyền lực của chính phủ [121]. Sách Changes in Congressional Oversight (Những sự thay đổi trong lĩnh vực giám sát Quốc hội Mỹ) của tác giả Joel D. Aberbach. Cuốn sách tập trung nghiên cứu chức năng giám sát của Quốc hội Mỹ đối với đối với hoạt động của các bộ, cơ quan và ủy ban, và các chương trình, chính sách do họ quản lý. Tác giả cũng cho rằng hành vi của các nhà lập pháp sẽ tạo ra tác động đối với hành vi của cơ quan hành chính quan liêu; giám sát hành chính là cần thiết bởi nó tạo ra cơ chế mà những nhà quản lý hành chính có thể ảnh hưởng đến chúng ta theo những cách cơ bản. Cũng trong Changes in Congressional Oversight tác giả chú trọng phân tích các nhân tố thúc đẩy và tăng cường chất lượng giám sát, các xu hướng cách thức giám sát ủy ban của Quốc hội: sự kiểm soát của đảng phái với vị trí Tổng thống và Quốc hội; nhóm chịu sự tác động; nhóm lợi ích; tổ chức cơ quan của Quốc hội; tăng cường chất lượng và số lượng nghị sĩ; sự công khai trong hoạt động [110]. Trong cuốn Political Negotiation (Đàm phán chính trị), các tác giả Jane Mansbridge-Cathie Jo Martin chia sẻ bài học từ những câu chuyện thành công và đưa ra lời khuyên thiết thực để khắc phục sự phân cực đảng phái gay gắt và tạo sự đồng thuận giữa các đại diện lập pháp về các vấn đề chính sách thông qua các hoạt động đàm phán. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả cho rằng: ba cơ quan nhà nước không nên hoạt động quá tách biệt mà phải chịu sự giám sát lẫn nhau ở mức độ cần thiết theo cơ chế kiềm chế và đối trọng. Việc kiểm soát lẫn nhau giữa ba cơ quan nhà nước sẽ tạo ra sự cân bằng quyền lực, hạn chế tình trạng các cơ quan đó tuỳ tiện sử dụng quyền lực trong quá trình thực thi các hoạt động chức năng của mình, tránh tình trạng chuyên quyền, độc đoán. Chức năng giám sát của nghị viện chính là công cụ để
  20. 12 cơ quan lập pháp thực hiện quyền kiểm soát đối với các hệ thống cơ quan khác trong bộ máy nhà nước [118]. Tác giả Walter Oleszek trong bài viết “Congressional Oversight: An overview” (Giám sát quốc hội: Tổng quan) khẳng định: mục tiêu cơ bản của giám sát quốc hội là để các quan chức hành pháp có trách nhiệm trong thực thi quyền hạn được giao. Trong thời kỳ hiện đại, mục tiêu này càng trở nên đặc biệt quan trọng do sự mở rộng của ảnh hưởng hành pháp. Walter Oleszek cũng đã phân tích khái niệm giám sát và mục đích của HĐGS. Tác giả khẳng định, giám sát là một hoạt động phổ biến ở Capitol Hill dưới nhiều hình thức khác nhau, được thực hiện trong các phiên điều trần, các cuộc họp, hoặc thậm chí trong cả các hoạt động khác như trong các cuộc họp ủy ban về xây dựng pháp luật, trong các cuộc làm việc của các đại biểu, chuyên gia và nhân viên của Quốc hội với các quan chức hành pháp, các nhà lãnh đạo hành chính…[119]. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về quyền giám sát và hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Liên quan đến quyền và hoạt động giám sát của của Quốc hội có những nghiên cứu có giá trị khoa học sau: Trong ấn phẩm Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn đã đưa ra khái niệm giám sát tối cao của Quốc hội, phạm vi của quyền giám sát tối cao của Quốc hội là các cơ quan nhà nước ở trung ương và đối tượng của hoạt động giám sát tối cao là hoạt động của các cơ quan, cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn. Đồng thời, trong ấn phẩm khẳng định, giám sát của Quốc hội là quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội, là xem xét hoạt động của các cơ quan, cá nhân đứng đầu các cơ quan nhà nước ở trung ương trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội được tiến hành tại các kỳ họp của Quốc hội. Căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc hội xác định các hiệu quả pháp lý phù hợp với nội dung giám sát thể hiện bằng hình thức văn bản là nghị quyết [62].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2