intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

Chia sẻ: ViJenlice ViJenlice | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:191

48
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích làm rõ cơ sở lý luận, yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em, thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu, kiến nghị phát huy vai trò giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ NHAN GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ NHAN GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH 2. TS. PHẠM THỊ HOÀNG HÀ HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Nhan
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 7 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 7 1.2. Đánh giá chung các công trình tổng quan, những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu 24 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 31 2.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu về giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng 31 2.2. Những yếu tố tác động đến giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng 51 Chương 3: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 64 3.1. Thực trạng giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 64 3.2. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 97 Chương 4: GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY 115 4.1. Giải pháp chủ yếu phát huy vai trò giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng 115 4.2. Kiến nghị nhằm phát huy vai trò giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng 140 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 165
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DN FDI Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ĐBSH Đồng bằng sông Hồng GĐCN Gia đình công nhân KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất TNHH Trách nhiệm hữu hạn
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Nhận thức của bố mẹ trong gia đình công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng về giáo dục đạo đức cho trẻ em 67 Bảng 3.2: Lối sống của ông bà ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ em trong gia đình công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng 68 Bảng 3.3: Đánh giá mức độ bố, mẹ trong gia đình công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng thực hiện hướng dẫn trẻ em làm bài tập ở nhà 77 Bảng 3.4: Nhận thức của bố mẹ trong gia đình công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng về vai trò của gia đình trong giáo dục học tập văn hóa cho trẻ em 80 Bảng 3.5: Mức độ trẻ em trong gia đình công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng trao đổi với ông bà hoặc bố mẹ về vấn đề giới tính (sự thay đổi của cơ thể, vấn đề tình bạn, tình yêu, tình dục...) 89 Bảng 3.6: Nhận thức của bố mẹ trong gia đình công nhân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em 91
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là tương lai của đất nước, chính vì vậy Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm tới công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Việc giáo dục trẻ em là một việc làm thường xuyên và cần thiết để phát triển một thế hệ công dân tương lai có chất lượng cao, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trong các chủ thể giáo dục trẻ em, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, có ảnh hưởng lâu dài, toàn diện tới trẻ em, thậm chí trong suốt cuộc đời. Giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội chỉ phát huy được vai trò khi lấy giáo dục gia đình làm nền tảng. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở nước ta, những năm qua đã và đang tác động mạnh mẽ, làm thay đổi cơ cấu các loại hình gia đình. Số lượng gia đình công nhân (GĐCN) ngày càng phát triển, đồng nghĩa với tỷ lệ trẻ em trong các GĐCN cũng ngày càng tăng. Do vậy, quan tâm giáo dục trẻ em trong các GĐCN là công việc cần thiết, vì đây chính là thế hệ tương lai có xuất thân trực tiếp từ giai cấp công nhân - cơ sở xã hội quan trọng nhất của Đảng, sẽ có những đóng góp quan trọng cho phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có diện tích tự nhiên hơn 21.000 km2. Với vị trí thuận lợi ĐBSH đang đứng đầu cả nước về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo đà cho phát triển kinh tế và tốc độ CNH, HĐH. Các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp, dịch vụ ra đời và phát triển mạnh hơn so với đa số các vùng còn lại trong cả nước [46, tr.27]. Bên cạnh những thành tựu tăng trưởng kinh tế do nguồn vốn đầu tư nước ngoài và phát triển CNH, HĐH mang lại, ĐBSH cũng đang đứng trước nhiều vấn đề xã hội bức xúc, trong đó có vấn đề giáo dục trẻ em của GĐCN, nhất là GĐCN trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DN FDI).
  8. 2 Theo đánh giá của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, hầu hết GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH hiện nay chưa được hỗ trợ về nhà ở, mức thu nhập thấp, khó khăn trong trang trải sinh hoạt gia đình và đầu tư cho chăm sóc, giáo dục trẻ em. Kết quả thống kê năm 2018: có 20% công nhân trong các DN FDI vùng ĐBSH nhận lương không đủ sống, 31% phải chi tiêu tằn tiện, 41% vừa đủ trang trải và chỉ 8% có tích lũy [87]. Ngoài ra, do phải làm theo ca và tăng ca thường xuyên, hầu hết bố mẹ trong GĐCN các DN FDI rất khó khăn, hạn chế trong bố trí thời gian tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, tham gia các tổ chức đoàn thể, tiếp cận những thông tin chính trị - xã hội, nhất là thời gian cho giáo dục, chăm sóc con cái. Với những khó khăn trên, một bộ phận trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, khi đến tuổi đi học phải gửi về quê nhờ ông bà (nội, ngoại), người thân nuôi dưỡng. Do đó, việc giáo dục, chăm sóc con, hầu như “gửi gắm” cho ông bà và thầy cô giáo ở quê. Một bộ phận trẻ em khác được ở cùng bố mẹ, nhưng do tính chất công việc của người công nhân (thiếu thời gian, kiến thức, phương pháp giáo dục con cái…), việc giáo dục con cái hầu như cũng phó mặc cho nhà trường và xã hội. Phần lớn GĐCN ở vùng ĐBSH là gia đình trẻ, con cái của họ chủ yếu đang ở độ tuổi từ mẫu giáo đến trung học cơ sở, do vậy rất cần có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhất là của bố mẹ để hình thành nhân cách gốc cho trẻ. Tuy nhiên, với những điều kiện đặc thù của GĐCN trong các DN FDI đã và đang ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển, trưởng thành của trẻ em về thể lực, trí tuệ, nhân cách… Tốc độ CNH, HĐH vùng ĐBSH diễn ra ngày càng nhanh chóng, vấn đề giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, rất cần được quan tâm nghiên cứu, tìm giải pháp khắc phục nhằm phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em, góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam trong tương lai có nhân cách, đạo đức và trí tuệ, tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
  9. 3 Trước yêu cầu đặt ra như trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” làm luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích làm rõ cơ sở lý luận, yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em, thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu, kiến nghị phát huy vai trò giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ cơ sở lý luận và những yếu tố tác động đến giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH. Phân tích thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH và những vấn đề đặt ra hiện nay. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm phát huy vai trò giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng: Luận án nghiên cứu giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI gồm nhiều nội dung, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung vào 3 nội dung: giáo dục đạo đức; giáo dục văn hóa và giáo dục giới tính.
  10. 4 Về không gian: Gia đình công nhân trong các DN FDI vùng ĐBSH rất đa dạng, luận án lựa chọn nghiên cứu loại hình GĐCN gồm cả vợ và chồng đang làm việc trong các DN FDI. Luận án tập trung nghiên cứu trẻ em từ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi (độ tuổi bắt đầu đi học tiểu học đến hết trung học cơ sở) trong GĐCN các DN FDI vùng ĐBSH. Địa bàn nghiên cứu: ĐBSH gồm 11 tỉnh và thành phố, tuy nhiên luận án chỉ tập trung nghiên cứu GĐCN ở một số tỉnh có quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ cao, thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài và số lượng lớn công nhân làm việc: (1) Thành phố Hà Nội (2) Thành phố Hải Phòng (3) Tỉnh Bắc Ninh (4) Tỉnh Hà Nam Về thời gian: Luận án nghiên cứu giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH từ năm 2006 đến nay (từ khi có Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/08/2006 về Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ). Trong đó số liệu sử dụng tập trung chủ yếu từ năm 2016 đến nay, khi bắt đầu triển khai Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp vùng ĐBSH đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035 của Bộ Công thương. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về giáo dục trẻ em, vai trò giáo dục của gia đình, GĐCN, CNH, HĐH, phát triển các KCN, phát triển các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
  11. 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chú trọng các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, tổng hợp, điều tra xã hội học. Trong đó phương pháp điều tra xã hội học được triển khai: Hình thức điều tra: Bằng bảng hỏi: 270 phiếu đối với đối tượng trẻ em từ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi, và 400 phiếu với đối tượng bố, mẹ trong GĐCN các DN FDI vùng ĐBSH. Phỏng vấn sâu 8 cán bộ Công đoàn cơ sở của các DN FDI vùng ĐBSH. Địa bàn và thời gian tiến hành điều tra: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) SamSung Display Việt Nam, KCN Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; thời gian thực hiện từ ngày 23 đến 25/ 11/ 2016. Công ty TNHH vật liệu nam châm Shin - Etsu Việt Nam, KCN Đình Vũ, thành phố Hải Phòng; thời gian thực hiện từ ngày 3 đến 5/12/2016. Công ty TNHH Alpha Industries Việt Nam, KCN Thăng Long, thành phố Hà Nội; thời gian thực hiện từ ngày 15 đến 17/12/2016. Công ty TNHH Hashimoto Cloth Việt Nam, KCN Đồng Văn 2, tỉnh Hà Nam; thời gian thực hiện từ ngày 20 đến 23/12/2016. Tổng số đối tượng tham gia điều tra là 678 người. Sau khi thu thập được thông tin, tác giả tiến hành tổng hợp, phân tích số liệu [phụ lục 5,7]. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Bước đầu góp phần làm rõ thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH hiện nay trên các chiều cạnh tích cực, hạn chế, đồng thời chỉ ra nguyên nhân thực trạng và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Góp phần đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, qua đó kiến nghị những biện pháp phát huy vai trò giáo dục trẻ em của GĐCN nói chung, GĐCN trong các DN FDI nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.
  12. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần cung cấp một số căn cứ lý luận và thực tiễn trong xây dựng, thực hiện chính sách của các cấp, ngành về công nhân, GĐCN trong các DN FDI, về giáo dục trẻ em của GĐCN. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các môn học liên quan đến gia đình, công nhân, giáo dục trẻ em trong các KCN. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương (8 tiết).
  13. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về gia đình, giáo dục trẻ em của gia đình Gia đình luôn là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn, có sức thu hút mạnh mẽ không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà cả các cơ quan, tổ chức có liên quan. Rất nhiều cá nhân, tập thể đã có các công trình khác nhau nghiên cứu về gia đình nói chung và chức năng giáo dục trẻ em của gia đình nói riêng. Cuốn sách Khôi phục mối quan hệ gia đình của C. McGraw Phillip do Đông Hương dịch [70], đã phân tích tâm lý người vợ, người chồng để có những cái nhìn mới về niềm tin, giá trị của mối quan hệ vợ chồng. Theo tác giả, trong mối quan hệ vợ chồng, vấn đề hiểu lầm hoặc sự thiếu hòa hợp trong tính cách của mỗi người thường xuyên xảy ra, với những mức độ khác nhau. Để cho các mối quan hệ gia đình được bền lâu thì những vấn đề này phải được khắc phục triệt để. Tác giả căn cứ vào góc nhìn tâm lí của người vợ và người chồng để đưa ra cách giải quyết những vấn đề này. Cuốn sách Xã hội học gia đình của Martine Segalen do Phan Ngọc Hà dịch, đã đưa ra những nghiên cứu xã hội học về gia đình [69]. Cuốn sách nghiên cứu về những biến đổi trong quan hệ thân tộc (quan hệ dòng dõi, quan hệ thông gia, vấn đề của sự kế tục...); những biến đổi của gia đình (kết hôn, li hôn, vấn đề huyết thống...); các chức năng của gia đình (xã hội học nhà trường, lao động, chổ ở); nhà nước gia đình (chính sách khuyến khích sinh đẻ, chính sách công, chính sách xã hội...). Castellan với cuốn sách Gia đình do Nguyễn Thu Hồng - Ngô Dư dịch từ tiếng Pháp [16]. Nội dung cuốn sách bàn về nguồn gốc của gia đình và phân chia các kiểu gia đình dựa trên các các thời kì lịch sử. Cuốn sách cũng
  14. 8 đưa ra những phân tích về vai trò, mối liên hệ giữa các thành viên và chức năng cơ bản của gia đình. Cuốn sách Tương lai của gia đình của L. Jones Charles, Lorne Tepperman, J. Wilson Susannah đã phân tích sự biến đổi của gia đình đương đại và gia đình trong tương lai [117]. Theo tác giả, gia đình dựa trên cơ sở hôn nhân và nhiều mối liên hệ gia tộc giữa các thế hệ, cũng như giữa các đại biểu của các dòng họ chi nhánh phụ theo tuyến dòng họ và quan hệ thân gia. Để đánh giá sự biến đổi của gia đình đương đại, tác giả đã khảo sát ý kiến của những người phụ nữ hiện đại về hôn nhân, về nữ quyền, bình đẳng giới và những xu hướng biến đổi của gia đình. Cuốn sách Khi cha mẹ chia tay của Gerard Poussin, đã mô tả việc ly hôn của các cặp vợ chồng sẽ ảnh hưởng ra sao tới con của họ [78]. Hiện tượng ly hôn ngày càng có xu hướng gia tăng, nó không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của vợ, chồng mà còn ảnh hưởng lớn đến con cái. Cha mẹ ly hôn gây ra những tổn thương về tinh thần, cản trở sự phát triển tâm lý bình thường ở trẻ. Tác giả đã kết hợp các nghiên cứu lý thuyết với quan sát thực nghiệm, tư vấn tâm lý để đưa ra những phương pháp trị liệu tâm lý cho trẻ trong gia đình có bố mẹ ly hôn. Giáo dục gia đình đối với trẻ em luôn nhận được sự quan tâm của toàn xã hội, có nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau như: Trên khía cạnh giáo dục học Ma-ca-ren-cô đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu và bày tỏ quan điểm trong cuốn sách Nói chuyện về giáo dục gia đình [68]. Ông cho rằng giáo dục con trẻ là việc làm lý thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình, nó không khó khăn ghê gớm như nhiều người lầm tưởng. Các bậc cha mẹ phải có tình yêu, trách nhiệm và kiến thức. Giáo dục gia đình chỉ đạt hiệu quả tốt, khi bố mẹ tiến hành hoạt động giáo dục ngay từ giai đoạn trẻ nhỏ. Tác phẩm Dạy con yêu lao động của tác giả Pê-sec-ni-cô-va, có tư tưởng cơ bản là giáo dục gia đình thông qua lao động [77]. Giáo dục con cái yêu lao động phải được bắt đầu từ nhỏ. Các câu chuyện mà tác giả tổng hợp trong sách
  15. 9 là một kho tàng kiến thức, kinh nghiệm giáo dục trẻ em mà các bậc cha mẹ và các nhà sư phạm ngày nay vẫn tiếp tục khai thác. Tác giả Doãn Kiến Lợi đã viết cuốn sách Người mẹ tốt hơn người thầy tốt [66]. Nội dung cuốn sách đề cao nền tảng giáo dục từ gia đình, nhấn mạnh vai trò to lớn của người mẹ trong việc giáo dục trẻ em. Theo tác giả những phẩm chất và năng lực giáo dục của người mẹ sẽ quyết định phần lớn sự hình thành nhân cách, sự thành công trong công việc và cuộc sống của đứa trẻ trong tương lai. Với hai chủ đề “giáo dục phẩm chất đạo đức” và “rèn luyện thói quen học tập”, tác giả đưa ra một số nguyên tắc giáo dục trẻ trong gia đình như: giáo dục trẻ bằng sự gương mẫu của bố, mẹ; luôn nhận thấy mặt tích cực của trẻ; không tiếc lời khen; hướng dẫn trẻ sửa sai một cách chân thành và tế nhị. Child education in the family: proven through practice (Giáo dục trẻ em trong gia đình: được chứng minh qua thực tiễn) của tác giả N.C Drupxkaia [121]. Bài viết đánh giá cao việc bố mẹ cần được trang bị những kiến thức thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm khi thực hiện giáo dục con cái. Kết quả khảo sát mà tác giả bài viết tiến hành cho thấy, tỉ lệ giáo dục con cái trong gia đình đạt hiệu quả cao tỉ lệ thuận với việc bố mẹ quan tâm, đầu tư cho hoạt động tự học và bổ sung kiến thức thực tiễn về giáo dục trẻ em của bản thân. Kết luận bài viết, tác giả khẳng định: muốn thực hiện được tốt việc giáo dục trẻ em trong gia đình, bố mẹ cần phải học tập thường xuyên để có đủ năng lực giáo dục trẻ. Hai nhà giáo dục học Ph.D Tina Payne Bryson và J.Siegel Danil đã viết cuốn sách The whole - brain child (Phương pháp tiếp cận trẻ em toàn bộ não) [125]. Các tác giả đã đánh giá những hành vi “phá phách” ở trẻ trong từng giai đoạn phát triển. Nguyên nhân sâu xa của những hành vi phá phách là do bộ não của đứa trẻ liên tục thay đổi, bố mẹ không đảm bảo duy trì trạng thái cảm xúc tích cực cho con. Các tác giả đề xuất “mười hai chiến lược cách mạng” để bố mẹ giáo dục cho trẻ thực hiện hành vi chuẩn mực và phát triển trí thông minh cảm xúc dựa trên khoa học thần kinh, trong đó nhấn mạnh bố mẹ cần thực hiện giáo dục trẻ trên cơ sở khuyến khích trẻ suy nghĩ và lắng nghe hơn là phản ứng,
  16. 10 gia tăng yếu tố vui vẻ cho gia đình, và giúp trẻ em nhận ra quan điểm của người khác để khuyến khích sự đồng cảm. Sự gắn bó giữa bố mẹ với con cái có vai trò quan trọng trong việc cân bằng mối quan hệ trong gia đình và giáo dục con hiệu quả là quan điểm của các tác giả: Julia Knoke, Julia Burau and Bernd Roehrle viết trong cuốn sách Attachment styles, loneliness, quality, and stability of marital relationship (cách thức kèm kẹp, sự cô đơn, chất lượng và sự ổn định của mối quan hệ gia đình) [123]. Hình thức gắn bó giữa bố mẹ với con cái được mô tả có hai loại: an toàn hoặc không an toàn. Trong đó, sự gắn bó không an toàn giữa bố mẹ với con cái được biểu hiện qua sự né tránh bày tỏ cảm xúc; lảng tránh sự thân mật và phụ thuộc, giữ cảm nhận tiêu cực về đối phương. Điều này tạo ra khoảng cách giữa bố mẹ với trẻ, bố mẹ không thực hiện được các hoạt động giáo dục trẻ, trẻ dễ bị tổn thương, sa ngã vào tệ nạn xã hội và bị gia đình bỏ mặc. Trong cuốn sách Ứng xử giữa cha mẹ và con cái tuổi mới lớn, H.G. Ginott đã đưa ra các tình huống thực tế, giúp các bậc phụ huynh hiểu và nắm bắt sự thay đổi tâm lý của con cái tuổi mới lớn, để có cách ứng xử phù hợp, giúp con cái dần dần hoàn thiện nhân cách [79]. Những xung đột, va chạm giữa bố mẹ với con cái, khiến bố mẹ phiền lòng, đau đầu xảy ra ở mọi gia đình, và bố mẹ cần có cách ứng xử khôn khéo, phù hợp với từng độ tuổi phát triển và các hoàn cảnh cụ thể. Cách ứng xử của bố mẹ chính là chìa khóa quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ. Sự liên kết giữa mẹ và con gái rất sâu đậm và bền vững. Người mẹ có vai trò đặc biệt trong việc chăm sóc và giáo dục con gái hình thành nhân cách. Đó là quan điểm của J. Ford và A. Fort thể hiện trong cuốn sách Giữa mẹ và con gái [115]. Theo tác giả, mẹ và con gái luôn gần gũi với nhau theo một cách thức nào đó, nhưng khi những cô con gái ngày càng lớn lên, những thay đổi về tâm lý và hành động vượt dần khỏi sự kiểm soát của mẹ. Khi đó mọi hành vi cáu giận hay quát mắng chỉ làm cho mối quan hệ giữa hai mẹ con trở lên căng thẳng, các bà mẹ cần lắng nghe, quan sát và suy xét mọi việc một cách rõ ràng, đặc biệt là chia sẻ cùng con những cảm xúc của bản thân.
  17. 11 Thứ hai, GĐCN và giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI Theo Harold Meyerson với bài viết Workers also deserve to benefit from their labor productivity too (Công nhân cũng xứng đáng hưởng lợi ích từ năng suất lao động của họ) [122]. Dựa trên thực tế nước Mỹ hiện đại, tác giả đánh giá mức tăng lương, thu nhập của người công nhân không xứng đáng với năng suất lao động mà họ tạo ra, đời sống của một bộ phận GĐCN này không đảm bảo ở mức trung bình của xã hội. Số liệu chứng minh trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 2011, năng suất tăng 75% nhưng tiền lương trung bình của công nhân tăng 5%. Trong khi đó, tiền lương của giới CEO (thuật ngữ chỉ các nhà quản lý tại doanh nghiệp như tổng giám đốc, giám đốc) lại tăng rất nhanh (93,7%). Dự luật Hollen yêu cầu, mức lương của công nhân sẽ được tăng tương xướng với mức năng suất họ tạo ra, từ đó sẽ nâng cao mức sống của bản thân công nhân và gia đình họ. Tuy nhiên, các tác giả dự kiến dự luật này đưa ra sẽ gặp phải những phản ứng từ giới CEO, phố Wall, cũng là thử thách lớn đối với ứng viên tổng thống đảng Dân chủ năm 2016. Daniel S.Hamermesh, Daiji Kawaguchi, Jungmin Lee là tác giả của bài viết Does labour legislation benefit Workers? Well - being after an hours reducation (Người công nhân đang làm việc quá vất vả? Họ sẽ cảm thấy tốt hơn nếu cân bằng được số lượng giờ lao động) [119]. Qua kiểm tra thực tế thời gian, cường độ làm việc, sự hài lòng về cuộc sống của người công nhân tại Hàn Quốc và Nhật Bản trong một giai đoạn theo phương pháp nghiên cứu mặt cắt ngang, bài viết khẳng định, công nhân đang làm việc quá vất vả, áp lực công việc khiến họ tự triệt tiêu những sở thích cá nhân, bị căng thẳng thần kinh trong thời gian dài. Họ không còn thời gian để dành cho bản thân và các hoạt động cá nhân như: xem phim, tụ tập bạn bè và hẹn hò với người yêu…nhiều công nhân không thể kết hôn, hoặc không dám kết hôn và sinh con. Nhóm tác giả đề xuất, việc luật hóa để giảm giờ làm của công nhân sẽ mang lại sự hài lòng và nhiều lợi ích. Công nhân có cơ hội hưởng thụ đời sống vật chất và tinh thần, có cơ hội tìm kiếm bạn đời; các mối quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái sẽ tích cực hơn; có thời gian để chăm sóc, giáo dục con đạt hiệu quả hơn.
  18. 12 N.Driffeld và K.Taylor đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình trong bài viết FDI and the labour market: a review of the evidence anh police implicatins (FDI và thị trường lao động: đánh giá các bằng chứng và gợi ý chính sách) [120]. Qua nghiên cứu tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ở Anh cho thấy, có sự bất bình đẳng về tiền lương, chênh lệch về mức sống của lao động có tay nghề cao và lao động không có trình độ chuyên môn tại các DN FDI. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này: (1) nhu cầu về công nhân lành nghề trong một ngành công nghiệp hoặc khu vực ngày càng tăng do sự gia nhập của doanh nghiệp đa quốc gia tăng, dẫn đến sự chênh lệch về tiền lương giữa các khu vực và ngành công nghiệp; (2) sự phát triển của công nghệ xảy ra từ nước ngoài tác động tới doanh nghiệp trong nước, là kết quả của những tác động lan tỏa, nhu cầu về công nhân lành nghề tăng lên ở các công ty trong nước, tiếp tục tạo thêm sự bất bình đẳng tiền lương. Sự bất bình đẳng về tiền lương dẫn đến sự phân hóa trong mức sống của bản thân người công nhân, cũng như gia đình họ. Những công nhân không có trình độ tay nghề có mức thu nhập thấp và đời sống gia đình họ gặp khó khăn, cản trở việc thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình như: chức năng sinh sản, chức năng giáo dục trẻ em... Behzad Azahoushang với bài viết The effects of FDI on Chinas economic development; case of Volkswagen in China (Ảnh hưởng của FDI đối với phát triển kinh tế của Trung Quốc; Trường hợp Volkswagen ở Trung Quốc) [118]. Bài viết khái quát tình hình thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc, đánh giá mức sống của công nhân tại các DN FDI, lấy điển hình nghiên cứu là doanh nghiệp ô tô Volkswagen. Nghiên cứu chỉ ra sự mất cân đối về mức sống của các GĐCN thuộc 3 nhóm: công nhân lành nghề, công nhân bán chuyên và công nhân không có tay nghề. Đa phần GĐCN bán chuyên hoặc không có tay nghề đời sống rất khó khăn do thu nhập thấp, không có nhà ở ổn định, các chính sách xã hội hạn chế, không có điều kiện (thời gian và tài chính) để chăm sóc, giáo dục trẻ em. Còn GĐCN lành nghề thì
  19. 13 có mức sống cao hơn, có điều kiện thực hiện tốt hơn các chức năng cơ bản của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục trẻ em. Nguyễn Từ Phương là tác giả của bài viết Reforming labour relations in Vietnam (Cải cách quan hệ lao động ở Việt Nam) [124]. Bài viết đánh giá cao việc thành lập Ủy ban Quan hệ lao động của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, điều này phản ánh một quá trình liên tục của cải cách pháp luật và quy định giải quyết tranh chấp lao động chủ yếu dưới dạng các cuộc đình công của người lao động ở Việt Nam. Bài viết cho thấy sự thay đổi tích cực trong quan hệ lao động ở Việt Nam thời gian gần đây, nhờ sự can thiệp của Nhà nước. Qua những công trình nghiên cứu trên của các tác giả nước ngoài đã cho thấy hậu quả của sự bất bình đẳng về thu nhập, công nhân có thu nhập quá thấp, không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường tiêu dùng, lại không có hỗ trợ về nhà ở, phương tiện đi lại, từ đó khiến công nhân tự triệt tiêu đi một số nhu cầu của bản thân, trong đó có cả việc kết hôn, sinh con, làm giảm hiệu quả thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình như chăm sóc, giáo dục con. Nhiều trường hợp GĐCN trong các DN FDI không có điều kiện về tài chính và thời gian để đầu tư cho giáo dục con, việc giáo dục trẻ đang bị “lới lỏng”, để giải quyết được cần sự điều tiết, can thiệp của Nhà nước, cơ quan chức năng liên quan và các tổ chức chính trị xã hội. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về gia đình, giáo dục của gia đình đối với trẻ em Gia đình và giáo dục của gia đình đối với trẻ em là chủ đề được các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm, số lượng các công trình nghiên cứu về các chủ đề này lớn và trong điều kiện của luận án, tác giả đề cập một số công trình tiêu biểu. Nguyễn Hữu Minh với bài viết Gia đình Việt Nam sau 30 năm đổi mới [72]. Sau gần 30 năm đổi mới, cùng với những chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội, đời sống gia đình Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm, cụ thể: công tác quản lý nhà nước về gia đình mới được
  20. 14 thực hiện chính thức và còn gặp nhiều khó khăn; đội ngũ cán bộ có kỹ năng và kinh nghiệm chuyên trách về công tác gia đình ở cấp cơ sở còn thiếu; cơ chế phối hợp triển khai thực hiện chính sách gia đình chưa đồng bộ; các nguồn dữ liệu về gia đình đến nay mới bắt đầu tập hợp và xây dựng; kinh phí cho việc triển khai thực hiện nhiều chính sách còn thiếu; mối quan hệ giới trong gia đình chưa thực sự bình đẳng; bạo lực gia đình còn nghiêm trọng trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với vợ; sự bảo lưu xu hướng ưa thích con trai hơn con gái; việc thiếu vắng sự chăm sóc, giáo dục của các bậc cha mẹ đối với con cái; xu hướng già hóa dân cư đang diễn ra nhanh. Kết hợp giá trị trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay của Hà Thùy Dương, Nguyễn Tiến Như [30]. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại là một nguyên tắc trong giải quyết các công việc, trong đó có vấn đề xây dựng gia đình. Tuy nhiên, những xung đột thế hệ bắt nguồn từ xung đột hệ giá trị giữa truyền thống và hiện đại thời gian qua cho thấy, cần phải có những định hướng cụ thể để tạo ra sự hài hòa, cân bằng giữa các giá trị, từ đó thúc đẩy xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh. Một số phương hướng kết hợp giá trị trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay gồm: phải hiện đại hóa các giá trị truyền thống; phải truyền thống hóa các giá trị tiên tiến, hiện đại; kết hợp giữa xây và chống, xóa bỏ những điểm tiêu cực của gia đình truyền thống gắn liền với việc tuyên truyền, hình thành các giá trị tiên tiến của gia đình. Văn hóa gia đình Việt Nam trong thời đại hiện nay là đề tài cấp Bộ do Trần Đức Ngôn làm chủ nhiệm [74]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều gia đình Việt Nam hiện nay vừa giữ được những nét đẹp của gia đình truyền thống vừa tiếp thu những giá trị tiên tiến của gia đình thời đại mới. Gia đình vẫn là một thiết chế không thể thay thế trong việc giáo dục con cái về lối sống, cách đối nhân xử thế, đạo làm người. Cùng với những giá trị truyền thống tốt đẹp, nhiều giá trị tiến bộ cũng đã thâm nhập vào các gia đình Việt Nam. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đã dân chủ, bình đẳng hơn, con cái được quyền tự do quyết định nhiều việc lớn liên quan đến cuộc đời mình như lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn bạn đời...tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng được
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2