intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thể loại tùy bút trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:235

40
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là xác lập một cách hiểu hợp lý, đầy đủ về khái niệm tùy bút; trên cơ sở đó, xác định rõ loại hình và đặc trưng thể loại của tùy bút; khái quát những chặng đường phát triển và quy luật vận động của thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975; khẳng định đóng góp to lớn của thể loại tùy bút, cả về nội dung và bút pháp nghệ thuật, làm phong phú thêm diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thể loại tùy bút trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------- TRẦN VĂN MINH THỂ LOẠI TÙY BÚT TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN 1975 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------- TRẦN VĂN MINH THỂ LOẠI TÙY BÚT TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.34.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học GS. TSKH LÊ NGỌC TRÀ Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011
  3. Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp cơ sở đào tạo, họp tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh vào lúc….. giờ, ngày…. tháng…. năm 2011 Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Xuân Phản biện 2: PGS.TS Phạm Quang Long Phản biện 3: TS Nguyễn Khắc Hóa Phản biện độc lập: 1- GS.TS Nguyễn Khắc Phi 2- PGS.TS Phạm Quang Long
  4. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài ............................................................ …..4 2. Mục tiêu, giới hạn của đề tài........................................... …..5 3. Lịch sử nghiên cứu đề tài................................................ …..7 4. Đóng góp mới của Luận án............................................. …22 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................ …23 6. Kết cấu của Luận án ....................................................... …25 Chương 1: Những vấn đề lý thuyết về thể loại tùy bút ...................... ...27 1.1. Về khái niệm “tùy bút” ................................................... …27 1.2. Xác định loại của tùy bút ................................................ …33 1.3. Đặc điểm của thể loại tùy bút .......................................... …37 1.4. Phân loại tùy bút ............................................................. …45 1.5. Phân biệt tùy bút với bút ký và thơ văn xuôi .................... …50 Chương 2: Quá trình phát triển của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 ................................................................ ...56 2.1 Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam trước 1930 ................................. …56 2.1.1. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học trung đại….......57 2.1.2. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học 1900 - 1930…..62 2.2. Những chặng đường phát triển của thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975………………………...64 2.2.1. Từ 1930 đến 1945 ............................................................. …64
  5. 2 2.2.2. Từ 1945 đến 1975 ............................................................. …76 2.3. Những tác gia và tác phẩm tùy bút tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975………………….83 2.3.1. Nguyễn Tuân – người viết tùy bút số một…………………...83 2.3.2. Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường ................. …98 2.3.3. Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai................................ ..108 2.3.4. Bình Nguyên Lộc với Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc ................................................ ..117 2.3.5. Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi.................. ..125 2.3.6. Nguyễn Thi với Dòng kinh quê hương ........................... ..128 Chương 3: Đặc điểm của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975………...133 3.1. Văn hóa dân tộc và hiện thực chiến tranh – hai mảng đề tài chính ......................................................... ..133 3.1.1. Đề tài văn hóa dân tộc ...................................................... ..134 3.1.2. Đề tài hiện thực chiến tranh ............................................. ..137 3.2. Sự đa dạng của cảm hứng .................................................. ..141 3.2.1. Cảm hứng dân tộc - lịch sử .............................................. ..142 3.2.2. Cảm hứng lãng mạn ........................................................ ..151 3.2.3. Cảm hứng anh hùng ........................................................ ..156 3.2.4. Cảm hứng trữ tình ............................................................ ..160 3.3. Dung hợp cả hai loại nhân vật: nhân vật trữ tình và nhân vật tự sự - trữ tình………….........164 3.3.1. Nhân vật trữ tình .............................................................. ..165 3.3.2. Nhân vật tự sự - trữ tình ................................................... ..169 3.4. Một phức hợp giọng điệu .................................................. ..173
  6. 3 3.4.1. Sự phong phú về giọng điệu ............................................. ..173 3.4.2. Tính phức hợp trong giọng điệu ....................................... ..176 3.5. Kết cấu tự do theo mạch cảm xúc ........................................ ..179 3.5.1. Kết cấu tự do..................................................................... ..179 3.5.2. Mạch tự sự - trữ tình linh hoạt........................................... ..181 3.6. Vẻ đẹp, tính sáng tạo và giàu chất thơ của ngôn từ ............ ..183 3.6.1. Vẻ đẹp của từ ngữ ............................................................ ..183 3.6.2. Cách sử dụng từ ngữ đầy sáng tạo .................................... ..186 3.6.3. Ngôn từ giàu chất thơ ...................................................... ..191 KẾT LUẬN ................................................................................................... ..198 PHỤ LỤC ....................................................................................................... ..202 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. ..216 PHỤ CHÚ………………………………………………………………………..232
  7. 4 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, tùy bút là một thể loại có đóng góp đáng kể. Rất nhiều tên tuổi lớn mà phần thành công hơn cả của sự nghiệp sáng tác được khẳng định bằng tùy bút. Những trang tùy bút đặc sắc của Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Bình Nguyên Lộc, Băng Sơn,... không chỉ mang tới cho độc giả nhã thú văn chương mà còn góp phần vun bồi vốn tri thức phong phú về tự nhiên, xã hội và nghệ thuật. Từ góc nhìn văn học sử, không khó để nhận ra rằng thể loại này đã có một quá trình hình thành và phát triển với những quy luật vận động riêng trong quỹ đạo chung của cả nền văn học dân tộc. Thực tiễn sáng tác sinh động là thế, nhưng về lý luận thì có nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ xung quanh thể loại tùy bút. Các nhà nghiên cứu luôn mong muốn có được sự tường minh trong thao tác xác định loại hình và phân loại, hệ thống hóa. Nhưng đó là một điều không hề đơn giản vì tính chất trung gian, lưỡng hợp của tùy bút (giữa tự sự với trữ tình, giữa suy tưởng với xúc cảm, giữa văn xuôi với thơ, giữa yếu tố khách quan với yếu tố chủ quan) có thể khiến cho mọi cố gắng phân định rạch ròi đều trở nên bất cập hoặc không thỏa đáng. Hậu quả là, mặc dù được nhìn nhận như một thể loại văn học (Nguyễn Xuân Nam) [61; 1888] nhưng quan điểm phân loại và cách hiểu về tùy bút, trên thực tế, hầu như chưa có sự nhất trí cần thiết. Nhiều người coi tùy bút là một tiểu loại giàu chất trữ tình nhất của thể loại ký - một biến thể của loại tự sự, nhưng cũng có người dứt khoát xếp tùy bút vào loại trữ tình. Do chưa có được sự đồng thuận từ cơ sở lý luận nên việc tiếp cận và bình giá những tác phẩm tùy bút cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp. Rõ ràng cần phải khảo sát tường tận hơn về tùy bút, trước hết ở phương diện khái niệm, thể loại; rồi trên cơ sở đó mà vạch ra một đường biên - tất nhiên cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối - giữa tùy bút với các thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Để tùy bút có cơ sở tồn tại ngang hàng, bình đẳng với những thể loại khác trong đời sống văn học, để không chỉ phân định thỏa đáng những giá trị vốn có, mà quan
  8. 5 trọng hơn là định hướng phù hợp cho sự vận động phát triển ở tương lai, thiết nghĩ đã đến lúc cần có sự nghiên cứu đầy đủ về nguồn gốc thể loại, quá trình phát triển với những quy luật và thành tựu nổi bật, về đặc điểm nội dung và nghệ thuật cơ bản của nó. 1.2. Qua thực tế công tác giảng dạy và nghiên cứu của bản thân, chúng tôi đã tích lũy được một khối lượng tư liệu khá phong phú về thể loại tùy bút, về các tác gia, tác phẩm tùy bút tiêu biểu. Bằng kinh nghiệm và sở trường cá nhân, kết hợp với việc tham khảo, kế thừa thành tựu nghiên cứu từ những người đi trước, chúng tôi mong muốn được trình bày ý kiến của mình về một vấn đề văn học tuy không mới nhưng còn nhiều điểm chưa sáng rõ cả về lý luận lẫn thực tế phê bình và tiếp nhận. Kết quả của công trình này vừa có thể góp phần xác định vai trò và đặc điểm của tùy bút trong hệ thống thể loại văn xuôi Việt Nam hiện đại, vừa giúp cho việc giảng dạy những tác gia, tác phẩm tùy bút có trong chương trình bậc đại học và phổ thông được tốt hơn. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU, GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Với đề tài Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975, công việc nghiên cứu của Luận án nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể sau đây: 2.1.1. Xác lập một cách hiểu hợp lý, đầy đủ về khái niệm tùy bút; trên cơ sở đó, xác định rõ loại hình và đặc trưng thể loại của tùy bút. 2.1.2. Khái quát những chặng đường phát triển và quy luật vận động của thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975. 2.1.3. Khẳng định đóng góp to lớn của thể loại tùy bút, cả về nội dung và bút pháp nghệ thuật, làm phong phú thêm diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại. 2.2. Giới hạn của đề tài 2.2.1. Phạm vi nghiên cứu của Luận án bao gồm những vấn đề lý thuyết về loại thể và lịch sử văn học. Từ yêu cầu của đề tài, Luận án tập trung giải quyết hai nội dung cơ bản: những vấn đề lý luận xung quanh thể loại tùy bút (khái niệm, loại hình, đặc trưng nghệ thuật, phân loại), quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm của
  9. 6 nó trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975. Việc xác định đặc trưng thể loại sẽ mang ý nghĩa định hướng cho phần khảo sát những đóng góp ở thực tế sáng tác. 2.2.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu của Luận án bao gồm những tác gia, tác phẩm tùy bút tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975. Chúng tôi chọn khoảng thời gian này để khảo sát thành tựu và đặc điểm của tùy bút vì những lý do sau đây: - Tùy bút là một thể loại phái sinh từ ký. Ở Việt Nam, mặc dù các tác phẩm ký mang yếu tố tùy bút xuất hiện khá sớm trong văn học trung đại, nhưng mãi đến 1930, vẫn chưa thể nói rằng tùy bút đã định hình rõ nét thành một thể loại văn xuôi, có thành tựu đáng ghi nhận. Chỉ từ sau 1930, cùng với sự khởi sắc của nhiều thể loại hiện đại (như tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự,…), tùy bút mới thực sự đánh dấu sự góp mặt của nó bằng những tên tuổi lớn và nhiều tác phẩm hay (Nguyễn Tuân với Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Tùy bút I, Tùy bút II, Tóc chị Hoài; Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường; Xuân Diệu với Phấn thông vàng, Trường ca; Chế Lan Viên với Vàng sao; Lư Khê với Phút thoát trần). Do đó, chọn năm 1930 làm mốc khởi đầu một giai đoạn phát triển của tùy bút Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở. - Trải qua thử thách của thực tế sáng tác trong gần nửa thế kỷ, đến năm 1975, có thể nói diện mạo cơ bản của thể loại tùy bút đã định hình. Đội ngũ sáng tác tùy bút tuy không đông đảo như ở các thể loại khác nhưng gồm những tác giả nổi tiếng, mang phong cách nghệ thuật độc đáo. Số lượng tác phẩm tùy bút tuy không nhiều nhưng có những sáng tác rất đặc sắc, bao quát được những mảng đề tài nổi bật, với nhiều cảm hứng đa dạng (từ văn hóa, phong tục đến lịch sử, cái tôi riêng tư và cái ta cộng đồng, cả sử thi hoành tráng lẫn thế sự, đời thường). Cho nên, đặt vấn đề khảo sát tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 chính là nhằm mục đích khẳng định một giá trị văn học đã ổn định và tương đối trọn vẹn ý nghĩa. Tất nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và để so sánh nhằm làm nổi bật vấn đề, chúng tôi không thể không điểm qua những sáng tác mang ngày càng rõ nét yếu tố tùy bút ở các giai đoạn trước năm 1930 cũng như thành tựu của thể loại này từ sau 1975. Cần nói thêm, việc cân nhắc để phân định thể loại cho những tác phẩm cụ thể, không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án này. Căn cứ vào hệ thống tiêu
  10. 7 chí phân loại đã nêu ra, một phạm vi tư liệu tương hợp với mục đích nghiên cứu của Luận án mặc nhiên được xác định. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 3.1. Về thể loại tùy bút Trong một khoảng thời gian khá dài, do phải tồn tại ở thế nép mình vào thể loại ký, nên tùy bút chưa có được sự nghiên cứu thật triệt để. Hầu hết các công trình lý luận - phê bình, các công trình văn học sử đều dành sự quan tâm nhiều hơn đến đặc điểm và thành tựu của thể loại ký - một mảng văn xuôi quan trọng ở mọi thời kỳ phát triển của văn học viết. Tùy bút thường chỉ được nhắc qua như một tiểu loại giàu chất trữ tình, và tất nhiên, phải chịu sự chi phối từ những đặc điểm loại hình của ký. Có nhà nghiên cứu thực sự chú ý đến yếu tố trữ tình trong tùy bút, không xem nó như thành phần phụ thêm mà có ý nghĩa quyết định tới những đặc điểm để phân định thể loại. Cũng có người quan tâm đến những biểu hiện có tính chất trung gian, để khảo sát tùy bút như một cách viết linh hoạt hoặc một thể loại nằm ở vị trí giáp ranh, lai ghép giữa tự sự với trữ tình. Có thể nhận ra hai kiểu quan niệm vừa tương đồng vừa có chỗ chưa nhất trí với nhau xung quanh vấn đề loại hình của tùy bút: * Tùy bút là một tiểu loại văn xuôi giàu chất trữ tình, thuộc thể loại ký. * Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký, thuộc loại trữ tình. Cả hai quan điểm trên đều thừa nhận sự tồn tại thường trực của yếu tố trữ tình trong tùy bút, nhưng về vai trò của yếu tố tự sự thì còn có ý kiến khác nhau. 3.1.1. Xếp tùy bút vào hệ thống tiểu loại của ký, các nhà nghiên cứu muốn khẳng định vai trò của tự sự như là yếu tố thứ nhất, có ý nghĩa làm nền trong những tác phẩm thuộc thể loại này. Trong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên), tùy bút được xác định là “một thể thuộc loại hình ký, rất gần với bút ký, ký sự. Nét nổi bật trong tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự việc cụ thể có thực, tác giả chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại” [49; 260].
  11. 8 Trong Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn Văn Hạnh cũng xếp tùy bút vào hệ thống các thể ký: “Các thể ký có mặt cả trong văn học cổ điển và văn học hiện đại là ký sự, bút ký, tùy bút, nhật ký (…). Trong văn học hiện đại, thể tùy bút được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tùy bút cũng là ký, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc, mà ghi chép suy nghĩ, cảm xúc của người viết khi tiếp xúc với thực tế” [53; 100]. Trong Văn học…gần & xa, Hoàng Ngọc Hiến còn đưa ra một thuật ngữ mới - ký tùy bút - để xác định rõ mối quan hệ mang tính phụ thuộc giữa tùy bút với ký: “Trong nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại, ký là một thuật ngữ được dùng để gọi tên một thể loại văn học bao trùm nhiều “thể” hoặc tiểu loại (…), nói đến những tiểu loại ký quen thuộc phải kể đến: hồi ký (“Những năm tháng không thể nào quên” của Võ Nguyên Giáp), nhật ký (“Ở rừng” của Nam Cao), ký sự (“Ký sự miền đất lửa” của Vũ Kỳ Lân - Nguyễn Sinh), phóng sự (“Kỹ nghệ lấy Tây”, “Cơm thầy cơm cô” của Vũ Trọng Phụng), ký chính luận (“Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc), ký tùy bút (“Đường chúng ta đi” của Nguyễn Trung Thành)” [60; 122, 123]. Không ít nhà nghiên cứu tỏ ra quan tâm đến tính chất “tự biểu cảm” trong tùy bút, nhưng vẫn khẳng định nó có gốc gác từ ký: “Một thể loại văn xuôi phái sinh từ thể ký, gần với bút ký (...). Nhà văn dựa vào sự lôi cuốn của cảm hứng, có thể nói từ sự việc này sang sự việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng kia (...) để bộc lộ những cảm xúc, những tâm tình, phát biểu những suy nghĩ, những nhận xét về cuộc đời và con người (...). Bản ngã của nhà văn được thể hiện trong tùy bút gần như trong thơ trữ tình. Tùy bút là thể giàu chất trữ tình nhất trong các loại ký” [61; 1888]. Trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Phan Cự Đệ chủ biên), dù thừa nhận “Ký bao gồm nhiều thể chủ yếu dưới dạng văn xuôi tự sự như bút ký, hồi ký, du ký,
  12. 9 nhật ký, phóng sự, tùy bút,…”, nhưng Lê Dục Tú đã chú ý nhiều hơn đến tính chất chủ quan, phóng túng của cái tôi trữ tình ở các sáng tác tùy bút: “Theo định nghĩa thì tùy bút là một thể văn có lối viết tương đối phóng khoáng, tự do. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đẩy có thể viết từ việc này sang việc khác, từ vấn đề này sang vấn đề khác. Ở thể loại này nhà văn có điều kiện bộc lộ những cảm xúc chủ quan của mình về đối tượng được phản ánh, vì thế cái tôi bản ngã có điều kiện bộc lộ hết mình” [34; 401]. Ở đây, các nhà nghiên cứu đã lưu tâm trước hết đến sự hiện diện của yếu tố khách quan trong tùy bút, coi đó như cái phần chất liệu không thể thiếu từ cuộc sống, để qua đó cái tôi chủ quan của người viết mới có cơ hội bộc lộ. Quan niệm này khá phổ biến và không ít người đã mặc nhiên thừa nhận tùy bút là một dạng, một tiểu loại giàu chất trữ tình của thể loại ký. Nhưng nếu khảo sát kỹ thực tế sáng tác, sẽ nhận ra trong tùy bút việc kể chuyện, thuật sự đâu phải là mối quan tâm hàng đầu của người nghệ sĩ; do đó, làm sao có thể căn cứ vào một yếu tố không mang tính bản chất để phân định thể loại ? Đặt giữa hệ thống các tiểu loại của ký (cùng với bút ký, ký sự, nhật ký, phóng sự,…), tùy bút tỏ rõ sự thất thế trong việc phản ánh và suy tư về hiện thực với tính thời sự nóng hổi. Yếu tố tự sự, ở các mức độ và tính chất khác nhau, phần nhiều mang ý nghĩa phương tiện để chuyển tải. Trữ tình mới là mục đích chính yếu, là cứu cánh nghệ thuật trong tùy bút. Khác hẳn với quan niệm nêu trên, có nhà nghiên cứu xếp dứt khoát tùy bút vào loại trữ tình: “Tác phẩm trữ tình không phải chỉ có thơ trữ tình, mặc dù nó là tiêu biểu nhất. Ngoài thơ trữ tình còn có tùy bút, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc,…” (Nguyễn Xuân Nam) [155; 188]. Theo Nguyễn Xuân Nam, trữ tình là yếu tố cơ bản, là cái mạch chính để làm nên diện mạo riêng cho tùy bút. Yếu tố khách quan dù hiện diện ở cấp độ nào cũng không thể tự thân có nghĩa, mà chỉ là nguyên cớ để khơi gợi lên cái hiện thực thứ hai - hiện thực tâm hồn người nghệ sĩ (gần giống vai trò của cảnh, để tức cảnh sinh tình trong thơ trữ tình). Do vậy, trong tác phẩm tùy bút, nhu cầu bộc lộ cảm xúc, giãi bày suy tư của cái tôi cá nhân, chủ quan, được đặc biệt đề cao:
  13. 10 “Tùy bút là một thể loại văn xuôi phóng khoáng. Nhà văn theo ngọn bút mà suy tưởng, trần thuật, nhưng thực chất là thả mình theo dòng liên tưởng, cảm xúc mà tả người, kể việc. Cái hay của tùy bút là qua sự bộc lộ những cảm xúc, nhận xét, suy tưởng của tác giả, làm hiện lên một nhân cách, một chủ thể giàu có về tâm tình, sắc sảo về trí tuệ” [155; 188]. Trong Tam diện tùy bút, trước khi khảo sát ba đỉnh cao tùy bút (Nguyễn Tuân, Nguyễn Ngọc Lan, Đỗ Lai Thúy) - theo cách hiểu tùy bút như một kiểu bút pháp và căn cứ trên những nét đặc trưng về phương thức, mục đích sáng tác - Trần Thanh Hà cũng cho rằng xếp tùy bút vào loại trữ tình là hợp lý hơn cả: “Xét từ gốc gác và bản chất, ký không nhằm thông tin thẩm mỹ mà thông tin sự thật (…). Thế nhưng tùy bút không nhằm thông tin sự kiện mà thông tin tâm trạng. Trong tùy bút, sự thật bên ngoài chỉ chiếm một phần nhỏ mà chủ yếu là chủ thể bộc lộ nội tâm. Vậy xét ở góc độ trần thuật người thật việc thật thì tùy bút đã đứng tách biệt với các loại khác cùng nhóm. Điều này làm cho tùy bút đậm chất trữ tình và chỉ có thể xếp nó vào loại trữ tình, trong khi phóng sự, ký sự, truyện ký… lại được xếp vào loại tự sự” [46; 11]. Kiểu quan niệm này tuy có vẻ khắc phục được những hạn chế của việc xếp tùy bút vào hệ thống các tiểu loại của thể loại ký - “một biến thể của loại tự sự” (Gulaiep) [155; 263], nhưng lại rất khó tránh khỏi một cực đoan khác. 3.1.2. Do chưa được xác định rõ ràng đặc trưng thể loại từ cơ sở lý thuyết, nên công việc khảo sát, bình giá những tác phẩm tùy bút cụ thể đã gặp không ít trở ngại. Có khi sự chệch choạc bộc lộ ngay từ khâu phân định thể loại. Thường, người ta quen gọi Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam là tùy bút, nhưng cũng có lúc nó được xem là bút ký (Đinh Quang Tốn) [7; 81], hoặc “một thứ biên khảo song có nhiều tính chất nghệ thuật” (Phạm Thế Ngũ) [7; 65]. Xung quanh việc xác định thể loại cho tác phẩm Phấn thông vàng của Xuân Diệu cũng có nhiều ý kiến khác nhau: trong khi tác giả gọi tác phẩm của mình là “truyện ý tưởng” [184; 98], Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định đây là “một tập tùy bút tâm tình” [184; 98] thì Lưu Khánh Thơ lại xem là “tập truyện ngắn” [184; 29]. Tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử cũng rơi vào trường hợp tương tự: có người gọi một cách dè dặt là “tập văn xuôi” (Nguyễn Toàn Thắng), nhưng có người lại định danh nó một cách
  14. 11 phức tạp, nhập nhằng hơn: “những bài tùy bút được viết theo thể văn xuôi thi vị hóa (tương tự như thơ văn xuôi)” (Lê Huy Oanh) [33; 359]. Các nhà nghiên cứu cũng khá vất vả trong việc xác định ranh giới giữa tùy bút với các tiểu loại khác của ký (nhất là bút ký): “Bút ký và tùy bút rất gần nhau, nhưng nếu trong tùy bút, nhất là trong tùy bút của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỉ trọng lớn, và do đó tính chất trữ tình thường khá đậm nét, thì trong bút ký việc ghi chép trung thực sự việc được coi trọng hơn (…). Xét về mức độ kết hợp tự sự với trữ tình, về tính chặt chẽ hay phóng khoáng trong tư duy và kết cấu, thì bút ký có thể xem như đứng giữa ký sự và tùy bút” (Nguyễn Văn Hạnh) [54; 100]. Từ góc nhìn của người sáng tác, Chế Lan Viên đề xuất một cách hiểu có vẻ thú vị, nhưng chẳng những không sáng rõ lý thuyết về thể loại chút nào mà còn làm phức tạp thêm vấn đề: “Có người phân biệt rằng tùy bút thiên về nội tâm hơn, còn bút ký thì thiên về tả sự việc bên ngoài. Cũng được. Nhưng bạn nhìn xem. Nhiều tùy bút của Nguyễn Tuân năm nay ở Sông Đà cũng ngồn ngộn sự việc như bút ký vậy. Âu là ta thống nhất bút ký và tùy bút lại thành một danh từ… tùy bút ký” [217; 111]. Trong sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao, (đều do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ấn hành năm 2007), phần khái niệm về thể loại và định hướng tiếp cận các tác phẩm tùy bút (Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường) chưa được trình bày thật sáng rõ, nhất quán. Đơn cử một số điểm chưa hợp lý cụ thể như sau: a. “Bài ký thực chất thuộc thể tùy bút vì hành văn phóng túng, nhân vật chính là cái tôi của tác giả, chất trữ tình rất đậm” [160; 182]. b. “Ai đã đặt tên cho dòng sông ? thực chất thuộc thể tùy bút (…). Qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ta thấy nổi bật lên cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường - tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, say mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế” [161; 167].
  15. 12 c. “Tùy bút thuộc thể ký (…). Tùy theo cái tôi của tác giả mà tùy bút có loại thiên về triết lí, có loại thiên về thông tin khoa học (về văn hóa, văn học, lịch sử hay phong tục), có loại thiên về mô tả phong cảnh, v.v… Cũng có loại thuần túy trữ tình” [160; 163]. Trong quyển Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập một (Nguyễn Văn Đường chủ biên), các tác giả cũng tỏ ra lúng túng, nhầm lẫn khi định nghĩa về tùy bút: “Tùy bút: một loại bút ký ghi chép người thật việc thật, không có cốt truyện, đặc biệt in đậm cảm xúc chủ quan của người viết, đậm chất trữ tình” [39; 419]. Rõ ràng, những cách cắt nghĩa như trên đã làm cho vấn đề trở nên bùng nhùng khó hiểu và dễ nhầm lẫn. Làm sao xác định được tính hệ thống, cấp độ của từng thể loại và mối tương quan giữa tùy bút với ký nếu dựa trên những nhận định mâu thuẫn nhau như thế ? Nếu “bài ký thực chất thuộc thể tùy bút”, “tùy bút thuộc thể ký” và “tùy bút: một loại bút ký”, thì ai biết thể loại nào thuộc thể loại nào ? Và nếu tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? “thực chất thuộc thể tùy bút” thì sao không gọi đúng như thế mà lại xếp nó vào thể loại ký ? Việc phân loại tùy bút cũng chưa nhất quán về tiêu chí: khi thì căn cứ vào đề tài (loại thiên về thông tin khoa học, loại thiên về mô tả phong cảnh), khi lại căn cứ vào cảm hứng sáng tác (loại thiên về triết lý, loại thuần túy trữ tình). 3.1.3. Về đặc điểm nghệ thuật nổi bật, hầu hết các ý kiến đều thừa nhận tùy bút là một thể loại văn xuôi nghệ thuật hết sức tự do, phóng túng và giàu chất trữ tình; ở đó, cái tôi cá nhân của người nghệ sĩ luôn được bộc lộ rõ nét. Theo Trần Thanh Hà, tùy bút là “thánh địa của cái tôi”. Nó khác với thơ văn xuôi không chỉ ở vần, nhịp, điệu thức, mà còn ở sự hòa quyện nhuần nhị giữa tự sự với trữ tình: “Cái hay của tùy bút là say mà tỉnh. Người viết vừa bộc lộ cảm hứng, tâm trạng vừa làm chủ được vấn đề và biết dắt người đọc đến đâu (…). Có thể so sánh lối viết tùy bút như hình ảnh người nghệ sĩ xiếc đi trên dây cần một thế cân bằng giữa hai bờ vực. Có được sự cân bằng ấy mới tạo ra được vẻ đẹp trí tuệ và cả vẻ đẹp tâm hồn” [46; 19].
  16. 13 Đề từ cho tác phẩm Miên man tùy bút của mình, Lý Lan cũng nhấn mạnh đến tính chất tự do, phóng túng trong mạch cảm xúc và suy tưởng ở người viết: “Cái này không phải tự truyện. Cái này là những câu chuyện và suy nghĩ tôi viết ra trong những tình huống nào đó qua những thời gian khác nhau (…). Tôi sẽ gọi nó là tùy bút, để cho những câu chuyện và ý nghĩ nối nhau, không hẳn theo trình tự thời gian, mà theo liên tưởng của cảm xúc và ngẫu nhiên của ngón tay gõ trên bàn phím chữ” [80; 5]. Nhưng tùy bút không phải là thể loại dễ viết, ai cũng viết được. Càng không dễ trở thành một tác gia chuyên sáng tác tùy bút. Cho nên, “Trong văn học Việt Nam từ trước cách mạng tháng Tám đến nay, số lượng nhà văn “đứng” được ở thể tùy bút không nhiều” (Lê Dục Tú) [34; 401]. Ở bài viết Cái tôi trong tùy bút, Nguyễn La có nhận xét: “Đặc điểm trước hết của thể loại tùy bút là sự xuất hiện của cái tôi nhà văn. Tùy bút là viết theo cảm hứng, nghĩ gì viết nấy, viết theo dòng cảm hứng của chính mình - ở ngôi thứ nhất, cái tôi càng hằn rõ bao nhiêu, đậm nét bao nhiêu càng dễ đi vào lòng người bấy nhiêu. Do vậy không phải ai cũng viết được tùy bút, phải là người có tài năng, có độ từng trải, có uy tín văn học thì mới có thể viết được bài tùy bút hay” [77]. Trong bài Nguyễn Tuân và thể tùy bút, Vương Trí Nhàn có dẫn ra một định nghĩa về tùy bút trong Từ điển văn học của Liên Xô để minh họa cho thực tế ấy: “Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo của riêng mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời là những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn - những người đó mới đi vào tùy bút” [129]. Từ định hướng lý luận như thế, ông dành sự quan tâm nhiều hơn tới những yêu cầu khắt khe của tùy bút đối với nhà văn: “Cái khó đầu tiên, mà nhiều người viết văn xuôi thường nhận xét khi nói về tùy bút, là ở tính chất quá tự do của nó. Quả thật trong lịch sử văn học,
  17. 14 không mấy ai đứng được với cái thể văn mà tự nó đã toát ra tùy hứng, tùy tiện ấy. Viết một hai bài thì cũng thấy hay hay, nhưng sống cả đời thì không dám (…). Nó làm người ta mất mặt như chơi. Nó rất kén tác giả” [129]. Ngoài đặc điểm về chủ thể sáng tạo, những bình diện nội dung và nghệ thuật khác của tùy bút (đề tài, cảm hứng, nhân vật, kết cấu, dung lượng, giọng điệu, ngôn ngữ) hầu như ít được các nhà nghiên cứu đề cập tới. Có thể kết luận: dù là một thể loại văn xuôi ghi được nhiều thành tựu xuất sắc ở thời kỳ hiện đại của nền văn chương dân tộc, nhưng trải qua hơn một thế kỷ phát triển, tùy bút vẫn chưa có được sự nghiên cứu thật đầy đủ và thấu đáo. Thực tế cho thấy, sẽ trở nên cứng nhắc và khiên cưỡng nếu cố tình quy tùy bút vào một trong hai loại: tự sự hoặc trữ tình. Tự sự không chỉ là phương tiện và trữ tình chưa hẳn là mục đích duy nhất của các sáng tác tùy bút. Cái tôi của nhà văn xuất hiện trong tùy bút không chỉ để giãi bày cảm xúc mà còn để kể chuyện, tâm tình, đối thoại, suy tư,…Vậy thì tùy bút thuộc loại hình văn học nào, đâu là những đặc trưng thể loại và để phân loại tùy bút phải căn cứ vào những tiêu chí nào ? Thiết nghĩ, đó là những vấn đề thực sự mang ý nghĩa khoa học, cần được quan tâm nghiên cứu triệt để hơn. 3.2. Về tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 Do chưa có những công trình nghiên cứu quy mô, hệ thống, nên các nhận định về tiến trình của tùy bút ở Việt Nam thường xuất hiện lẻ tẻ, rải rác trong các bài báo, tạp chí và những công trình nghiên cứu văn học sử nói chung. Mặt khác, một khi quan niệm cho rằng tùy bút là một tiểu loại của ký đã và đang được nhiều người thừa nhận thì tìm ra những ý kiến, kết luận riêng về nó là điều không dễ dàng. Vì thế, những phát biểu, đánh giá về ký nói chung đôi khi cũng góp phần tăng cường tính hệ thống cho việc nghiên cứu quá trình phát triển của tùy bút. 3.2.1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký. Thể loại ký phát triển rất mạnh trong văn học trung đại Việt Nam. Cho nên, những tác phẩm ký mang hơi hướng, dáng dấp tùy bút đã thấy xuất hiện từ trước thế kỷ XX. Nhưng tùy bút, với cách hiểu là một thể loại văn xuôi hẳn hoi như hiện nay, thì chưa có.
  18. 15 Theo Nguyễn Văn Hạnh, khái niệm tùy bút xuất hiện trong văn học trung đại nhằm định danh cho một cách viết, một kiểu bút pháp tự do phóng túng, nhất là trong việc lựa chọn đề tài: “Khái niệm “tùy bút” được nêu lên trực tiếp trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768 - 1839). Sở dĩ gọi là tùy bút vì những vấn đề được đề cập đến trong tác phẩm rất đa dạng, không theo một trình tự nào, từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử,…” [54; 218]. Trong bài viết Nguyễn Tuân, tên tuổi còn mãi với thể tùy bút, Vương Trí Nhàn cũng đã chỉ rõ: “Do những nguyên cớ khác nhau và trước tiên, do những hạn chế ngặt nghèo đối với tự do của người nghệ sĩ, nền văn xuôi trung cổ Việt Nam chưa thể biết tới thể tùy bút, như ngày nay con người hiện đại quan niệm. Thuở vua Lê chúa Trịnh, tức là những năm tháng hỗn loạn của chế độ phong kiến, cũng đã có một quyển sách mang tên Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ra đời, nhưng chữ tùy bút ở đây không phải là để chỉ thể loại của tác phẩm mà là có liên quan tới cách viết, cũng là cái phóng túng trong công việc cầm bút” [129]. Ở chặng đầu của công cuộc hiện đại hóa nền văn học Việt Nam (1900 - 1930), mặc dù tùy bút chưa tách hẳn ra khỏi thể loại ký nhưng chất trữ tình đã dần đậm đà hơn và bản ngã của người viết cũng bộc lộ rõ nét hơn. Đây được xem là thời kỳ chuyển dạ, là giai đoạn cuối của quá trình sinh thành một thể loại văn học: “Bên cạnh các tác phẩm mang hơi hướng tùy bút, đậm chất trữ tình (các tác phẩm của Tương Phố, Đông Hồ) là các tác phẩm nặng về khảo cứu, biên khảo, ghi chép phong tục (các tác phẩm của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác). Về thể loại, nếu tiểu thuyết là mô phỏng phương Tây thì thành tựu chủ yếu của ký giai đoạn 1900 - 1930 là cố gắng đẩy đến cùng khả năng cách tân thể loại truyền thống để xác lập một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực với ký thác tâm sự. Tuy thành tựu ký giai đoạn này chưa thật sự nổi bật song định hướng này là một tiền đề để cho ký có những bước nhảy vọt ở giai đoạn tiếp theo, giai đoạn ghi một dấu ấn đậm nét của thể ký trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX” (Lê Dục Tú) [34; 377].
  19. 16 3.2.2. Từ 1930 đến 1945, diện mạo và thành tựu độc đáo của thể loại tùy bút mới thực sự được khẳng định. Trong Luận án Tiến sĩ về Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, ở phần điểm qua tiến trình tùy bút Việt Nam, Nguyễn Thị Hồng Hà có nhận định: “Cho đến cuối thập niên thứ ba của thế kỷ XX, những tác phẩm tùy bút thực sự mang hơi thở lẫn dáng dấp hiện đại bắt đầu xuất hiện với những Nguyễn Tuân, Thạch Lam (Hà Nội băm sáu phố phường), Xuân Diệu (Trường ca)” [45; 17]. Trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lê Dục Tú đặc biệt ghi nhận đóng góp của thể loại ký vào giai đoạn văn học 1930 - 1945, với tùy bút là một trong hai “dạng” chủ yếu: “Đây là một giai đoạn phát triển rực rỡ và quan trọng của ký. Chỉ trong vòng chưa đầy 15 năm, ký đã phát triển với tốc độ chưa từng thấy cả về số lượng tác giả lẫn chất lượng tác phẩm. Ký giai đoạn này được thể hiện chủ yếu dưới hai dạng: phóng sự và tùy bút” [34; 377]. Ở phần Lời nói đầu quyển Du ký Việt Nam, các tác giả cũng khẳng định sự hiện diện của thể loại tùy bút, góp phần làm nên sự khởi sắc của văn xuôi hiện đại từ đầu thế kỷ XX: “Đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam chuyển mình theo hướng hiện đại hóa trên cơ sở chịu ảnh hưởng và tiếp thu văn học phương Tây, thì cùng với thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch,… các tác phẩm tùy bút, du ký… cũng rất phát triển” [153; 5]. Trong Văn học - thế giới mở, khi khảo sát quá trình tương tác giữa các thể loại văn học từ 1932 đến 1945, Nguyễn Thành Thi đã xác định vị trí xứng đáng của tùy bút trong hệ thống thể loại văn xuôi thời kỳ hiện đại: “Bức tranh thể loại của nền văn học ở chặng cuối hành trình hiện đại hóa (1932 - 1945) có thể nói là nhộn nhịp, rộn ràng. Trong loại trữ tình đã có thơ trữ tình, tùy bút và văn xuôi trữ tình” [179; 22]. Trong Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Văn học với đề tài Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nguyễn Thị Bích Thủy đã tập trung tìm hiểu những đặc điểm và thành tựu của tùy bút Việt Nam thời kỳ đầu. Qua việc khảo sát các tác giả, tác phẩm tiêu biểu, tác giả của Khóa luận có nhiều cố gắng trong việc khái quát đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của tùy bút giai đoạn 1930 - 1945; từ đó, khẳng định đóng góp quan trọng của nó đối với tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Mặc dù chỉ ở cấp độ Khóa luận tốt nghiệp đại học,
  20. 17 nhưng trong bối cảnh nghiên cứu thể loại tùy bút còn chưa thật đầy đủ như hiện nay, công trình này đã mang ý nghĩa thiết thực, là tài liệu tham khảo cần thiết khi tìm hiểu về tùy bút Việt Nam. Ở bài viết Nguyễn Tuân, tên tuổi còn mãi với thể tùy bút, qua việc phân tích cặn kẽ những tiền đề từ thực tiễn văn học và tâm lý xã hội, Vương Trí Nhàn đã cho thấy sự ra đời của thể loại tùy bút nói chung và sáng tác của Nguyễn Tuân nói riêng vào thập niên 30 của thế kỷ XX là một hiện tượng tất yếu, mang tính lịch sử: “Có điều bản thân cái gọi là thể ký cũng là một không gian rộng rãi, sau những thể tài nghiêng về sự ghi chép khách quan như du ký, phóng sự nói trên, cũng ngày càng nổi lên cái nhu cầu của cả người viết lẫn người đọc đối với thể tài mà ở đó, cái phần chủ quan của người viết hằn rõ, khiến cho sự phản ánh khách quan quanh co hơn, qua sự khúc xạ rắc rối hơn, song lại mang tới niềm vui kỳ lạ cho bạn đọc. Tùy bút của Nguyễn Tuân ra đời trong hoàn cảnh đó (…). Vậy là tùy bút của Nguyễn Tuân có những liên hệ lịch sử của nó với sự phát triển của tư duy văn xuôi đương thời” [129]. Trước khi khảo sát những ảnh hưởng từ triết học phương Tây đối với tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân, ở bài viết Có gì chung giữa Nguyễn Tuân và Andre Gide ?, Hoàng Nhân ghi nhận: “Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là nhà văn viết tùy bút đặc sắc, xen lẫn các yếu tố hiện thực và lãng mạn. Nhiều tác phẩm thể hiện cái tôi ngang tàng, khinh bạc của tác giả, chán ghét cuộc đời tầm thường xấu xa, phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ” [119; 197]. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã xem Nguyễn Tuân là “nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư tưởng”, là người có “lối hành văn đặc biệt (…) và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi, lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái của tâm hồn” [140; 415]. Cũng theo Vũ Ngọc Phan, những sáng tác của Nguyễn Tuân ở giai đoạn 1930 - 1945 “dầu không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút chẳng ít thì nhiều” [140; 438].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2