intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Hồ Chính Minh học: Xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:162

69
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm vận dụng vào việc xây dựng đội ngũ giáo viên Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Hồ Chính Minh học: Xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐINH QUANG THÀNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2018
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐINH QUANG THÀNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG 2. TS. VĂN THỊ THANH MAI HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Đinh Quang Thành
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7 1.1. Những nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ giáo viên 7 1.2. Những nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên 15 1.3. Đánh giá khái quát kết quả của những công trình đã công bố và vấn đề đặt ra cho luận án 29 Chƣơng 2 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN 34 2.1. Khái niệm liên quan đến đề tài và khái lược tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục 34 2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên 54 Chƣơng 3 XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN GIAI ĐOẠN 2000 - 2015 85 3.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ giáo viên giai đoạn 2000-2015 85 3.2. Đặc điểm, yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên hiện nay 103 Chƣơng 4 BỐI CẢNH, NỘI DUNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 112 4.1. Bối cảnh, nội dung xây dựng đội ngũ giáo viên 112 4.2. Giải pháp xây dựng đội ngũ giáo viên 119 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đại hội đồng UNESCO công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất Việt Nam. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát triển giáo dục - đào tạo và chính Người đã đặt nền móng cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã đề ra một hệ thống luận điểm về giáo dục; bao gồm một hệ thống tương đối hoàn chỉnh về khái niệm, vị trí, vai trò, mục đích, nội dung, đối tượng, môi trường, nguyên tắc, phương châm, phương pháp và đặc biệt là quan điểm về xây dựng đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nhân loại đang ở giữa thập niên thứ hai của thế kỷ XXI - thế kỷ bùng nổ thông tin khoa học và sự ra đời của hàng loạt các sáng tạo công nghệ mới… Đây cũng là thế kỷ của xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập cùng xu thế chung của thế giới. Hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội lớn cho sự phát triển của đất nước, nhưng đồng thời cũng mang đến những thách thức không nhỏ; trong đó, có những thách thức đối với giáo dục - đào tạo. Từ hội nhập quốc tế, chúng ta thấy, chất lượng giáo dục - đào tạo đang đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Theo đó, những quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới là những quốc gia sớm nhận thức được vai trò tối quan trọng của giáo dục, có hành động, phù hợp để giáo dục - đào tạo phát triển đi trước một bước. Quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế cũng đặt giáo dục Việt Nam trong bức tranh chung của giáo dục các nước trên thế giới; từ đó, giáo dục Việt Nam đã nhận ra những ưu điểm và hạn chế của mình, đồng thời có điều kiện tốt hơn để học tập các mô hình giáo dục đến từ các chế độ chính trị, các châu lục khác nhau. Việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục nước ta phải đổi mới. Thực chất cạnh tranh giữa các quốc
  6. 2 gia hiện nay chính là sự cạnh tranh về nguồn nhân lực và khoa học và công nghệ. Xu thế chung của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI là tiến hành đổi mới mạnh m hoặc tiến hành cải cách giáo dục. Như vậy, sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã đặt ra những thách thức đối với giáo dục của Việt Nam. Vì vậy, xây dựng đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu cầu phát triển của giáo dục đã trở thành nhu cầu tất yếu. Đến nay, ngành giáo dục Việt Nam đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo các cấp có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị, tương đối đồng bộ về cơ cấu, đủ về số lượng, có trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ tốt, đáp ứng được yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của ngành. Các nhà trường bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ động và tích cực của người học; giáo viên đã chủ động trong việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy và quản lý, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là chất lượng nhà giáo không đồng đều giữa các vùng miền. Ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, những nơi khó khăn, vẫn còn thiếu đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm tốt. Ở nhiều nơi, giáo viên chưa thật sự đổi mới hiệu quả phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá và giáo dục học sinh, chưa biết cách tạo động lực và phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI - Nghị quyết số: 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã chỉ rõ thực trạng: “Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, vi phạm đạo đức nghề nghiệp” [31, tr.117]; thậm chí đã có những trường hợp vi phạm pháp luật. Sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo đang đặt lên vai đội ngũ nhà giáo Việt Nam những yêu cầu mới với trách nhiệm lớn hơn trong dạy học và giáo dục. Mỗi thầy giáo, cô giáo theo yêu cầu đổi mới của ngành không những là
  7. 3 người phải giỏi về chuyên môn dạy các môn học mà còn phải là người có năng lực sư phạm, năng lực giáo dục và truyền động lực học tập, tu dưỡng nhân cách đạo đức tới mỗi học sinh. Bên cạnh đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, mỗi thầy giáo, cô giáo cũng cần có năng lực huy động và phối hợp, hợp tác rộng rãi hơn với đồng nghiệp, với cha mẹ học sinh, cộng đồng và các tổ chức xã hội để cùng tham gia hiệu quả vào các hoạt động giáo dục. Không chỉ dừng ở đó, mỗi thầy cô giáo còn phải có trách nhiệm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và tham gia rộng rãi các hoạt động ngoài nhà trường. Như vậy, việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới đã được ngành giáo dục - đào tạo xác định là nhiệm vụ quan trọng, là khâu then chốt trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo yêu cầu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có năng lực giáo dục, gương mẫu về đạo đức nhà giáo và trách nhiệm nghề nghiệp. Hiện nay, ngành giáo dục đang triển khai đổi mới mạnh m mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, do đó, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên càng được khẳng định. Trước thực trạng đó, việc xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo là việc làm cấp bách, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Với những lý do đó, tôi chọn vấn đề: "Xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm vận dụng vào việc xây dựng đội ngũ giáo viên Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu đã nêu trên, đề tài s giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của những công trình đã nghiên cứu và chỉ những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
  8. 4 - Phân tích, hệ thống hóa khái niệm và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên. - Làm rõ thực trạng đội ngũ giáo viên nước ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó. - Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên và thực trạng đội ngũ giáo viên, tác giả đề xuất nội dung, giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên và xây dựng đội ngũ giáo viên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Từ khái lược tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên, làm cơ sở cho việc nghiên cứu xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới. Cụ thể là đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên giai đoạn 2000-2015; từ đó nêu nội dung, giải pháp xây dựng đội ngũ giáo viên từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. - Về không gian: Luận án nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên, khảo sát thực trạng xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non và phổ thông trên tất cả các mặt (không bao gồm đội ngũ giáo viên ở Trung tâm giáo dục thường xuyên). - Về thời gian: Đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên từ sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khóa VIII đến năm 2015. Nội dung, giải pháp tiếp tục xây dựng đội ngũ giáo viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định từ năm 2016 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục - đào tạo.
  9. 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, văn bản học, đọc, hệ thống hóa, khái quát hóa các giáo trình, tác phẩm kinh điển và các công trình nghiên cứu có liên quan. Sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát; phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia; phương pháp toán học,v.v.. để tổng hợp ý kiến, xử lý số liệu, tạo ra căn cứ để tác giả luận án đưa ra những nhận định, phân tích, đánh giá khách quan, khoa học. 5. Đóng góp mới của luận án Thứ nhất, nghiên cứu, làm rõ các khái niệm liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên. Thứ hai, phân tích, hệ thống hóa, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên, góp phần nhận thức sâu sắc và vận dụng tốt hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Thứ ba, phân tích thực trạng đội ngũ giáo viên nước ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó. Thứ tư, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên và thực trạng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới, luận án đề xuất những nội dung và giải pháp khoa học, khả thi, nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng kinh tế tri thức. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận - Đề tài góp phần làm rõ khái niệm, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên. - Xác định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên đối với công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta nói chung và xây dựng đội ngũ giáo viên nói riêng trong thời kỳ đổi mới.
  10. 6 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, các học viện. - Các giải pháp của đề tài có thể xem là các gợi ý để các cơ sở giáo dục vận dụng xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên. - Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung cơ sở dữ liệu cho các cơ quan tham mưu, nghiên cứu khi chuẩn bị xây dựng các nghị quyết, chuyên đề, đề án về giáo dục, liên quan đến giáo dục. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
  11. 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Xây dựng đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục được các nước trên thế giới đặt lên hàng đầu; là một trong những nội dung cơ bản trong các cuộc cải cách giáo dục, chấn hưng, phát triển đất nước . Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên khi bàn về giáo dục - đào tạo. Lênin trong tác phẩm Bàn về giáo dục đã có nhiều luận điểm nói về đội ngũ giáo viên. Lênin đặt ra yêu cầu phải: “Nâng cao một cách có hệ thống, kiên nhẫn, liên tục trình độ và tinh thần của đội ngũ giáo viên nhưng điều chủ yếu, chủ yếu và chủ yếu là cải thiện đời sống vật chất cho họ”[102, tr241]. Theo tác giả Lê Trung Chinh [23], nghiên cứu về xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên thường được chia làm bốn hướng chính : Thứ nhất, nghiên cứu các mô hình và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển nghề nghiệp giáo viên. Thứ hai, nghiên cứu các hoạt động hỗ trợ thực tiễn để phát triển nghề nghiệp giáo viên. Thứ ba, nghiên cứu cải tiến các kỹ năng và tăng cường hiểu biết nghề nghiệp cho giáo viên. Xu hướng này đang được các quốc gia trong khối APEC triển khai thực hiện đào tạo giáo viên. Các quốc gia ở châu Á-Thái Bình Dương cũng coi đào tạo và bồi dưỡng giáo viên là một trong những khâu then chốt để phát triển giáo dục, kinh tế ở các nước này. Các nước này rất coi trọng nâng cao nghề nghiệp liên tục cho giáo viên. Thứ tư, nghiên cứu phát triển nghề nghiệp cho giáo viên như là một yêu cầu của tiến trình cải cách giáo dục. 1.1.1. Nghiên cứu về đào tạo, bồi dƣỡng và chuẩn nghề nghiệp giáo viên 1.1.1.1.Về đào tạo, bồi dưỡng Trong nghiên cứu của mình về đào tạo giáo viên, Michel Develay - nhà giáo dục của Pháp đã bắt đầu từ lý luận về học đến lý luận về dạy để nghiên cứu về giáo viên. Theo ông: “Đào tạo mà không làm cho họ có trình độ cao về năng lực tương ứng không chỉ với các sự kiện, khái niệm, định luật, định lý, hệ biến hóa của môn học đó, mà còn cả với khoa học luận của chúng là không thể được” [23, tr.12].
  12. 8 Ngoài ra, trong tác phẩm này, ông còn đề cập đến nội dung, cách thức đào tạo, tính chất và bản sắc nghề nghiệp của giáo viên... Công trình nghiên cứu chung của các nước thành viên OECD đưa ra các yêu cầu của một giáo viên bao gồm: kiến thức phong phú về phạm vi chương trình và phạm vi bộ môn mình dạy; kỹ năng sư phạm; có tư duy phản ánh, năng lực tự phê bình; biết cảm thông và cam kết tôn trọng phẩm giá của người khác; có năng lực quản lý. Tại Hội thảo Khoa học “Nâng cao chất lượng giáo dục và vấn đề đào tạo giáo viên”, nhiều tham luận của các tác giả như: Trần Bá Hoành, Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Bá Lãm, Đặng Xuân Hải… đã đề cập thực trạng chất lượng giáo dục, đội ngũ nhà giáo và tính tất yếu phải đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giáo viên trước yêu cầu mới [100]. Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài: “Đánh giá thực trạng triển khai chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên phổ thông” do tác giả Cao Đức Tiến làm chủ nhiệm đề tài cho rằng, việc bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ đã góp phần tạo ra được một thói quen tự học tập, tự bồi dưỡng trong đội ngũ giáo viên trên phạm vi cả nước. Nhu cầu được bồi dưỡng thường xuyên (đào tạo tiếp sau đào tạo ban đầu) đã trở thành nhu cầu tự thân, ý thức tự giác trong mỗi giáo viên, nhằm cập nhật hoá kiến thức, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Báo cáo “Nghiên cứu đánh giá thực trạng đội ngũ nhà giáo Việt Nam” do Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục tiến hành đã đề cập số lượng, chất lượng giáo viên, thực hiện chế độ chính sách đối với giáo viên, từ đó đưa ra giải pháp trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Tác giả Trần Bá Hoành[52] trong bài viết “Chất lượng giáo viên” đã đưa ra cách tiếp cận chất lượng giáo viên từ các khía cạnh như đặc điểm lao động của người giáo viên; sự thay đổi chức năng của người giáo viên trước yêu cầu đổi mới giáo dục; mục tiêu sử dụng giáo viên; chất lượng từng giáo viên và đội ngũ giáo viên. Theo tác giả, có 3 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo viên, đó là: quá trình đào tạo - sử dụng - bồi dưỡng giáo viên; hoàn cảnh, điều kiện lao động sư phạm của giáo viên; ý chí thói quen và năng lực tự học của giáo viên. Đồng
  13. 9 thời, cũng đưa ra 3 giải pháp cho vấn đề nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ giáo viên, cụ thể là: phải đổi mới công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng và đổi mới việc sử dụng giáo viên. Trong bài viết: “Đổi mới mô hình đào tạo giáo viên trong các trường đại học sư phạm theo hướng tiếp cận năng lực”, nhóm tác giả Bùi Minh Đức, Đào Thị Việt Anh, Hoàng Thị Kim Huyền [25] đã nêu ra mô hình đào tạo giáo viên ở các nước có nền giáo dục tiên tiến. Cùng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận năng lực, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên cũng được cải tiến, điều chỉnh, thậm chí đổi mới toàn bộ theo chủ trương hình thành và phát triển các năng lực nghề nghiệp cho giáo viên. Các tác giả cũng đề xuất giải pháp đổi mới việc đào tạo giáo viên như sau: Thứ nhất, các trường sư phạm đào tạo giáo viên cần đổi mới chương trình theo hướng tiếp cận năng lực. Thứ hai, chương trình đào tạo giáo viên, trước hết cần xác định được hệ thống các năng lực chung - những năng lực mà sinh viên của các ngành cần phải có những năng lực riêng (năng lực môn học) cho sinh viên các ngành cụ thể. Thứ ba, đội ngũ giảng viên phải có những năng lực cần thiết và nhất là phải giỏi những năng lực môn học cụ thể, thay đổi nhận thức, kỹ năng, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Thứ tư, công tác quản lý, tổ chức đào tạo của các bộ phận chức năng trong trường cũng phải thay đổi theo hướng tiếp cận năng lực học sinh. Trong chương trình đào tạo sau đại học, chuyên ngành quản lý giáo dục, vấn đề đội ngũ giáo viên cũng được chú trọng nghiên cứu, đã trở thành đề tài của nhiều luận văn, luận án; nhất là đề tài nghiên cứu về xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở các cấp học, ngành học của các tác giả Vũ Đình Chuẩn, Nguyễn Công Chánh,v.v.. 1.1.1.2.Về chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tại các quốc gia tiên tiến trên thế giới, vấn đề chuẩn nghề nghiệp của giáo viên rất được quan tâm. Đây là nội dung mà các trường sư phạm phải tập trung đào tạo và mỗi giáo viên phải phấn đấu hoàn thiện.
  14. 10 Theo tác giả Lê Trung Chinh [23] thì chuẩn nghề nghiệp của giáo viên tại các bang của nước Mỹ được xây dựng nhằm mục đích làm cho giáo viên nâng cao kiến thức của nội dung môn học; cải thiện sự hiểu biết về học thuật, xã hội, tinh thần và vật chất, bảo đảm thầy giáo tận dụng được các kỹ năng dạy học để giúp học sinh đạt được và vượt qua môn học; phản ánh đầy đủ và sáng tỏ những kiến thức cần thiết có liên quan về những bài học và kinh nghiệm nghề nghiệp, tạo đồng thuận về chính kiến nghề nghiệp, dạy học và lãnh đạo; khuyến khích thầy giáo phát triển sự đa dạng của lớp học nhờ các kỹ năng đánh giá; cung cấp những bài học mới có tính tích hợp vào trong chương trình và trong lớp học; trang bị cho học sinh đủ kiến thức để học tập và phát triển; đánh giá định kỳ để tạo ra tác động của nó đối với hoạt động dạy và học; nhà giáo cần phải nắm được, tận dụng và hỗ trợ phát triển các mối quan hệ cộng đồng rõ ràng, gắn bó, có kế hoạch; phát triển văn hóa trường học để giúp cho việc thực hiện liên tục, xử lý các thách thức về vai trò và các quan hệ truyền thống trong giáo dục; có kế hoạch phát triển nghề nghiệp bao gồm cả sự xem xét về trí tuệ và tài chính; bố trí đủ thời gian trong số các giờ làm việc để thu hút sự tham vấn ý kiến của người học nhằm hỗ trợ cho sự phát triển nghề nghiệp; làm việc có hiệu quả với cha mẹ học sinh và cộng sự. Giáo viên của Đức phải đạt được 10 năng lực nghề nghiệp thuộc 4 nhóm: Năng lực dạy học là xây dựng kế hoạch bài học, hỗ trợ việc học của học sinh; năng lực giáo dục - nghĩa hẹp là hiểu được các điều kiện sống của học sinh, truyền đạt các giá trị và chuẩn mực; năng lực đánh giá; và năng lực đổi mới. Quy định về tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Anh rất cụ thể, đó là: Thiết lập những kinh nghiệm học tập linh động và sáng tạo cho các cá nhân và các nhóm; đóng góp vào việc phát triển ngôn ngữ, khả năng đọc viết và toán; xây dựng những kinh nghiệm học tập mang tính thử thách về mặt trí tuệ; xây dựng những kinh nghiệm học tập phù hợp, có mối liên kết với thế giới bên ngoài trường học; xây dựng những kinh nghiệm học tập mang tính tổng quát và có sự tham gia; kết hợp công nghệ thông tin và liên lạc để tăng hiệu quả việc học tập của học sinh; đánh giá và báo cáo việc học tập của học sinh; hỗ trợ việc phát triển và tham gia xã hội của thanh niên; tạo ra môi trường học tập an toàn và mang tính hỗ trợ; xây dựng
  15. 11 những mối quan hệ với cộng đồng rộng lớn hơn; đóng góp vào những nhóm nghề; tham gia thực hiện những hoạt động của nghề giáo. Công trình nghiên cứu chung của các nước thành viên OECD đã chỉ ra yêu cầu đối với một giáo viên cần có các phẩm chất: Kiến thức phong phú về phạm vi chương trình và nội dung bộ môn mình dạy; kỹ năng sư phạm, kể cả việc có được “kho kiến thức” về phương pháp giảng dạy, về năng lực sử dụng những phương pháp đó; có tư duy phản ánh trước mỗi vấn đề và có năng lực tự phê bình; biết cảm thông và cam kết tôn trọng phẩm giá của người khác; có năng lực quản lý, kể cả trách nhiệm quản lý trong và ngoài lớp học [58]. Hội thảo nghiên cứu về “Chuẩn và chuẩn hóa trong giáo dục - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức tại Hà Nội năm 2005, đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà giáo dục như Đặng Thành Hưng, Nguyễn Bá Thái, Nguyễn Thị Minh Hương… Trong các tham luận của mình, các tác giả cũng đã bàn luận nhiều đến nội dung chuẩn nghề nghiệp giáo viên để xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên.[104] 1.1.2. Nghiên cứu về chế độ, chính sách đối với giáo viên Đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo bàn về các chế độ, chính sách, lương giáo viên, xem đây như là một động lực để giáo viên tích cực nâng cao năng lực, tinh thần và trách nhiệm của mình. Kết quả nghiên cứu của Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông” do bà Nguyễn Thị Bình (Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam) làm chủ nhiệm [12] đã nêu lên thực trạng tác động của chế độ, chính sách đối với giáo viên nước ta: từ các chính sách về tuyển chọn, chế độ làm việc, tiền lương và phụ cấp đến chính sách khen thưởng và tôn vinh. Đây là công trình nghiên cứu có sự phân tích rõ ràng, khoa học, số liệu cụ thể, có so sánh với chế độ, chính sách đối với giáo viên của các nước. Đồng thời, tác giả cũng đã đề xuất giải pháp sửa đổi chế độ, chính sách đối với nhà giáo nói chung và giáo viên nói riêng. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc [59] đã nhấn mạnh đến vấn đề “lý tưởng sư phạm”- cái tạo nên động cơ cho việc giảng dạy của giáo viên, khuyến khích giáo
  16. 12 viên sáng tạo, không ngừng tự học, học hỏi, nâng cao trình độ. Trong đó, tác giả đề xuất việc cần phải xây dựng tập thể sư phạm theo mô hình “đồng thuận”, để trong quan hệ giữa giáo viên với nhau có sự chia sẻ “bí quyết nhà nghề”. Theo đó, năng lực chuyên môn của giáo viên là nền tảng của mô hình đào tạo giáo viên thế kỷ XXI: sáng tạo và hiệu quả. Trong bài viết “Chất lượng giáo viên và những chính sách cải thiện chất lượng giáo viên”, tác giả Trần Thanh Hoàn [55] đã đưa ra khái niệm chất lượng giáo viên bằng cách phân tích kết quả nghiên cứu về chất lượng của các nước thành viên OECD. Theo đó, đặc điểm và năng lực đặc trưng của giáo viên thể hiện qua sự phân tích 22 năng lực cụ thể, trên góc độ tiếp cận năng lực giảng dạy và giáo dục. Đồng thời, tác giả cũng đã đề cập những chính sách cải thiện và duy trì chất lượng giáo viên ở cấp vĩ mô và vi mô; nhấn mạnh 3 yếu tố quyết định chất lượng giáo viên, đó là bản thân người giáo viên, nhà trường và môi trường chính sách bên ngoài. 1.1.3. Nghiên cứu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo Một trong những nội dung quan trọng nhất của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay là phải nhanh chóng xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu của giáo dục - đào tạo trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu bàn đến trong các nghiên cứu của mình. Tác giả Phan Văn Kha [56] đã viết: Ngày 13/6/2012, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”. Chiến lược đã xác định rõ mục tiêu, giải pháp và các bước đi của nền giáo Việt Nam nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Tư tưởng xuyên suốt của chiến lược này là ưu tiên nâng cao chất lượng giáo dục; giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục; người học là tâm điểm của chiến lược, hướng tới phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của mỗi người học; đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục, tạo cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, góp phần từng bước xây dựng xã hội học tập; phát triển giáo dục đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
  17. 13 Nguyễn Duy Bắc [11] trong bài viết “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, đã chỉ ra tính tất yếu của đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đã được Đảng ta quán triệt trong Nghị quyết Đại hội XI. Bài viết cũng khẳng định nội hàm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục bao gồm đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và xây dựng đội ngũ giáo viên,v.v.. đồng thời cũng chỉ ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Phan Văn Kha [57] trong bài viết “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI”, đã trình bày những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI - Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, nêu rõ các vấn đề như: Những thành tựu và nguyên nhân; các định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo; quan điểm chỉ đạo; mục tiêu; nhiệm vụ; các giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo; các hình thức tổ chức thực hiện trong giáo dục - đào tạo... Tác giả Nguyễn Tiến Hùng [54] đã trình bày một số căn cứ đổi mới giáo dục và quản lý giáo dục ở nước ta. Đó là ba làn sóng đổi mới giáo dục trên thế giới; đề xuất các giải pháp thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện quản lý giáo dục: Thứ nhất, đổi mới căn bản và toàn diện cấu trúc tổ chức và cơ chế quản lý giáo dục theo định hướng phân cấp góp phần đảm bảo giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội. Thứ hai, phát triển cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục và chịu trách nhiệm xã hội. Thứ ba, phát triển hệ thống quản lý dựa vào cơ sở giáo dục; tăng cường cách tiếp cận dưới - lên. Thứ tư, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục,v.v.. trong nghiên cứu về “Đổi mới căn bản và toàn diện quản lý giáo dục Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế”. Cuốn sách “Định hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo Việt Nam” do Phạm Văn Linh [62] chủ biên có bàn nhiều về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo. Cuốn sách tập trung
  18. 14 nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước trong thực hiện cải cách giáo dục, đặc biệt là làm rõ những xu hướng lớn, các mô hình hay trong việc chuyển đổi từ nền giáo dục với triết lý truyền thống sang nền giáo dục theo xu hướng hiện đại của thế kỷ XXI; phân tích nội dung, một số quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo; tiếp tục làm rõ định hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” đối với giáo dục Việt Nam; phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI, tiếp cận đánh giá từ nhiều nguồn khác nhau và chỉ rõ nguyên nhân, hạn chế; đề xuất các khâu đột phá để thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà. Trong đó, cũng chỉ rõ việc xây dựng đội ngũ giáo viên là yêu cầu tất yếu khách quan và là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới giáo dục. Khi bàn về xây dựng đội ngũ giáo viên, tác giả Phạm Văn Linh viết: “Cải cách đội ngũ giáo viên là điều kiện tiên quyết để tổ chức thực hiện chương trình giáo dục đã cải cách. Vai trò của giáo viên với tư cách là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đã được khẳng định không phải chỉ bằng lý luận chung mà bằng các công trình nghiên cứu khoa học cụ thể [62, tr.67-68]. Theo đó, chính phẩm chất và năng lực của đội ngũ giáo viên đã tạo nên sự khác biệt về kết quả giáo dục giữa trường này với trường khác. Trong cải cách giáo dục, chính giáo viên là người đưa các yêu cầu của chương trình giáo dục mới vào đời sống học đường và hơn thế nữa gánh nặng trong cải cách giáo dục đã đặt lên vai đội ngũ nhà giáo. Từ đó, tác giả khẳng định rằng: Việc xây dựng đội ngũ giáo viên cần nhiều thời gian và phải có biện pháp khoa học và phải kiên trì thực hiện các biện pháp đó. Mục tiêu cơ bản của cải cách đội ngũ giáo viên là xây dựng, phát triển đội ngũ các nhà giáo giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và yêu nghề. Muốn vậy phải có những thay đổi cơ bản trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ các nhà giáo. Các trường sư phạm phải đi đầu và đón đầu trong nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giáo viên theo chuẩn mới. Quan trọng là, các giáo viên đang tại chức phải nhận thức rằng, ngày nay người dạy cũng đồng thời là người học, để chủ động tự bồi dưỡng và tham gia các lớp bồi dưỡng theo yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục mới.
  19. 15 Theo đó, các cơ quan quản lý giáo dục có trách nhiệm tổ chức hiệu quả công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nhưng trên hết và trước hết, các cơ quan này phải có chính sách và giải pháp để thu hút học sinh giỏi vào các trường sư phạm, thu hút người giỏi vào nghề dạy học và giữ được họ trong nghề, phải tạo động lực cho nhà giáo được cống hiến. Các biện pháp đang được sử dụng ở các nước về cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau về liều lượng và mức độ. Đó chính là việc nâng cao vị thế xã hội của nhà giáo trong nhận thức xã hội và chính sách quốc gia; cải thiện chế độ lương, phụ cấp và khen thưởng theo hướng đãi ngộ xứng đáng người giỏi, động viên người trung bình, cho thôi việc hoặc chuyển việc những người kém; cải thiện điều kiện làm việc liên quan đến các quy định về giờ lên lớp, quy mô lớp học, tỷ lệ học sinh giáo viên, tài liệu và thiết bị dạy học. Mặc dù chưa đi sâu vào chi tiết, nhưng những phân tích, đánh giá trong cuốn sách này đã góp phần để tác giả đưa ra những gợi mở ban đầu, tìm ra những giải pháp thích hợp để xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời gian tới. Thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án đã nhận thấy: Thứ nhất, dù tiệm cận ở góc độ nào, thì đội ngũ giáo viên cũng luôn là một yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo. Thành công của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới bắt nguồn từ việc xây dựng được đội ngũ giáo viên có phẩm chất, đạo đức tốt, có năng lực sư phạm và chuyên môn nghiệp vụ cao. Thứ hai, những công trình trên chủ yếu mới tiếp cận vấn đề xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên dưới góc độ giáo dục học. Việc vận dụng vào thực tiễn xây dựng đội ngũ giáo viên Việt Nam trong thời kỳ đổi mới còn mờ nhạt và chưa có giải pháp tổng thể và đột phá để xây dựng đội ngũ giáo viên. Đây chính là những vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. 1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên nói riêng là đề tài được các nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Các nghiên cứu đó đã từng bước làm rõ giá trị và chứng minh sức sống mãnh liệt của tư tưởng đó trong thời đại ngày nay. Quá trình nghiên cứu tư tưởng
  20. 16 Hồ Chí Minh về đội ngũ giáo viên và xây dựng đội ngũ giáo viên đã được làm rõ ở các khía cạnh sau đây: 1.2.1. Nghiên cứu về vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên Thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu về các khái niệm có liên quan đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên. Việc nghiên cứu các khái niệm trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh là một nội dung khó, tốn nhiều công sức, trí tuệ của các nhà nghiên cứu. Cho đến nay, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Trong các công trình, các nhà nghiên cứu đã phân tích khái quát và đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Phan Ngọc Liên [61] trong công trình Hồ Chí Minh về giáo dục đã phân tích cơ sở, quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở những phân tích của mình, tác giả đã đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục như sau: Như đã xác định, tư tưởng Hồ Chí Minh là “hệ thống những quan điểm, quan niệm về con đường cách mạng Việt Nam được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin”. Cũng như các lĩnh vực khác của cách mạng Việt Nam, giáo dục cũng là đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh” [61, tr.15]. Do đó, việc xác định nội hàm khái niệm tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh được nhiều nhà nghiên cứu nêu lên, song chưa có sự nhất trí cao. Tuy nhiên cũng có thể nêu một số nội dung cơ bản đã có sự đồng thuận với nhau. Theo đó, “tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ nhân dân đến giáo dục xã hội chủ nghĩa [61, tr.15]. Với ý nghĩa đó, có thể hiểu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là một bộ phận trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm trên còn giản đơn, chưa làm rõ được cơ sở hình thành, nội dung và giá trị của tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Do đó chưa thấy rõ được những yếu tố quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó, đội ngũ giáo viên là một nhân tố trọng yếu. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên, trước hết, phải kể đến cuốn sách Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh [103]. Cuốn sách tổng hợp các báo cáo khoa học thuộc đề tài “Chủ tịch Hồ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
91=>1