intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ: Nghiên cứu nồng độ TNF, một số interleukin huyết thanh và mối liên quan với yếu tố nguy cơ, tổn thương động mạch vành ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp

Chia sẻ: Trần Văn Gan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:143

40
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án là nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, yếu tố nguy cơ, tổn thương động mạch vành, TNF-α, một số interleukin huyết thanh ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ TNF-α, một số interleukin huyết thanh với một số yếu tố nguy cơ tim mạch, đặc điểm tổn thương động mạch vành và biến đổi các interleukin 6, 8, 10, TNF-α sau giai đoạn nhồi máu cơ tim cấp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ: Nghiên cứu nồng độ TNF, một số interleukin huyết thanh và mối liên quan với yếu tố nguy cơ, tổn thương động mạch vành ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tim mạch đang là một vấn đề to lớn về sức khỏe, xã hội và kinh  tế. Đối với từng người thì bệnh tim mạch là rào cản lớn cho sự nghiệp, giảm   khả năng lao động, rút ngắn tuổi thọ. Những năm gần đây tỉ lệ mắc bệnh tim  mạch tăng lên đáng kể cùng với đó là tỉ lệ tử vong do bệnh tim mạch cũng gia   tăng.  Bệnh  lý  tim  mạch  mà  đặc biệt  là bệnh  lý  động  mạch  vành  (ĐMV)  vẫn  là  nguyên  nhân  gây  tử  vong  hàng  đầu  ở  các  nước  phát  triển,  dù  có  nhiều tiến bộ trong chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh [19].  Tại Việt Nam, bệnh lý động mạch vành nói chung và nhồi máu cơ  tim nói riêng ngày càng có sự gia tăng rõ rệt và đã trở thành vấn đề thời sự.  Theo Nguyễn Lân Việt và cộng sự  (2010), nghiên cứu mô hình bệnh tật  ở  bệnh nhân điều trị tại Viện Tim mạch Việt Nam trong thời gian từ 2003 ­   2007 cho thấy, bệnh lý động mạch vành có chiều hướng tăng lên rõ rệt   [18]. Y học  ngày  nay  ngoài  việc  cải  tiến  các  kỹ  thuật  chẩn  đoán  và  những phương pháp điều trị đạt hiệu quả hơn, còn nhằm tới việc khảo sát  và phân tầng các yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành. Năm 1976, Russell Ross nhận thấy chính tổn thương tế bào nội mô  và tình trạng viêm là  sự  khởi  đầu cho  sự  thành lập các mảng vữa xơ.  Nhiều công trình nghiên cứu mới cho thấy viêm có vai trò quan trọng trong sự  khởi đầu cũng như diễn tiến của mảng vữa xơ [105], [106], [117].  "Viêm đóng  một vai trò quan trọng trong bệnh động mạch vành  tim vì  những biến đổi do viêm phát triển trong vách động mạch" [105]. Nhận xét  trên đã làm tăng sự chú ý để khám phá mối liên hệ giữa bệnh  động  mạch  vành  và  những  dấu  hiệu  của  viêm,  gồm  có  C­reactive  protein,  fibrinogen, 
  2. 2 TNF­ , các interleukin trong huyết thanh và nhiều dấu hiệu mới. Một nhận  xét khác cho rằng, trong nhồi máu cơ tim cấp tính có thể làm tăng tổng hợp  các cytokin viêm, có thể làm nặng thêm các tổn thương cơ tim do tác động  trực tiếp trên cơ tim hoặc phản ứng viêm dẫn đến huyết khối. Tuy nhiên, còn nhiều câu hỏi về chúng như vai trò thực sự của chúng   trong bệnh động mạch vành, cùng giá trị lâm sàng để phát hiện những bệnh  nhân có nguy cơ tai biến tim mạch. TNF­ , interleukin  có trực tiếp gây nên  bệnh xơ vữa động mạch?. Các cytokin là yếu tố độc lập hay là yếu tố phụ  thuộc trong cơ chế  bệnh sinh của nhồi máu cơ  tim  ?. Sự  thay đổi nồng độ  TNF­ ,  interleukin và mức độ  TNF­ ,  interleukin  có phản ánh tổn thương  động mạch vành và tiên lượng tình trạng bệnh nhân nhồi máu cơ tim?. Tại   Việt   Nam,   đã   có   những   công   trình   nghiên   cứu   về   một   số  cytokin trên những bệnh nhân bệnh động mạch vành mạn tính, bỏng, viêm  tụy cấp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính... Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu  đầy đủ về một nhóm các cytokin ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim. Chúng tôi tiến hành đề  tài “Nghiên cứu nồng độ  TNF­ , một số  interleukin huyết thanh và mối liên quan với yếu tố nguy cơ, tổn thương   động mạch vành ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp” nhằm mục tiêu: 1.  Nghiên cứu  đặc  điểm lâm sàng, yếu tố  nguy cơ, tổn thương   động mạch vành, TNF­α , một số interleukin huyết thanh  ở bệnh nhân   nhồi máu cơ tim cấp. 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ  TNF­α , một số  interleukin   huyết thanh với một số yếu tố nguy cơ tim mạch, đặc điểm tổn thương   động mạch vành và biến đổi các interleukin 6, 8, 10, TNF­α  sau giai   đoạn nhồi máu cơ tim cấp.
  3. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. Nhồi máu cơ tim cấp 1.1.1. Đặc điểm giải phẫu động mạch vành Bình thường tim được nuôi dưỡng bởi hai động mạch vành ­ Động mạch vành trái: Thân chung động mạch vành trái (LM) bắt  nguồn từ lá có động mạch vành trái của van động mạch chủ. Từ thân chung  chia 2 nhánh chính: động mạch liên thất trước (LAD) và động mạch mũ  (LCx), một số trường hợp có nhánh trung gian [5], [15], [44], [95]. Theo AHA/ACC nhánh LAD chia làm 3 đoạn: đoạn gần, đoạn giữa  và đoạn xa.
  4. 4 Động mạch vành phải (RCA) Động mạch vành trái (LCA) Hình 1.1. Sơ lược giải phẫu động mạch vành  * Nguồn theo Paolo P. và cộng sự (2008) [95] ­ Động mạch vành phải (RCA) xuất phát từ lá van có động mạch  vành phải của van động mạch chủ, chạy theo rãnh nhĩ thất bên phải tới  chia thành các nhánh nhỏ, tới mỏm tim nối với nhánh của động mạch vành  trái [15], [95].  1.1.2. Cơ chế bệnh sinh của nhồi máu cơ tim Nhồi máu cơ  tim nằm trong bệnh cảnh của hội chứng động mạch  vành cấp (HCĐMVC) bao gồm đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ  tim có và không có đoạn ST chênh lên. Đau thắt ngực không ổn định là một   hội chứng trung gian giữa đau thắt ngực  ổn định và nhồi máu cơ  tim cấp.  Cơ chế bệnh sinh chính của HCĐMVC là mảng vữa xơ bị vỡ hay loét dẫn   đến cục máu đông được tạo lập làm nghẽn động mạch vành. Cơ  chế  nứt   vỡ  mảng vữa xơ  cho đến nay vẫn chưa rõ ràng. Có một số  nguyên nhân  khác không phải do mảng vữa xơ như thuyên tắc, bất thường bẩm sinh, co   thắt hay chấn thương động mạch vành  [15], [19].  Nhồi máu cơ  tim được hiểu là do sự  tắc nghẽn hoàn toàn một hoặc  nhiều nhánh động mạch vành gây thiếu máu cơ  tim đột ngột và hoại tử  vùng cơ  tim được tưới máu bởi nhánh động mạch vành đó. Thủ  phạm  ở  đây chính là mảng xơ vữa động mạch. Nhưng vấn đề  đặt ra là trong thực  tế  nếu mảng xơ  vữa cứ  phát triển âm thầm gây hẹp nhiều thậm chí tắc  hoàn toàn ĐMV theo thời gian cũng không gây ra triệu chứng của NMCT   cấp vì đã có sự thích nghi và phát triển của tuần hoàn bàng hệ. Cơ chế chủ  yếu của NMCT cấp là do sự không ổn định và nứt ra của mảng xơ vữa để  hình thành huyết khối gây lấp toàn bộ  lòng mạch. Nếu việc nứt ra này  không lớn và hình thành cục máu đông chưa gây lấp kín toàn bộ lòng mạch,  thì đó là cơn đau thắt ngực không ổn định trên lâm sàng [15], [20].
  5. 5 Huyết khối là một quá trình dẫn đến sự  hình thành cục máu đông  trong cơ thể. 3 yếu tố đóng vai trò xác định trong cơ chế bệnh sinh của nó: ­ Yếu tố thành mạch: sự không toàn vẹn của lớp nội mô ­ Yếu tố đông máu Máu tăng đông có thể  do tăng thời gian hình thành thromboplastine   ngoại sinh, do suy giảm cơ chế  ức chế, nhất là antithrombine, do rối loạn   fibrinogen.  ­ Yếu tố huyết động Tốc độ  tuần hoàn chậm là một yếu tố  chủ  yếu trong sự  hình thành   huyết khối [15]. 1.1.3. Các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch Khái niệm yếu tố  nguy cơ  của bệnh tim mạch xuất hiện đã lâu, từ  đó đến nay danh sách của chúng ngày càng được nối dài cùng với sự  hiểu   biết về bệnh tim mạch. Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là yếu tố  liên  quan với sự gia tăng khả năng mắc bệnh tim mạch. Các yếu tố nguy cơ của  bệnh tim mạch nói chung và bệnh động mạch vành nói riêng bao gồm hai   nhóm đó là: các yếu tố  nguy cơ  thay đổi được và yếu tố  nguy cơ  không  thay đổi được  [21],[20],[19],[138]. 1.1.3.1. Các yếu tố nguy cơ không thay đổi được * Tuổi Nguy cơ  mắc bệnh mạch vành tăng lên khi tuổi đời càng cao. Hơn  một nửa số người bị biến cố tim mạch và bốn phần năm số  người bị chết  do tim mạch có tuổi trên 65. Chúng ta không thể  giảm tuổi của mình, tuy   nhiên chế độ ăn uống luyện tập hợp lý sẽ làm chậm lại quá trình thoái hóa  do tuổi tác. * Giới
  6. 6 Đàn ông có nguy cơ  mắc bệnh mạch vành và các bệnh tim mạch  khác cao hơn nữ  giới, người ta vẫn chưa biết điều này là do hormon nam  giới ­androgen làm tăng hay hormon nữ giới ­ estrogen làm giảm nguy cơ xơ  vữa động mạch. Có giả  thuyết cho rằng, có sự bảo vệ của estrogen vì khi  phụ nữ ở tuổi mãn kinh thì nguy cơ  mắc bệnh tim mạch tăng lên đáng kể,   lúc này cơ thể người phụ nữ đã giảm tiết estrogen đáng kể. * Yếu tố di truyền Yếu tố  di truyền bao gồm trong gia  đình và cả  chủng tộc, nhiều  người có nguy cơ và mắc bệnh nhiều hơn người khác do yếu tố di truyền   từ  cha mẹ. Theo Thomas và Bohen thì người bị  bệnh động mạch vành có  tính chất gia đình nhiều hơn 4 lần số  người không có tính chất gia đình.  Nhiều tác giả  còn nói cụ  thể  hơn là vấn đề  di truyền trong nhồi máu cơ  tim. Tuy nhiên, vấn đề chưa được nhiều người công nhận. 1.1.3.2 Các yếu tố nguy cơ thay đổi được * Tăng huyết áp  Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ tim mạch thường gặp nhất và cũng  là yếu tố nguy cơ  được nghiên cứu đầy đủ  nhất. Có nhiều cách phân loại  tăng huyết áp. Nhìn chung tăng huyết áp được xác định nếu trị số huyết áp  luôn vượt quá 140/90 mmHg. Huyết áp tâm thu liên quan nguy cơ  đột quỵ  mạnh hơn liên quan với bệnh lý động mạch vành [7].  * Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu rất thường gặp và là yếu tố  nguy cơ  có thể  thay  đổi được quan trọng nhất của bệnh lý mạch vành. Các nghiên cứu cho  thấy, nồng độ  cholesterol toàn phần trong máu là yếu tố  dự  báo mạnh về  nguy cơ  mắc bệnh mạch vành và đột quỵ.  Nồng độ  cholesterol toàn phần  trong máu dưới 5,2mmol/l là bình thường, từ  5,2­6,2mmol/l là tăng giới hạn. 
  7. 7 Khi con số này vượt quá 6,2mmol/l nguy cơ đột quỵ tim mạch gấp 2 lần so với   mức dưới 5,2mmol/l [112]. Cholesterol   toàn   phần   bao   gồm   nhiều   dạng,   các   thành   phần   quan   trọng nhất là cholesterol trọng lượng phân tử  cao (HDL­C) và cholesterol   trọng lượng phân tử  thấp (LDL­C). Hàm lượng từng thành phần và tỉ  lệ  giữa chúng có giá trị  dự  báo nguy cơ  tim mạch hơn cholesterol toàn phần.   Nồng độ  LDL­C trên 3,4mmol/l là yếu tố  nguy cơ  cao, 3,4 ­ 4,1mmol/l là  mức tăng giới hạn. Ngược lại HDL­C được xem là yếu tố  bảo vệ. Hàm  lượng HDL­C trong máu càng cao thì nguy cơ  mắc bệnh tim mạch càng  thấp. Tỉ  lệ  giữa LDL­C với HDL­C lớn hơn 3,5­4:1 được xem là yếu tố  nguy cơ [112]. Nhiều nghiên cứu không chứng minh được vai trò độc lập của sự  tăng triglycerid làm tăng nguy cơ  mắc bệnh mạch vành. Tuy nhiên, các dữ  liệu gần đây cho thấy, triglycerid cũng có thể là một yếu tố dự báo nguy cơ  đặc biệt ở phụ nữ và những người mắc bệnh đái tháo đường. Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi tuổi, giới và di truyền nhưng tình trạng  rối loạn lipid máu vẫn thay đổi đáng kể khi thay đổi lối sống. Chế độ ăn ít   mỡ  bão hòa và cholesterol có thể  làm giảm lượng cholesterol máu xuống  khoảng   5%,   nguy   cơ   mắc   bệnh   mạch   vành   giảm   2%   khi   nồng   độ  cholesterol toàn phần trong máu giảm 1% [112]. * Hút thuốc lá  Hút thuốc lá là yếu tố  góp phần làm tăng nguy cơ  mắc bệnh mạch  vành, đột quỵ. 30­40% trong số 500.000 trường hợp chết hàng năm vì bệnh   mạch vành có nguyên nhân từ  thuốc lá. Nghiên cứu Framingham chứng  minh rằng, nguy cơ  đột tử  cao hơn 10 lần  ở  nam và 5 lần  ở  nữ  có hút   thuốc. Tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh sẽ giảm ngay sau khi người hút thuốc   lá bỏ thuốc [28], [134].
  8. 8 * Béo phì Béo phì ở các mức độ khác nhau đều làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim   mạch. Béo phì càng nhiều thì khả  năng xuất hiện các yếu tố  tiền đề  cho  vữa xơ  động mạch như  tăng huyết áp, đái tháo đường cũng như  nguy cơ  mắc bệnh tim mạch càng cao. Các nghiên cứu ở bệnh nhân có bệnh lý động mạch vành chủ yếu đề  cập đến vấn đề  liên quan giữa béo phì và rối loạn chuyển hoá lipid và  không đề cập đến béo phì với tổn thương tại mạch vành. * Đái tháo đường và kháng insulin  Những người mắc bệnh đái tháo đường, đặc biệt là đái tháo đường  typ 2 có tỉ lệ mới mắc bệnh mạch vành cao hơn người bình thường. Ngay  cả khi lượng đường máu chỉ tăng nhẹ thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch cũng  cao hơn. Người đái tháo đường typ 2 có thể  có nồng độ  insulin trong máu   cao, và thường do giảm tác dụng của insulin người ta gọi đây là tình trạng   kháng insulin. Insulin tăng cao trong cơ thể có thể gây tăng huyết áp và tăng   lắng đọng cholesterol vào mảng vữa xơ  động mạch. Hậu quả  là thúc đẩy   quá trình vữa xơ và hậu quả của nó [20], [66]. * Fibrinogen  Fibrinogen có vai trò trung tâm trong quá trình hình thành cục máu  đông để cầm máu. Nghiên cứu Framingham và một số  nghiên cứu khác đã  chứng minh fibrinogen là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim mạch. Có   lẽ  fibrinogen thúc đẩy quá trình hình thành cục máu đông trong mạch máu  vì thế mà tăng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim cũng như đột quỵ [20]. 1.1.4. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp 1.1.4.1. Triệu chứng cơ năng
  9. 9 Triệu chứng quan trọng nhất là cơn đau thắt ngực kiểu động mạch   vành. ­ Cơn đau thắt ngực điển hình: đau dữ  dội cảm giác như  bóp nghẹt  phía sau xương ức hoặc hơi lệch sang trái, cơn đau có thể lan lên vai trái và  mặt trong tay trái cho đến tận ngón đeo nhẫn và ngón út. Một số  trường   hợp đau có thể lan lên cổ, cằm, vai, sau lưng, tay phải, hoặc vùng thượng   vị. Nhìn chung, cơn đau có tính chất giống cơn đau thắt ngực nhưng kéo dài  hơn 20 phút và không đỡ khi dùng nitroglycerin [19], [20], [101]. ­ Một số  trường hợp nhồi máu cơ  tim có thể  xảy ra mà bệnh nhân  không hoặc ít cảm giác đau (nhồi máu cơ  tim thầm lặng), hay gặp  ở bệnh   nhân sau mổ, người già, bệnh nhân có đái tháo đường hoặc tăng huyết áp. 1.1.4.2. Triệu chứng thực thể ­ Khám thực thể trong nhồi máu cơ tim cấp nói chung ít có giá trị để  chẩn đoán xác định, nhưng hết sức quan trọng để giúp chẩn đoán phân biệt   với các bệnh khác, giúp phát hiện các biến chứng, tiên lượng bệnh cũng  như là cơ sở để theo dõi bệnh nhân. ­ Những triệu chứng hay gặp là: nhịp tim nhanh, tiếng tim mờ, tiếng  ngựa phi, huyết áp có thể tăng hoặc tụt, xuất hiện tiếng thổi mới ở tim, các  rối loạn nhịp, ran  ẩm  ở  phổi, các dấu hiệu của suy tim, phù phổi cấp….   Sau vài ngày có thể thấy tiếng cọ màng tim (hội chứng Dressler). ̣ 1.1.4.3. Triêu chưng c ́ ận lâm sàng * Điện tim đồ (ĐTĐ) Là một trong những thăm dò rất có giá trị để chẩn đoán nhồi máu cơ  tim cấp cũng như  định khu nhồi máu cơ  tim. ĐTĐ cần được làm ngay khi   bệnh nhân nhập viện và làm nhắc lại nhiều lần sau đó để  giúp chẩn đoán 
  10. 10 cũng như theo dõi. Những thay đổi trên ĐTĐ biến thiên theo thời gian mới  có nhiều giá trị [15], [16], [17]. Các tiêu chuẩn của chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp trên ĐTĐ là: ­ Xuất hiện đoạn ST chênh lên (> 0,10 mV)  ở ít nhất 2 trong số  các  miền chuyển đạo D2, D3 và aVF; V1 đến V6; D1 và aVL, hoặc ­ Xuất hiện sóng Q mới tiếp theo sự  chênh lên của đoạn ST (rộng ít   nhất 30 ms và sâu 0,20 mV) ở ít nhất 2 trong số các miền chuyển đạo nói trên,   hoặc ­ Sự  xuất hiện mới bloc nhánh trái hoàn toàn trong bệnh cảnh lâm  sàng nói trên [128]. Những lưu ý: ­ Cũng như  các triệu chứng khác, ĐTĐ trong nhồi máu cơ  tim cấp   thường phải có sự thay đổi theo thời gian. ­ Trong trường hợp nghi ngờ cần làm thêm các chuyển đạo phía sau  (V7 ­ V9) để  chẩn đoán nhồi máu cơ  tim mà thủ  phạm thường là do tắc  động mạch mũ. ­  Sóng Q  thường  xuất  hiện sau   trung  bình khoảng 8­12 giờ.  Tuy   nhiên, trong một số trường hợp nó xuất hiện sớm hơn. ­ Trường hợp nhồi máu cơ  tim thất phải thì cần phải làm thêm các  chuyển đạo V3R, V4R để có thể thấy những biến đổi này. ­ Trong trường hợp kèm theo block nhánh phải hoàn toàn, việc chẩn  đoán trên ĐTĐ trở  nên khó khăn hơn.   Nếu bệnh nhân có nhồi máu cơ  tim  trước bên có thể thấy hình ảnh sóng T chênh đồng hướng với phức bộ QRS ở  V1­V4. Định khu nhồi máu cơ  tim cấp trên điện tim đồ: chủ  yếu dựa vào  hình ảnh ST chênh lên hoặc sóng Q.
  11. 11 ­ Nhồi máu cơ tim vùng trước: thay đổi này ở các chuyển đạo trước  tim trong đó, nếu thay đổi từ  V1 đến V3 là nhồi máu cơ  tim trước vách;   nếu từ V1 đến V5 hoặc V6 là nhồi máu cơ tim trước rộng; nếu thấy ở V5,  V6, DI, aVL là nhồi máu cơ tim trước bên. ­ Nhồi máu cơ  tim vùng sau dưới: thay đổi thấy được  ở  DII, DIII và   avF, đôi khi thấy được thêm cả ở V3R hoặc V4R là có nhồi máu cơ tim thất  phải. ­ Nhồi máu cơ tim vùng bên cao: thay đổi chủ yếu ở D1 và aVL loại   này thường ít độc lập mà thường đi kèm nhồi máu cơ tim trước rộng [15].  * Creatine kinase (CK) Creatine kinase gồm các tiểu đơn vị M và B, tạo nên các isozym CK­ BB, CK­MB và CK­MM. Trước khi có sự  xuất hiện của các troponin tim,  dấu ấn sinh học được lựa chọn để chẩn đoán nhồi máu cơ  tim cấp là CK­ MB. Tiêu chuẩn được sử  dụng nhiều nhất để  chẩn đoán nhồi máu cơ  tim   cấp là có 2 lần tăng trên ngưỡng chẩn đoán, hoặc có một lần tăng hơn hai  lần giới hạn trên bình thường. Mặc dù CK­MB tập trung nhiều hơn trong   cơ  tim (khoảng 15% tổng lượng CK) nhưng vẫn hiện diện  ở  cơ  xương.   Tính đặc hiệu cho tim của CK­MB không phải là 100%. Tăng CK­MB do  dương tính giả  có thể  gặp trong chấn thương, gắng sức nặng, suy thận   mạn, dùng cocaine và bệnh cơ... [67], [109].  CK­MB tăng 4­6 giờ sau khởi phát triệu chứng, đạt đỉnh lúc 24 giờ và   trở  về  bình thường trong 48­72 giờ. Giá trị  của CK­MB trong chẩn đoán   nhồi máu cơ tim sớm và muộn (sau 72 giờ) bị hạn chế. Tuy nhiên, CK­MB   giúp chẩn đoán tái nhồi máu cơ tim nếu nồng độ tăng trở lại sau khi trở về  mức bình thường sau nhồi máu cơ tim. * Troponin
  12. 12 Các  nghiên  cứu về   động học của troponin tim cho  thấy, troponin  không phải là dấu ấn sớm của hoại tử cơ tim. Troponin cho kết quả dương   tính trong vòng 4­8 giờ sau khi khởi phát triệu chứng, tương tự như CK­MB   nhưng tăng kéo dài 7­10 ngày sau nhồi máu cơ tim. Các xét nghiệm Troponin đặc hiệu cho cơ tim (troponin I và troponin  T) ngày càng được cải thiện giúp tối  ưu hóa việc chẩn đoán và theo dõi  điều trị nhồi máu cơ tim. Xét nghiệm troponin I độ nhạy cao được khuyến   cáo sử dụng vì tính chất chính xác, cho phép đánh giá nồng độ troponin tim  ở từng giới riêng biệt, ít bị ảnh hưởng bởi bệnh lý thận [8]. * Myoglobin Myoglobin tăng 2­4 giờ sau khởi phát nhồi máu, đạt đỉnh sau 6­12 giờ  và trở về bình thường sau 24­36 giờ. Xét nghiệm nhanh myoglobin sẵn có nhưng thiếu đặc hiệu cho tim.   Myoglobin cũng tăng khi có tổn thương cơ xương, sau khi dùng cocaine và  ở bệnh nhân suy thận. Thử liên tiếp cách khoảng 1­2 giờ giúp tăng độ nhạy  và độ đặc hiệu. Tăng 25­40% sau 1­2 giờ gợi ý nhiều đến nhồi máu cơ tim   cấp. Trong phần lớn nghiên cứu, myoglobin chỉ có độ nhạy 90% trong chẩn  đoán nhồi máu cơ tim cấp [19], [20].  * Lactate dehydrogenase (LDH) LDH tăng khá muộn từ  8­12 giờ  sau nhồi máu, đỉnh  ở  24­48 giờ  và  kéo dài 10­14 ngày. Tỷ  lệ  LDH1/LDH2 > 1 có ý nghĩa trong nhồi máu cơ  tim. * Các Transaminase GOT và GPT:  ít đặc hiệu cho cơ tim. Tuy nhiên,  ở  điều kiện nhất đinh, các xét nghiệm này cũng vẫn có giá trị  nhất định   trong hoàn cảnh lâm sàng đau thắt ngực. Trong nhồi máu cơ tim, GOT tăng  nhiều hơn GPT [19], [20]. * Siêu âm tim.
  13. 13 Siêu âm tim trong nhồi máu cơ tim cũng rất có giá trị, đặc biệt trong  những thể  nhồi máu cơ  tim không rõ thay đổi trên điện tâm đồ, có block  nhánh hoàn toàn, hoặc khi cần phân biệt một số  trường hợp viêm cơ  tim   cấp. Hình ảnh rối loạn vận động vùng liên quan đến vị trí nhồi máu thường  được thấy trên siêu âm tim. Mức độ  rối loạn có thể  gặp là từ  giảm vận  động, không vận động, vận động nghịch thường và phình thành tim. Siêu  âm tim còn giúp đánh giá chức năng thất trái, các biến chứng cơ  học của   nhồi máu cơ tim (thủng vách tim gây thông liên thất, hở van tim do đứt dây  chằng), tràn dịch màng tim, huyết khối trong buồng tim….Đặc biệt siêu âm   tim giúp chẩn đoán phân biệt với một số nguyên nhân đau ngực khác (viêm  cơ tim, tách thành động mạch chủ…) [19], [20]. * Thăm dò phóng xạ tưới máu cơ tim ̀ ́ ̣ ươi mau c Thăm do phong xa t ́ ́ ơ  tim thường không có chỉ  định trong   giai đoạn cấp của nhồi máu cơ tim. Các thăm dò này chỉ có ích ở giai đoạn  sau nhồi máu cơ tim để đánh giá mức độ tưới máu cho từng vùng cơ tim và  sự  sống còn của cơ tim nhằm giúp ích cho chỉ định can thiệp mạch vành [19],  [20]. * Chụp động mạch vành cấp cứu  Chụp động mạch vành chọn lọc được Mason Sones thực hiện lần  đầu tiên trên thế  giới vào năm 1959. Kể  từ  đó việc thông tim trái và chụp   động mạch vành đã trở thành một thủ thuật thường làm trong tim mạch và  mở  ra một kỷ  nguyên mới trong chẩn đoán và điều trị  bệnh mạch vành  cũng như  các bệnh tim mạch. Mặc dù có nhiều tiến bộ  trong chẩn đoán  bệnh động mạch vành nhưng cho đến nay, chụp động mạch vành vẫn là   một tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh động mạch vành [17], [21].  ­ Chụp động mạch vành không phải là biện pháp chỉ  được chỉ  định  chỉ để nhằm chẩn đoán xác định nhồi máu cơ tim cấp.
  14. 14 ­ Chụp động mạch vành cấp để  xác định chính xác vị  trí và mức độ  tổn thương động mạch vành, nhằm mục đích can thiệp động mạch vành và  những chỉ định của nó được bàn đến trong phần điều trị. ­ Khi chụp động mạch vành có thể xác định rõ vị trí bị tắc hoặc hẹp   động mạch vành gây ra nhồi máu cơ  tim và có thể  thấy được hình  ảnh  huyết khối trong động mạch vành ở một số trường hợp. Chẩn đoán xác định nhồi máu cơ  tim cấp được dựa vào 3 yếu tố   chính là [8], [15], [20]: ­ Cơn đau thắt ngực điển hình. ­ Thay đổi đặc hiệu trên điện tim đồ. ­ Thay đổi men sinh học. Khi có ít nhất 2 yếu tố trở lên là có thể chẩn đoán xác định nhồi máu  cơ tim cấp. Định nghĩa, tiêu chuẩn chẩn đoán nhồi máu cơ  tim lần thứ  nhất vào  năm 2000 và lần thứ  2 năm 2007, trên cơ  sở  đồng thuận cao của các Tổ  chức, Hội tim mạch. Năm 2012 các tổ  chức đã đồng thuận cho ra đời một  định nghĩa mới lần thứ  3 về  nhồi máu cơ  tim với sự  chấp nhận của Tổ  chức Y tế thế giới. Theo   đồng   thuận   toàn   cầu   2012   của   liên   ủy   ban  ESC/ACC/AHA/WHF “ Nhồi máu cơ  tim cấp được định nghĩa là chết tế  bào cơ tim do thiếu máu cơ tim kéo dài” Tiêu chuẩn chẩn đoán nhồi máu cơ tim mới bao gồm: ­ Xác định có tăng và hay giảm giá trị chất chỉ điểm sinh học [khuyến  khích nên sử dụng men troponin của tim (cTn – cardiac troponin) với ít nhất  có một giá trị  đạt mức 99% bách phân vị  của giới hạn trên dựa theo tham  chiếu], và kèm theo ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau: + Triệu chứng cơ năng của thiếu máu cục bộ cơ tim.
  15. 15 + Biến đổi ST­T rõ mới xuất hiện (hoặc xem như  mới), hoặc blốc  nhánh trái mới phát hiện. + Xuất hiện của sóng Q bệnh lý trên ĐTĐ. + Bằng chứng về  sự  mới mất hình  ảnh cơ  tim còn sống hoặc mới  rối loạn vận động vùng. + Xác định có huyết khối trong mạch vành bằng chụp mạch vành  hoặc mổ tử thi. ­ Đột tử với các triệu chứng nghi ngờ thiếu máu cục bộ cơ tim và có  dấu thiếu máu cục bộ  cơ  tim mới trên ĐTĐ hoặc blốc nhánh trái mới,   nhưng tử  vong xảy ra trước khi lấy  được mẫu chất chỉ  điểm sinh học,   hoặc trước khi giá trị chất chỉ điểm sinh học tăng. ­ Nhồi máu cơ  tim do can thiệp mạch vành qua da được định nghĩa   đồng thuận khi có  tăng giá trị của cTn (>5 lần 99% bách phân vị  của giới  hạn trên) ở  các bệnh nhân có giá trị  nền bình thường (≤ 99% bách phân vị  của giới hạn trên) hoặc có sự tăng  giá trị của cTn >20% nếu giá trị nền đã  tăng và  ổn định hoặc đang giảm. Ngoài ra, cần phải có một trong những   điều kiện sau (i) triệu chứng nghi ngờ  thiếu máu cục bộ  cơ  tim hoặc (ii)   dấu thiếu máu cục bộ  cơ tim mới trên ĐTĐ hoặc (iii) kết quả chụp mạch  vành phù hợp với tai biến của thủ  thuật hoặc (iv) bằng chứng hình  ảnh  học cho thấy mới mất hình  ảnh cơ  tim sống còn hoặc rối loạn vận động  vùng mới xuất hiện. ­ Nhồi máu cơ tim do huyết khối trong stent khi được xác định bằng  chụp mạch vành hoặc mổ tử thi trong bệnh cảnh thiếu máu cục bộ cơ tim   kèm theo tăng hoặc giảm chất chỉ điểm sinh học với ít nhất một giá trị đạt  trên mức 99% bách phân vị của giới hạn trên. ­ Nhồi máu cơ tim do mổ bắc cầu mạch vành được định nghĩa đồng  thuận bằng sự tăng giá trị của cTn (>10 lần 99% bách phân vị của giới hạn  
  16. 16 trên) ở các bệnh nhân có mức giá trị nền bình thường (≤ 99% bách phân vị  của giới hạn trên. Ngoài ra, cần phải có một trong những điều kiện sau (i)  sóng Q bệnh lý hoặc blốcnhánh trái mới xuất hiện, hoặc (ii) bằng chứng   chụp mạch vành cho thấy có tắc nghẽn của cầu nối hoặc tắc mới của   mạch vành, hoặc (iii) bằng chứng hình  ảnh học cho thấy mới mất hình  ảnh cơ  tim sống còn hoặc mới có rối loạn vận  động vùng [63], [127],  [128]. 1.1.5. Điều trị nhồi máu cơ tim 1.1.5.1. Các biện pháp chung điều trị ban đầu ­ Bệnh nhân phải được bất động tại giường trong giai đoạn sớm khi  tiến hành đánh giá và áp dụng các biện pháp ban đầu [15], [19], [20]. ­ Thở ôxy: với liều 2­4 lít/phút qua đường mũi vì trong nhồi máu cơ  tim cấp thường kèm theo thiếu ô xy. Một số  trường hợp suy hô hấp nặng  cần phải đặt nội khí quản và cho thở máy phù hợp. ­ Giảm đau đầy đủ: làm giảm sự  tăng tiết cathecholamin trong máu  và góp phần làm giảm nhu cầu ôxy cơ  tim. Morphin sulphat là thuốc được  lựa chọn hàng đầu, liều dùng từ 2­4 mg tiêm tĩnh mạch, sau đó nhắc lại sau   5­10 phút nếu bệnh nhân vẫn còn đau. Chú ý nhịp thở  của bệnh nhân và  nhịp tim. Nếu nhịp tim chậm xuống, có thể  cho atropin 0,5 mg tiêm tĩnh  mạch. ­ Nitroglycerin (0,4 mg) ngậm dưới lưỡi, có thể  nhắc lại sau mỗi 5  phút, cần chú ý huyết áp của bệnh nhân. Nếu huyết áp tối đa còn > 90   mmHg là tốt. Tiếp sau đó cần thiết lập ngay đường truyền tĩnh mạch và  truyền tĩnh mạch nitroglycerin với tốc độ  10 mcg/phút, có thể  chỉnh liều  theo trị số huyết áp của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân có huyết áp tụt thì không thể  dùng nitroglycerin, khi   đó cần áp dụng ngay các biện pháp vận mạch. Nitroglycerin có thể  gây 
  17. 17 nhịp nhanh phản ứng và không dùng khi có nhồi máu cơ tim thất phải. Phải   hỏi kỹ  tiền sử  bệnh nhân có dùng sildenafil trước đó 24 giờ, nếu có thì  không sử dụng nitroglycerin. ­   Thuốc   chống   ngưng   kết   tiểu   cầu:   Aspirin   cần   cho   ngay   bằng   đường uống dạng hấp thu nhanh (dạng nhai, bột uống) với li ều ban đầu là  325 mg hoặc có thể cho bằng đường tiêm tĩnh mạch. Nếu bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày tá tràng đang tiến triển hoặc dị  ứng với aspirin thì có thể thay bằng clopidogrel (plavix) với liều ban đầu là  300­600mg (4­8 viên) sau đó 75mg/ngày. Nên cho phối hợp ngay clopidogrel   với aspirin nhất là khi có kế hoạch can thiệp động mạch vành sớm. ­ Thuốc chống đông: Heparin tiêm thẳng tĩnh mạch liều 65­70 đơn  vị/kg sau đó duy trì liều 15­18 đơn vị/kg/giờ. Dùng heparin với thuốc tiêu huyết khối thì cần cho ngay 5000 đơn vị  tiêm tĩnh mạch sau đó truyền tĩnh mạch liều khoảng 1000 đơn vị/giờ  (trừ  trường hợp cho streptokinase thì không cần dùng heparin phối hợp). Khi  dùng heparin cần điều chỉnh liều theo thời gian APTT sao cho thời gian này  gấp 1,5 thời gian chứng (50­75 giây). Ngày nay, các thuốc heparin trọng   lượng phân tử  thấp như: enoxaparin có thể  được dùng thay cho heparin  thường với hiệu quả  không kém hơn và không cần phải theo dõi các xét  nghiệm đông máu. ­ Thuốc chẹn bê ta giao cảm: làm giảm tỷ  lệ  tử  vong và giảm diện  cơ tim bị nhồi máu hoại tử. Không dùng các thuốc này khi bệnh nhân có dấu hiệu suy tim nặng,  nhịp tim chậm 
  18. 18 trọng. Nghiên cứu COMMIT­2 gần đây cho thấy, thuốc chẹn beta giao cảm   trong giai đoạn cấp của nhồi máu cơ tim có thể làm tăng tỷ lệ sốc tim. Nên  lựa chọn thuốc đường uống và phải hết sức lưu ý các chống chỉ định [45]. ­ Thuốc  ức chế  men chuyển: có thể  cho trong 24 giờ  đầu đường   uống nếu huyết áp bệnh nhân không thấp và không có các chống chỉ  định   khác. Thuốc ức chế men chuyển có lợi ích lâu dài và bảo tồn chức năng thất  trái, đặc biệt  ở các bệnh nhân đã bị  giảm chức năng thất trái hoặc có nhiều  yếu tố nguy cơ. ­ Các thuốc chống loạn nhịp. Theo dõi và xử  trí kịp thời các rối loạn   nhịp là biện pháp quan trọng. Tuy vậy, dùng các thuốc chống loạn nhịp một   cách hệ thống để phòng ngừa loạn nhịp tim chưa được chứng minh là có lợi  ích. ­ Bóng bơm ngược dòng động mạch chủ (IABP) hoặc các biện pháp  hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể khác: được chỉ định cho những bệnh nhân có  sốc tim. IABP làm giảm hậu gánh và giảm nhu cầu ôxy trong khi làm tăng  dòng máu động mạch vành thì tâm trương. ­ Các thuốc vận mạch (dobutamine, dopamine): các thuốc này làm   tăng nhu cầu tiêu thụ ôxy của cơ tim. Tuy vậy, trong trường hợp suy tim cấp hoặc sốc tim thì vẫn cần   thiết   được   dùng   và   nên   theo   dõi   bằng   catheter   động   mạch   phổi   (Swan   Ganz). ̀ ̣ ́ ươi mau 1.1.5.2. Điêu tri tai t ́ ́ Mục tiêu quan trọng nhất trong điều trị  nhồi máu cơ  tim cấp là làm  tái tưới máu (tái lưu thông động mạch vành bị  tắc) càng sớm càng tốt. Ba   biện pháp được nhắc đến là: thuốc, can thiệp và phẫu thuật. Trong đó, 2 
  19. 19 biện pháp điều trị  tái tưới máu cơ  bản được  ứng dụng thường quy trong   lâm sàng hiện nay là: dùng thuốc tiêu huyết khối hoặc can thiệp (nong, đặt  stent) động mạch vành cấp. Mổ  làm cầu nối chủ­vành cấp là rất hạn chế  và chỉ áp dụng trong một số tình huống đặc biệt. Việc điều trị sớm tái tưới  máu đã làm giảm mức độ  hoại tử  cơ  tim, giảm tỷ  lệ  tử  vong và bảo tồn  được chức năng thất trái [1], [19], [20]. * Can thiệp động mạch vành thì đầu trong giai đoạn cấp cứu (nong,   đặt stent): Mặc dù thuốc tiêu huyết khối mang lại lợi ích đáng kể, nhưng do  nhiều chống chỉ  định, hạn chế  về  khả  năng tái thông động mạch vành và  vẫn còn tồn tại nơi hẹp ĐMV nên lợi ích của phương pháp này đã được  cân nhắc lại khi có sự  ra đời của phương pháp can thiệp động mạch vành.  Các nghiên cứu hiện nay đã chứng minh tính ưu việt của phương pháp can  thiệp động mạch vành trong giai đoạn cấp so với thuốc tiêu huyết khối.  Tuy nhiên, nó tuỳ  thuộc nhiều vào trang thiết bị  và kinh nghiệm của thày   thuốc can thiệp. + Can thiệp động mạch vành thì đầu: (primary intervention) (tức là  can thiệp ngay lập tức khi bệnh nhân đến viện và chưa dùng thuốc tiêu sợi   huyết) nên được chỉ  định cho mọi bệnh nhân nhồi máu cơ  tim cấp và nên   được tiến hành càng sớm càng tốt.  + Can thiệp sau khi dùng thuốc tiêu huyết khối thất bại: tức là sau   khi  dùng thuốc tiêu huyết  khối mà bệnh nhân  vẫn còn   đau ngực,  triệu  chứng lâm sàng không tiến triển tốt, ST vẫn chênh lên trên ĐTĐ thì có chỉ  định can thiệp động mạch vành. + Can thiệp động mạch vành có tạo thuận: tức là can thiệp động  mạch vành một cách hệ thống sau khi cho thuốc tiêu huyết khối thành công. 
  20. 20 Hiện nay, các nghiên cứu không cho thấy lợi ích của phương pháp này so   với can thiệp thì đầu đơn thuần. * Mổ làm cầu nối chủ ­ vành cấp cứu : Phương pháp này được chỉ  định khi bệnh nhân đau ngực tái phát sau  dùng tiêu huyết khối mà động mạch vành không thích hợp cho can thiệp  (tổn thương nhiều thân, tổn thương thân chung, tổn thương phức tạp…),  hoặc can thiệp thất bại, hoặc bệnh nhân có những biến chứng cơ học...[1],   [17], [19].  1.1.5.3. Điều trị nội khoa   ­   Các   thuốc  chống   ngưng   kết   tiểu   cầu   (aspirin,   clopidogrel):  liều   aspirin từ  75­325 mg/ngày và dùng lâu dài. Clopidogrel dùng khi aspirin có  chống chỉ định hoặc phối hợp khi có can thiệp động mạch vành. ­ Các thuốc chống đông: Heparin cần thiết khi có dùng thuốc tiêu  huyết khối và khi can thiệp động mạch vành. ­ Các nitrate: mặc dù không làm giảm tỷ lệ tử vong nhưng chúng cải  thiện tình trạng thiếu máu cục bộ, cải thiện triệu chứng và suy tim. ­ Các thuốc chẹn beta giao cảm: có thể  dùng kéo dài (nếu không có  các chống chỉ định). ­ Các thuốc  ức chế men chuyển (ƯCMC): sử dụng sớm và bắt đầu   với liều nhỏ (trong vòng 24 giờ đầu). ­ Điều trị tích cực các yếu tố nguy cơ. Trong đó, chú ý điều trị tốt đái  tháo đường, tăng huyết áp và rối loạn chuyển hóa lipid kèm theo [17], [21],   [109]. 1.2. Viêm và bệnh động mạch vành Năm 1976, Russell Ross nhận thấy chính tổn thương tế bào nội mô  và tình trạng viêm là sự khởi đầu cho sự thành lập các mảng vữa xơ [105].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2