intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Thị trường các công cụ phái sinh trên thế giới và giải pháp phát triển tại Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:199

268
lượt xem
52
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến các công cụ phái sinh ngoại hối, phân tích thực trạng phát triển của các thị trường công cụ phái sinh ngoại hối trên thế giới để từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường này tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Thị trường các công cụ phái sinh trên thế giới và giải pháp phát triển tại Việt Nam

  1. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các công cụ  phái sinh (derivatives) là một công cụ  tài chính có dòng tiền  trong tương lai phụ  thuộc vào giá trị  của một hay một số  tài sản khác (Hull,  2012). Trên thế giới các công cụ phái sinh manh nha hình thành từ rất lâu, nhưng  vào khoảng những những 1970, các công cụ này bắt đầu trở  nên phổ  biến và có  những bước phát triển mạnh mẽ  cho đến nay.  Theo số  liệu thống kê của Ngân  hàng thanh toán quốc tế  BIS năm 2013, giá trị  giao dịch của thị  trường phi tập   trung đạt 710.182 tỷ USD, gấp hơn 10 lần so với quy mô thị trường tập trung với   64.627,8 tỷ USD. Thị trường công cụ  phái sinh được đánh giá là thị  trường hoạt   động nhộn nhịp nhất trên thế  giới với doanh số giao dịch lên đến hàng nghìn tỷ  USD mỗi ngày. Chỉ  tính riêng thị  trường ngoại hối, giá trị  giao dịch trung bình  hàng ngày năm 2013 đã đạt 6.671 tỷ  USD, chiếm gần 19% doanh số  toàn thị  trường. Công cụ  phái sinh ra đời trước hết nhằm mục đích quản trị  rủi ro về  giá   Trong giai đoạn đầu khi mới xuất hiện, tài sản cơ sở của các hợp đồng phái sinh   chủ  yếu là hàng nông sản như  gạo, ngô, bông,... và  mục đích đầu tiên của các  công cụ phái sinh là nhằm phòng ngừa rủi ro về biến động giá của các tài sản cơ  sở này. Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, ngày nay hàng hóa  cơ sở của các giao dịch phái sinh đã trở nên phong phú và đa dạng hơn rất nhiều,   từ  nguyên vật liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất như  dầu mỏ, thép, kim loại   màu, bông,... đến các sản phẩm trên thị  trường tài chính như  ngoại tệ, chứng  khoán, chỉ số chứng khoán, lãi suất... Do vậy, các công cụ phái sinh có thể được   sử  dụng nhằm mục đích kinh doanh chênh lệch giá, đầu tư  và cả  mục đích đầu   cơ. Ngoài ra, các công cụ phái sinh được giao dịch trên thị trường là nguồn thông  tin hiệu quả hình thành giá của tài sản cơ sở. Khi các công cụ phái sinh được giao  dịch trên thị  trường sẽ  hình thành các mức giá của chính các công cụ  này và trở  thành nguồn thông tin hiệu quả  trong việc xác định giá của tài sản cơ  sở. Tính  thanh khoản và giá trị giao dịch của thị trường phái sinh trên thế giới rất lớn nên  
  2. 2 khó để một thế lực kinh tế nào có thể thao túng giá nên các thông tin giá cả của   thị trường rất đáng tin cậy, từ đó sẽ giúp nền kinh tế giúp cân đối giữa sản xuất  và tiêu thụ. Bên cạnh đó, công cụ  phái sinh giúp tăng cường hiệu quả  của thị  trường tài chính nói chung thông qua việc các bên tham gia thị  trường có cơ  hội  tiếp cận thông tin một cách công bằng, ngăn chặn được tình trạng độc quyền hay  lũng đoạn giá. Đấy cũng là lý do vì sao 92% trong số  500 công ty lớn nhất thế  giới đã sử dụng các công cụ  phái sinh để  quản trị  rủi ro về  giá (Deutsche Borse  AG, 2008) và nhiều nước trên thế  giới đã ban hành nhiều chính sách và các quy  định nhằm quản lý và phát triển các giao dịch này. Trong nền kinh tế thị trường,   các yếu tố về giá cả, tỷ giá, lãi suất sẽ biến động nhiều hơn theo quy luật cung  cầu và do vậy các rủi ro sẽ xẩy ra nhiều hơn. Khi mà các rủi ro về biến động giá  có thể xẩy đến bất cứ lúc nào với các nhà đầu tư và ngày càng gia tăng trong quá  trình hội nhập, thì phát triển thị trường các công cụ phái sinh được xem như là lá  chắn quan trọng để hạn chế rủi ro của thị trường đối với những nhà đầu tư.  Trong khi đó tại Việt Nam, khái niệm công cụ phái sinh chưa thực sự phổ  biến và nhiều nhà đầu tư  cá nhân, doanh nghiệp cũng chưa hiểu rõ về  các công   cụ này. Một số người cho rằng, các công cụ  phái sinh chỉ toàn mang đến lợi ích  như: bảo hiểm rủi ro về giá hàng hóa, công cụ để đầu tư và tìm kiếm lợi nhuận.   Tuy nhiên, số khác lại cho rằng, tham gia thị trường này giống như đánh bạc, chủ  yếu là nhờ  vào vận may. Tại Việt Nam thị  trường công cụ  phái sinh hầu như  chưa phát triển, mới chỉ manh nha hình thành  ở  một vài tài sản cơ  sở  như  hàng   nông sản (cà phê, cao su) và ngoại hối. Đối với hàng nông sản, các giao dịch phái  sinh trên thế  giới chủ  yếu thực hiện qua các sàn giao dịch, nhưng hiện nay Sàn  giao dịch hàng hóa Việt Nam mặc dù đã được thành lập từ  năm 2010 vẫn chưa   thực hiện được vai trò là trung gian cho các nhà sản xuất, xuất khẩu gặp gỡ nhau   để  thỏa mãn nhu cầu về  phòng vệ  rủi ro giá cả  hàng hóa; cũng chưa trở  thành  kênh đầu tư  hiệu quả  cho các nhà đầu tư. Các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng  nông sản của Việt Nam vẫn phải thực hiện nghiệp vụ phái sinh thông qua các  sàn giao dịch hàng hóa lớn của thế  giới. Còn đối với những doanh nghiệp có   nguồn thu chi bằng ngoại tệ lại gặp phải rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái, do  
  3. 3 vậy, nếu thị  trường công cụ  phái sinh ngoại hối tại Việt Nam phát triển, các  doanh nghiệp này sẽ được cung cấp đầy đủ các công cụ phòng ngừa rủi ro khi có  nhu cầu.  Theo Bodnar (2011), khi  đối mặt với rủi ro ngoại hối,  tỷ  lệ  doanh   nghiệp sử  dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro vẫn chiếm tỷ trọng cao   nhất (trên 70%).  Ngược lại, tài sản cơ sở là ngoại hối được giao dịch nhiều trên thị trường   phi tập trung nhưng doanh số vẫn còn khá khiêm tốn với các công cụ phổ biến là   kỳ  hạn và hoán đổi. Một vài công cụ  phái sinh khác như  quyền chọn ngoại tệ­   nội tệ được đưa vào áp dụng thí điểm trong thời gian ngắn và dừng lại cho đến   nay. Các doanh nghiệp Việt Nam không có cơ hội để được sử dụng các công cụ  quản trị rủi ro ngoại hối hữu hiệu mà nhiều doanh nghiệp trên thế  giới đang sử  dụng. Sự kém phát triển của thị trường công cụ phái sinh là một thách thức không  nhỏ đối với các NHTM và doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình mở cửa và hội  nhập vào thị  trường tài chính thế  giới. Vì vậy, vấn đề  phát triển thị  trường các  công cụ phái sinh Việt Nam hiện nay trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Như  vậy, nếu không phát triển thị  trường công cụ  phái sinh, các doanh  nghiệp của Việt Nam sẽ mất đi cơ hội được sử dụng các công cụ hữu hiệu trong   việc phòng ngừa  rủi ro về  biến động giá cả  hàng hóa, biến động tỷ  giá và lãi  suất như các doanh nghiệp trên thế giới đang áp dụng. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả chọn đề tài  “Thị trường các  công cụ  phái sinh  trên  thế  giới và giải pháp phát triển tại Việt Nam”   làm  Luận án tiến sĩ. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu  Mục tiêu nghiên cứu của đề  tài là trên cơ  sở  hệ  thống hóa các vấn đề  lý  luận liên quan đến các công cụ  phái sinh   ngoại hối, phân tích  thực trạng  phát  triển của các thị trường công cụ  phái sinh ngoại hối trên thế giới để từ đó rút ra  được bài học kinh nghiệm và đề  xuất các giải pháp nhằm phát triển thị  trường   này tại Việt Nam.
  4. 4 Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đặt ra các nhiệm vụ cơ bản sau đây: ­ Hệ thống lại cơ sở lý luận liên quan đến các công cụ phái sinh ngoại hối  và thị trường công cụ phái sinh ngoại hối, các điều kiện để phát triển thị trường  CCPS ngoại hối tại Việt Nam. ­ Phân tích thực trạng phát triển của thị  trường  CCPS ngoại hối trên thế  giới, đặc biệt có phân tích điển hình thị trường CCPS ngoại hối của một số nước  cụ thể (bao gồm cả thị trường còn phát triển non trẻ đến thị trường đã có bề dày   hoạt động); phân tích thực trạng phát triển thị  trường CCPS ngoại hối của Việt   Nam  và  đánh giá  những kết  quả   đạt được  cũng  như  hạn  chế   và  đưa  ra  các  nguyên nhân cho thực trạng này. ­ Dự  báo và xác định xu hướng phát triển của các thị  trường CCPS nói   chung và thị  trường CCPS ngoại hối trên thế  giới, quan điểm về  phát triển thị  trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam; đồng thời trên cơ sở kết quả khảo sát các   điều kiện phát triển thị  trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam  tác giả  sẽ đưa ra  các giải pháp phát triển thị trường hơn nữa thị trường CCPS ngoại hối. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Trong Luận án tiến sĩ, tác giả giới hạn đối tượng  nghiên cứu là thị  trường công cụ  phái sinh đối với tài sản cơ  sở  là ngoại hối và   trên cơ sở lý luận, khái quát hóa sự hình thành và phát triển thị trường CCPS trên   thế  giới để  tập trung nghiên cứu sự  hình thành và phát triển thị  trường CCPS   ngoại hối Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu:  Do tài sản cơ sở trong các hợp đồng phái sinh đa dạng, phong phú nên nội   dung nghiên cứu về  thị  trường các CCPS cũng rất rộng. Để  nội dung đề  tài có  tính tập trung, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thị trường CCPS ngoại hối.   Lý do, nhu cầu sử dụng CCPS ngoại hối có thể phát sinh trong các doanh nghiệp   thuộc bất kỳ lĩnh vực nào (xuất nhập khẩu, thương mại, đầu tư, sản xuất, dịch  vụ). Trong khi đó, thị  trường  CCPS ngoại hối tại Việt Nam  đang hình thành 
  5. 5 nhưng chưa phát triển. Mặt khác, theo nghiên cứu của Bodnar (2011), trong lĩnh  vực ngoại hối, các doanh nghiệp có xu hướng sử  dụng nhiều các công cụ  phái  sinh này để phòng vệ rủi ro hơn là sử dụng các biện pháp nghiệp vụ khác. Về  mặt thời gian, phần thực trạng thị trường CCPS thế giới và tại Việt  Nam tác giả sử dụng liệu từ năm 2008 cho đến năm 2014. Tuy nhiên, tùy theo yêu  cầu của một số nội dung cụ thể như phần phân tích về lịch sử hình thành và phát   triển thị  trường công cụ  phái sinh trên thế  giới và Việt Nam, dữ  liệu được sử  dụng từ  khi các thị  trường mới được thành lập. Một số  số  liệu thống kê được  dùng trong bài có thể  khác nhau nhưng không đáng kể  và không làm  ảnh hưởng  đến việc phân tích sự  phát triển của toàn thị  trường. Sự  chênh lệch giữa các số  liệu này là do việc làm tròn số trong quá trình thống kê và phân tích của tác giả. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ  sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để  hoàn thành đề  tài luận án tiến sĩ này, tác giả  đã sử  dụng kết hợp nhiều phương   pháp nghiên cứu, cụ thể như sau: ­ Tác giả  thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn đáng tin cậy như  các đề  tài nghiên cứu khoa học, kỷ yếu hội thảo, bài đăng tạp chí, các nghiên cứu của   các tổ  chức, cá nhân trong và ngoài nước, đồng thời tham gia các hội thảo trong   nước và quốc tế  liên quan đến việc phát triển thị  trường CCPS tại Việt Nam   nhằm thu thập thông tin và số liệu về lịch sử hình thành và thực trạng phát triển   của thị trường CCPS trên thế giới và Việt Nam.  ­ Thực hiện việc điều tra, khảo sát thực tế thông qua mẫu phiếu khảo sát   đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Tp. Hồ  Chí Minh, Bình Dương và Đồng  Nai để thu thập thông tin, lấy ý kiến đánh giá về việc sử dụng các CCPS tại các  doanh   nghiệp   này.   Đối   tượng   trả   lời   phiếu   khảo   sát   là   các   cán   bộ   quản   lý  (trưởng/phó phòng ban, Giám đốc bộ  phận, Giám đốc công ty) chịu trách nhiệm  mảng hoạt động tài chính­ kinh doanh của doanh nghiệp hoặc cán bộ, nhân viên   các phòng ban XNK, kinh doanh, tài chính. Tác giả  đã tiến hành khảo sát 135  doanh nghiệp trong các lĩnh vực như  xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, xây  
  6. 6 dựng và đã thu về được 120 phiếu trả  lời, trong đó có 105 phiếu trả  lời hợp lệ.   Dữ  liệu trong 105 phiếu trả  lời hợp lệ  này đã được tác giả  dùng để  phân tích  bằng công cụ phân tích định lượng. ­ Phỏng vấn trực tiếp hoặc qua điện thoại, email các chuyên gia về  công   cụ  phái sinh tại một số  Ngân hàng thương mại Việt Nam như  Vietcombank,   Maritimebank, Techcombank, Vietinbank, BIDV, VIB về việc cung c ấp các sản   phẩm công cụ  phái sinh ngoại hối, những thuận lợi khó khăn, những bất cập  trong việc triển khai các giao dịch phái sinh ngoại hối tại các ngân hàng. ­ Sử  dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như  phương pháp   thống kê, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp đối chiếu – so sánh để  phân tích, đánh giá thực trạng thị trường CCPS trên thế giới trong mối liên hệ so   sánh, đối chiếu các đối tượng được phân tích với nhau; phân tích các điều kiện  phát triển một số thị trường CCPS trên thế  giới và Việt Nam nhằm đề  xuất các   giải pháp có tính khả thi giúp phát triển thị trường CCPS tại Việt Nam.   Trong phần dự báo quy mô thị trường công cụ phái sinh toàn cầu, tác giả  đã sử dụng mô hình ARIMA và phần mềm SPSS để xử  lý chuỗi số liệu về quy   mô thị trường thông qua chỉ tiêu về giá trị danh nghĩa của các hợp đồng đang còn  hiệu lực từ năm 1998 đến năm 2014. Số liệu thứ cấp tác giả tổng hợp từ các báo  cáo (báo cáo quý, báo cáo năm, báo cáo 3 năm) của Ngân hàng thanh toán bù trừ  BIS. 5. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài Các nghiên cứu ở nước ngoài Trên thế  giới đã có các một số  công trình nghiên cứu về  CCPS và thị  trường CCPS ở nhiều khía cạnh khác nhau: Nghiên cứu về lợi ích và cả những tác động tiêu cực của CCPS nói chung  đối  với thị  trường tài chính cũng như  toàn bộ  nền kinh tế   có các tác giả  như  Randall   (2001),   Eric   &   Junghoon   (2005),   Chow,   Li   and   Liu   (2005)   hay   Anna  (2009). Các công trình này  tập trung  nghiên cứu nguyên nhân gây ra các cuộc 
  7. 7 khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997­1998, cuộc khủng hoảng tài chính năm   2008 và một số  cuộc khủng hoảng kinh tế tại một số nước khác và vai trò của   CCPS trong các cuộc khủng hoảng này. Các nghiên cứu này không đề  cập riêng  đến CCPS ngoại hối. Một số  các tác giả  khác lại nghiên cứu các  ứng dụng thực tiễn của công  cụ  phái sinh trong phòng vệ  rủi ro thông qua phân tích các  ảnh hưởng của công   cụ  phái sinh đối với rủi ro và giá trị  của doanh nghiệp, như  Sohnke, Gregory và   Jennifer (2009), Peter M. Garber (1998), Mark (1995) hay Rene (2004). Trong m ột   số   nghiên   cứu   khác   của  Söhnke,   Gregory   và   Frank   (2006),   Bodnar,   Gregory,  Richard và Charles W (1995), Bodnar, Gregory và Richard (1996), Bodnar, Gordon  và   Gunther   Gebhardt   (1998),   Bodnar.   và   Giambona   (2012),   Downi   David,  McMillanvà Ed Nosal (1996) hay Yahagida Munehiko và Koji Inui (1995) phân tích  về tình hình sử dụng các công cụ phái sinh cũng như thái độ về việc sử dụng các   công cụ  phái sinh của các doanh nghiệp trên thế  giới, đặc biệt nhấn mạnh các  doanh nghiệp tại Mỹ, Đức, Canada, Nhật Bản. Tuy vậy, chưa có nghiên cứu nào  đề  cập cụ  thể  và trực tiếp về  tình hình sử  dụng các  CCPS, đặc biệt là  CCPS  ngoại hối tại Việt Nam. Các nghiên cứu này cũng không đề  cập đến điều kiện   để phát triển thị trường CCPS. Liên quan đến các điều kiện phát triển thị  trường CCPS, trong   Báo cáo  nghiên cứu  “Derivatives market development”  ở  dạng sách trắng, do Tổ  chức   Giải   pháp   thị   trường   Aberta   (Aberta   Market   solutions   Ltd)   của   Vancouver,   Cananda  ấn hành vào năm 2003 có đã đề  cập đến một số yếu tố chủ  yếu trong   xây dựng một thị  trường phái sinh mới như  các thành phần tham gia thị  trường,   nguồn luật điều chỉnh, vai trò của việc tạo ra các CCPS mới. Tuy nhiên, nghiên  cứu mới chỉ  dừng lại  ở việc mô tả  sơ  lược các yếu tố  tạo nên thị  trường, chứ  chưa đề  cập và phân tích sâu đến các điều kiện đó.  Trong báo cáo nghiên cứu  The world’s commodity exchanges: past ­ present – future của UNCTAD (2006) có  đề  cập đến các điều kiện thành lập Sàn giao dịch, tuy nhiên, chưa nhấn mạnh   đến các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của các Sàn giao dịch, đặc biệt là các Sàn  giao dịch CCPS ngoại hối. Một số nghiên cứu khác đề cập đến các khía cạnh liên 
  8. 8 quan trực tiếp đến sự phát triển thị trường CCPS, đó là yếu tố về hệ thống pháp  luật điều chỉnh CCPS, như  Paul Latimer (2008) nghiên cứu về  các quy định đối  với các giao dịch phái sinh OTC tại Úc; Hui (2012) phân tích quá trình phát triển  thị trường CCPS cũng như sơ lược về các quy định pháp lý với thị trường CCPS  tại Trung Quốc. Đây là những các công trình nghiên cứu nổi trội về  các vấn đề  liên quan  đến nội dung của luận án mà tác giả tiếp cận được, nhưng trong số này chưa có   nghiên cứu nào đề  cập toàn diện đến các điều kiện phát triển thị  trường CCPS   nói chung và thị  trường CCPS ngoại hối nói riêng tại Việt Nam, đặc biệt trong   thời kỳ mở cửa và hội nhập với thị trường tài chính thế giới. 5.2 Các nghiên cứu ở Việt Nam Tại Việt Nam cũng đã có một số các nghiên cứu về  thị  trường CCPS  và   CCPS ngoại hối, như  Hồ Thúy Ái (2007) phân tích các ứng dụng công cụ ngoại  hối phái sinh vào việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá, Việt Bảo (2007) phân tích về tình  hình phát  triển nghiệp vụ  tài chính phái sinh  ở  Việt Nam, Nguyễn Thị  Thanh   Hương (2007) đề cập đến giải pháp kế toán nhằm phát triển thị trường công cụ  tài chính phái sinh  ở  Việt Nam, Nguyễn Thúy (2008) bàn về  việc phát triển các  công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam, hay Phạm Thu Thủy (2011)  nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường công cụ phái sinh ở các nền kinh tế  mới nổi và đưa ra những định hướng cho thị  trường Việt Nam,  Đinh Thị  Thanh  Long (2014) đề cập đến thực trạng giao dịch phái sinh ngoại hối tại Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu kể  trên chỉ  tập trung vào một số khía  cạnh cụ thể và các giải pháp mang tính chất gợi ý trong việc phát triển thị trường   CCPS tại Việt Nam, mà chưa phân tích sâu và toàn diện về thực trạng phát triển   thị trường CCPS của Việt Nam cũng như phân tích và đánh giá các điều kiện để  phát triển thị trường này.  Một số nghiên cứu khác chỉ mới dừng lại ở cấp độ là Luận văn thạc sỹ và   khóa luận tốt nghiệp đại học, như  Bùi Thị  Xuân (2010) bàn về   ứng dụng các 
  9. 9 công cụ ngoại hối phái sinh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,  Lê Thị Khánh  Phương (2009) phân tích các biện pháp phát triển công cụ  phái sinh trong phòng   ngừa rủi ro tỷ giá tại các NHTM Việt Nam, Vũ Trần Thanh Long (2012) tìm hiểu  về một số thị trường chứng khoán phái sinh trên thế giới và khả năng áp dụng tại  Việt Nam.  Đề tài NCKH cấp cơ sở của Huỳnh Thị Hương Thảo (2014) cũng chỉ bàn  về việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh trong quản lý rủi ro tín dụng tại các  ngân hàng thương mại  ở  Việt Nam chứ  không đi sâu vào phân tích thị  trường  CCPS ngoại hối cũng như  các điều kiện hình thành và phát triển thị  trường này  tại Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo  Phát triển hoạt động và mở rộng mặt hàng giao   dịch qua Sở  giao dịch hàng hóa trong thời kỳ  hội nhập, Bộ  Công Thương phối  hợp với MUTRAP, 2012 lại tập trung vào phát triển thị  trường CCPS hàng hóa  thông qua việc mở  rộng danh mục mặt hàng được giao dịch qua Sở  giao dịch.   Nghiên cứu của Phạm Nguyễn Hoàng (2011) đã đề cập đến  điều kiện hình thành   và phát triển thị trường tương lại tại Việt Nam,  tuy nhiên, chỉ mới nêu các điều  kiện để phát triển thị trường đối với hợp đồng tương lai, bao gồm (1) điều kiện   về  thể  chế, luật pháp, (2) điều kiện về  kinh tế­ tài chính, (3) điều kiện về  kỹ  thuật. Kết quả nghiên cứu của Phạm Nguyễn Hoàng (2011) và của Tổ chức Giải   pháp thị  trường Aberta, Canada (2003) là cơ  sở  và gợi ý quan trọng về các điều  kiện phát triển thị trường CCPS nói chung; trên nền tảng đó, tác giả đã lựa chọn   và phân tích kỹ các điều kiện quan trọng quyết định đến sự phát triển thị trường   CCPS ngoại hối của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập  vào thị trường tài chính toàn cầu.  Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của tác giả, qua các công trình nghiên   cứu kể trên chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ  cả  về  lý thuyết lẫn thực  tiễn áp dụng các CCPS ngoại hối trên thế giới và Việt Nam; các nghiên cứu trên  chưa đánh giá toàn diện các điều kiện phát triển của thị trường các  CCPS ngoại  hối  ở  Việt Nam trong tương quan so sánh, đối chiếu với sự  các điều kiện phát  triển của thị trường CCPS ngoại hối của một số nước trên thế giới. 
  10. 10 6. Bố cục của đề tài: Nhằm giải quyết các mục tiêu đề  ra, đề  tài được bố  cục theo 3 chương   (chưa bao gồm Lời mở đầu và kết luận, nội dung): Chương 1: Cơ sở lý luận về  công cụ  phái sinh và thị  trường các công cụ  phái sinh ngoại hối Chương 2: Thực trạng phát triển thị  trường các công cụ  phái sinh ngoại  hối trên thế giới và Việt Nam Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thị trường các công cụ  phái sinh ngoại hối tại Việt Nam 7. Những điểm mới của luận án Nhằm giải quyết mục tiêu đề  ra của Luận án, nghiên cứu của tác giả  trong Luận án tiến sĩ này đã đạt được một số điểm mới như sau: ­ Hệ  thống lại cơ sở  lý luận về  CCPS và CCPS đối với tài sản cơ  sở  là   ngoại hối, đưa ra được các định nghĩa cụ  thể  gắn liền với các dạng thức của  CCPS ngoại hối đồng thời phân tích và đưa ra được các điều kiện để  phát triển   thị  trường CCPS ngoại hối trong bối cảnh Việt Nam mở  cửa v à  gia nhập thị  trường tài chính toàn cầu nói chung và ngoại hối nói riêng. ­ Phân tích và đánh giá được tình hình phát triển chung của thị  trường   CCPS trên thế giới và thị trường CCPS ngoại hối nói riêng (có phân tích 3 trường   hợp điển hình là Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc), qua đó rút ra được những bài   học kinh nghiệm về phát triển thị trường CCPS cho Việt Nam. Tác giả không chỉ  phân tích về thực trạng phát triển CCPS ngoại hối của Việt Nam mà còn đánh giá  được các điều kiện để phát triển thị trường này dựa trên các phân tích so sánh và  nghiên cứu thực tiễn qua kết quả khảo sát các DN và phỏng vấn các chuyên gia   trong lĩnh vực phái sinh tại các NHTM của Việt Nam. ­ Dựa trên đánh giá các điều kiện phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại   Việt Nam, tác giả  đã đề  xuất các giải pháp cụ  thể, chặt chẽ  và có tính khả  thi  theo các điều kiện đó để nhằm phát triển thị trường CCPS ngoại hối, đặc biệt là 
  11. 11 các giải pháp này gắn với bối cảnh Việt Nam đang gia nhập vào thị  trường tài  chính thế giới nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng.  
  12. 12 CHƯƠNG 1: CƠ  SỞ  LÝ LUẬN VỀ  CÔNG CỤ  PHÁI SINH VÀ THỊ  TRƯỜNG CÔNG CỤ PHÁI SINH NGOẠI HỐI 1.1 Công cụ phái sinh 1.1.1 Lịch sử hình thành công cụ phái sinh Mặc dù được xem là sản phẩm của nền kinh tế­ tài chính hiện đại, nhưng   công cụ  phái sinh manh nha hình thành từ  rất lâu đời. Các hợp đồng tương lai  hàng hóa được cho là xuất hiện đầu tiên tại Nhật Bản vào khoảng những năm   1700. Những người nông dân có thể mang gạo đến các thành phố lớn như Osaka,   nơi mà gạo được lưu trữ  và bán tại những cuộc đấu giá. Những nhà buôn được   cấp phép sẽ  đấu giá và người thắng cuộc sẽ  bán gạo và nhận được một biên   nhận để  sau đó có thể  đổi sang tiền mặt. Dần dần, những phiếu biên nhận này   trở  thành vật được giao dịch chính. Nhà buôn mua bán các giấy biên nhận này   trên một thị  trường riêng và gạo trở  thành tài sản cơ  sở. Đến khoảng năm 1730,  sàn giao dịch gạo Dojima tại Nhật được hình thành, cho phép tiến hành mua bán  gạo theo hai hình thức: giao ngay và kỳ hạn. Với hình thức giao ngay, các bên sẽ  tiến hành giao nhận hàng hóa và biên nhận hàng sẽ  được đổi thành tiền trong   vòng 4 ngày. Với hình thức giao sau, các giao dịch sẽ  được lưu vào sổ  sách tại  phòng thanh toán bù trừ. Kỳ hạn của các hợp đồng gạo này tối đa là 4 tháng. Các  điều khoản của hợp đồng này cũng đã được tiêu chuẩn hóa, như  số lượng, chất   lượng và kỳ hạn hợp đồng tối đa là 4 tháng. Các hợp đồng này được thanh toán  theo một trong hai cách: thanh toán bù trừ  bằng tiền mặt khi đáo hạn  hoặc ký   một hợp đồng đối ứng. Tuy nhiên, sau hơn 200 năm hoạt động, thị  trường đóng   cửa vào năm 1937. Vào thập niên 40 thế kỷ XIX, Chicago đã trở thành một trung tâm thương  mại lớn của Hoa Kỳ, do vậy, những người nông dân trồng lúa mì từ  khắp nơi  đều quy tụ  về Chicago để bán sản phẩm của họ. Nếu giá cả  tăng lên, nông dân  luôn sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất, nhưng ngược lại nếu giá cả giảm sút sẽ  xảy  ra hiện tượng bán tống bán tháo hàng loạt dẫn đến những trường hợp không đủ  nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Ngoài ra, sự tồn tại những phương pháp nghèo 
  13. 13 nàn trong việc cân và phân loại hàng hóa đã đẩy người nông dân vào tình thế phải  chịu sự định đoạt của các thương nhân. Cũng tương tự, những thương nhân luôn   đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn do biến động trong giá cả gây nên. Một cơ chế  để có thể giảm thiểu hay hạn chế những rủi ro trên là nhu cầu bức thiết. Bằng   những thoả thuận trước về giá cả, người mua cũng như người bán có thể phòng   ngừa được những rủi ro do biến động giá cả  trong tương lai gây nên. Nhờ  đó,  nông dân xác định được một mức giá chắc chắn cho lượng hàng họ sẽ sản xuất   ra mà không phải lo ngại về tình trạng nguồn cung quá lớn sẽ dẫn đến giảm giá,  gây thiệt hại cho đời sống của họ. Những thương nhân đóng vai trò trung gian   giữa nông dân và người tiêu dùng cuối cùng sẽ không còn phải lo ngại về những  biến động bất lợi của giá cả khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với   mức giá thấp không được dự tính trước. Năm   1848,   Sở   giao   dịch   thương   mại   Chicago   (CBOT)   được   thành   lập  nhằm mục đích trước hết là quy tụ các nông dân và thương nhân trong buôn bán  ngũ cốc. Sở đã tiêu chuẩn hóa khối lượng và chất lượng sản phẩm giúp các bên   dễ dàng trong việc định giá và thúc đẩy hoạt động mua bán hàng hóa. Chỉ sau đó  một vài năm, loại hợp đồng future đầu tiên, hợp đồng giao sau (to­arrive contract)  được ra đời. Hợp đồng "to­arrive" này cho phép bên bán được giao hàng sau tại  một thời điểm nhất định đã được thỏa thuận trước trong hợp đồng. Ngay lập   tức, loại hợp đồng này đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu cơ, giao  dịch với loại hợp đồng này hấp dẫn hơn là chỉ mua bán hàng hóa đơn thuần, bởi  lẽ người ta có thể mua đi bán lại các hợp đồng này trước đến hạn.  Vào   năm   1973,   Sở   giao   dịch   quyền   chọn   Chicago   (The   Chicago   Board  Options Exchange­ CBOE) bắt đầu giao dịch các hợp đồng quyền chọn mua (call   options) đối với 16 loại cổ phiếu. Thực tế thì trước đó các loại hợp đồng quyền   chọn   đã   được   giao   dịch,   nhưng   chỉ   đến   năm   này   Sở   giao   dịch   quyền   chọn   Chicago (CBOE) mới áp dụng thành công các mẫu hợp đồng đã được Sở  tiêu  chuẩn hóa. Còn hợp đồng quyền chọn bán (put options) bắt đầu được giao dịch   trên sàn từ năm 1977. Giờ đây Sở giao dịch quyền chọn Chicago cung cấp các hợp  đồng quyền chọn với hơn 1.000 loại cổ  phiếu và nhiều chỉ  số  cổ  phiếu khác 
  14. 14 nhau. Quyền chọn tiền tệ lần đầu tiên được đưa vào giao dịch tập trung trên thị  trường chứng khoán Philadenphia vào tháng 12 năm 1982. Đó là các quyền chọn  Bảng Anh.  Các quyền chọn tiền tệ  cũng được  kinh doanh trên Sở  giao dịch   quyền chọn Chicago (Chicago Board Options Exchange) và Sở giao dịch tài chính  tương lai Quốc tế  ở Luân Đôn (London International Financial Futures Exchange   – LIFFE). Cũng giống như hợp đồng tương lai, các hợp đồng quyền chọn giờ đây   cũng trở nên phổ biến và được giao dịch ở nhiều sàn giao dịch trên khắp thế giới.  Từ  các tài sản cơ  sở đầu tiên chỉ  là nông sản, đến nay, có thể  nói bất kỳ  một loại hàng hóa, dịch vụ nào cũng có thể  trở thành tài sản cơ  sở  của các giao   dịch phái sinh. Tài sản cơ sở của các hợp đồng quyền chọn có thể là ngoại hối,   các hợp đồng tương lai, các loại chứng khoán hay chỉ  số  chứng khoán (Hull,  2009). Ngày nay, các công cụ  đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản   ban đầu, nó trở thành công cụ tài chính để phòng vệ rủi ro biến động giá cả hàng   hóa, lãi suất, chứng khoán và tỷ giá.  1.1.2 Khái niệm Trên thế  giới, phái sinh là một khái niệm quen thuộc đối với nhiều nhà   đầu tư, đầu cơ, các tổ  chức tài chính và phi tài chính. “Phái sinh” được dịch từ  nguyên gốc tiếng Anh là “derivative”, có nghĩa là “bắt nguồn từ” hay “phát sinh   từ”.  Phái sinh được định nghĩa là một công cụ  tài chính mà giá trị  của nó phụ  thuộc vào (bắt nguồn từ) giá trị của các biến cơ sở hay tài sản cơ sở (underlying  assets) (Hull 2012), là một công cụ  tài chính có khoản thu nhập trong tương lai  được phát sinh từ giá trị của các tài sản cơ sở (Rene 2004, tr.3) hay là các công cụ  tài chính mà khoản thu nhập của chúng sẽ bắt nguồn từ khoản thu nhập của các   công cụ tài chính khác (Don 2009). Trong trường hợp này “phái sinh” được coi là   các công cụ.  Có tác giả cho rằng phái sinh là một loại chứng khoán phát sinh giá trị của   nó từ  giá trị  hoặc khoản lãi của các tài sản hay chứng khoán khác (CFA 2009,  tr.159) và là các tài sản mà giá trị của chúng được xác định bởi giá trị của một số 
  15. 15 tài sản khác, gọi là tài sản cơ  sở  (KPMG 2009, tr.3). Còn theo Philippe Jorion  (2003, tr.105): Công cụ  phái sinh được xác định chung là một loại hợp đồng mà  giá trị  của nó được phát sinh từ  giá cả  của một vài tài sản cơ  sở, tỷ  giá tham   chiếu hoặc giá trị của các chỉ số, như cổ phiếu, trái phiếu hay hàng hóa. Tại Việt Nam, trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (khoản 23. Điều  4) thuật ngữ  sản phẩm phái sinh được giải thích là công cụ  tài chính được định   giá theo biến động dự kiến về giá trị của một tài sản tài chính gốc như tỷ giá, lãi  suất, ngoại hối, tiền tệ hoặc tài sản tài chính khác. Về mặt ngôn ngữ, từ “phái sinh” (derivative hoặc derivatives) trong các tài  liệu trên được dùng như  một danh từ  và hầu hết các định nghĩa đều thừa nhận  phái sinh là một loại công cụ tài chính; số còn lại coi đó là một dạng tài sản hay   một loại chứng khoán hoặc hợp đồng. Tuy khác nhau trong cách diễn đạt và chưa  hoàn toàn thống nhất trong mô tả và gọi tên khái niệm này, song tất cả định nghĩa   đều có một điểm chung là giá trị của phái sinh đều được bắt nguồn từ giá trị của  các công cụ khác hoặc từ giá trị của các tài sản khác. Vậy nên hiểu “phái sinh” như  thế  nào cho đúng? Theo tác giả, nên hiểu  “phái sinh” là một dạng công cụ vì ngay từ khi ra đời, bản thân “phái sinh” đã trở  thành phương tiện giúp cho các đối tượng sở  hữu nó đạt được một mục đích  nhất định là phòng ngừa rủi ro về biến động giá cả. Không nên chỉ xem phái sinh  là một dạng tài sản vì nếu như vậy thì phái sinh phải luôn đem lại giá trị dương  về tiền như tất cả các loại tài sản khác, trong khi rõ ràng phái sinh có thể đưa lại   giá trị  âm. Phái sinh cũng không hoàn toàn giống như  chứng khoán, vì bản chất  của hai loại này là khác nhau. Chứng khoán như  cổ  phiếu hay trái phiếu ra đời   nhằm mục đích huy động hay tăng vốn, trong khi phái sinh ra đời từ yêu cầu bảo  hiểm rủi ro về giá. Là một công cụ  tài chính, có nghĩa là giá trị  của công cụ  phái sinh không  nằm  ở  hình thái vật chất của nó, mà  ở  các quyền pháp lý gắn với đối tượng   được đề cập trong công cụ. Như giá trị của cổ phiếu không nằm ở hình thái vật   chất là tờ giấy chứng nhận cổ phiếu mà phụ  thuộc vào quyền lợi hay thu nhập 
  16. 16 hợp pháp trong tương lai từ cổ phiếu đó. Tương tự như vậy, giá trị  công cụ phái  sinh được “phát sinh” từ  các quyền pháp lý trong tương lai liên quan đến tài sản  cơ  sở. Trong giai đoạn đầu phát triển của công cụ  phái sinh, các tài sản cơ  sở  thường là hàng hóa hữu hình, như hàng nông sản, nguyên liệu đầu vào cho hoạt   động sản xuất... Giá trị  của các công cụ phái sinh lúc này cũng dễ xác định vì nó  có liên quan đến các quyền lợi pháp lý đối với các tài sản cơ sở dạng vật chất, ví  dụ như quyền mua, bán, trao đổi các hàng hóa cơ sở. Tuy nhiên, ngày nay tài sản  cơ sở của các công cụ phái sinh phát triển rất đa dạng, không những là các hàng   hóa có thể mua bán và giao nhận bằng vật chất, mà còn là các hàng hóa vô hình,  thậm chí cả những hàng hóa không bao giờ có thể mua bán được trên thị trường   giao ngay như rủi ro tín dụng, chỉ số chứng khoán, chỉ số thời tiết, lượng khí các   bon phát thải... Trong trường hợp này, giá trị của công cụ phái sinh sẽ phụ thuộc   vào sự thay đổi giá trị của các biến số cơ sở. Tại sao lại như vậy? Công cụ  phái sinh hàm chứa trong nó quyền đối với những lợi ích mà   những người sở hữu công cụ phái sinh nhận được trong tương lai. Một khi công  cụ hàm chứa các lợi ích trong tương lai thì sẽ  làm phát sinh các nhu cầu đối với  lợi ích đó, như  nhu cầu trao đổi, chuyển nhượng và mua bán công cụ  phái sinh.  Như vậy, thị trường công cụ phái sinh hình thành khi xuất hiện nhiều nhu cầu về  trao đổi, chuyển nhượng, mua bán các công cụ  phái sinh. Lúc này, các công cụ  phái sinh sẽ được thể  hiện dưới dạng các hợp đồng, trong đó quy định cam kết   thực hiện nghĩa vụ của một hoặc các bên tham gia hợp đồng. Giá cả của tài sản   cơ  sở  trong các hợp đồng phái sinh đều được xác định và thỏa thuận trước tại   thời điểm ký kết hợp đồng; tuy nhiên việc thực hiện các cam kết thường được  diễn ra sau một khoảng thời gian nhất định nên giá cả thị  trường của các tài sản   cơ  sở hoặc giá trị  các biến số  cơ  sở khi đó sẽ  thay đổi. Sự  thay đổi này sẽ  làm  thay đổi dòng tiền trong tương lai của các công cụ  phái sinh, hay nói cách khác  thu nhập trong tương lai của các công cụ phái sinh cũng sẽ thay đổi theo. Nói tóm lại, công cụ phái sinh là một công cụ tài chính mà thu nhập trong   tương lai của nó phụ thuộc vào sự thay đổi của các biến số cơ sở, như giá của   hàng hóa, tỷ giá, lãi suất, chỉ số chứng khoán hay các loại chỉ số khác.
  17. 17 1.1.3 Phân loại Ngày nay, công cụ  phái sinh phát triển rất đa dạng và vẫn không ngừng   xuất hiện những loại công cụ phái sinh mới. Chúng ta có nhiều cách để phân loại  công cụ phái sinh, nhưng phổ biến hơn cả là hai cách phân loại dựa vào 2 tiêu chí   sau: Thứ  nhất, dựa theo sự  quy chuẩn của các công cụ  phái sinh, chúng ta có  thể  chia chúng thành 2 nhóm lớn là phái sinh tiêu chuẩn và phái sinh phi tiêu   chuẩn. Nhóm công cụ  phái sinh tiêu chuẩn bao gồm: các hợp đồng tương lai  (futures   contracts)   và   hợp  đồng   quyền  chọn   tiêu  chuẩn  (plain   vanilla   options)  được giao dịch trên thị trường có tổ chức hay các sàn giao dịch; nhóm còn lại bao  gồm hợp đồng kỳ  hạn (forward contracts), hợp đồng hoán đổi (swap contracts),   quyền chọn ngoại lai (exotic options) và các công cụ  phái sinh ngoại lai khác...  được giao dịch trên thị trường phi tập trung (over­the­counter).  Thứ hai, dựa vào mối quan hệ giữa thu nhập của các công cụ phái sinh với   giá trị của các biến cơ sở, chúng ta có hai loại chính: (1) công cụ phái sinh có thu   nhập quan hệ  tuyến tính với sự  biến động của giá trị  các biến cơ  sở, bao gồm  các cam kết kỳ hạn như công cụ  kỳ  hạn, công cụ  tương lai, công cụ  hoán đổi;  (2) công cụ phái sinh có thu nhập quan hệ phi tuyến tính là công cụ quyền chọn.   Đối với các công cụ nhóm 1, khi giá của tài sản cơ sở thay đổi thì lập tức khoản  thu nhập của công cụ  phái sinh cũng sẽ  thay đổi tương  ứng. Những hợp đồng  dạng này nhìn chung tương đối dễ  hiểu và dễ  dàng trong việc định giá. Đối với   nhóm 2, giá của tài sản cơ  sở  và khoản thu nhập của công cụ  phái sinh có thể  không biến động cùng tỷ lệ với nhau. Trên thực tế, các công cụ phái sinh ngoại lai (các công cụ lai tạo giữa các   phái sinh cơ bản) thì gần như thay đổi thường xuyên, nhưng các công cụ cơ bản  thì hầu như  không thay đổi nhiều. Và cho dù các công cụ  phái sinh được phân  nhóm như  thế  nào thì tựu trung lại chúng cũng có những loại cơ  bản sau đây:  công cụ kỳ hạn (forwards), công cụ hoán đổi (swaps), công cụ tương lai (futures),   công cụ quyền chọn (options).
  18. 18 1.1.3.1 Công cụ kỳ hạn Ra đời từ  rất sớm, công cụ  kỳ  hạn là hình thức đơn giản nhất trong các  công cụ phái sinh. Công cụ kỳ hạn là công cụ tài chính được áp dụng để mua bán  một số  lượng nhất định tài sản cơ  sở  ở  một thời điểm xác định trong tương lai  theo một mức giá đã được thỏa thuận trước. Nghĩa là, với công cụ  kỳ  hạn, hai   bên mua bán có thể thỏa thuận trước các điều khoản liên quan hàng hóa cũng như  các điều kiện giao nhận hàng hóa và thanh toán sẽ diễn ra trong tương lai. Công   cụ  kỳ  hạn được thể  hiện trên thị  trường dưới hình thức là hợp đồng kỳ  hạn.   Khác với hợp đồng giao ngay, hợp đồng kỳ hạn có ngày thanh toán (hay còn gọi   là ngày đáo hạn hoặc ngày giá trị  hợp đồng) thông thường là sau hai ngày kể từ  ngày ký hợp đồng. Thời gian từ khi ký hợp đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ  hạn của hợp đồng. Giá xác định áp dụng trong ngày thanh toán hợp đồng gọi là   giá kỳ hạn. Công cụ kỳ hạn được sử dụng để  mua bán một loại tài sản vào một thời  điểm cụ  thể  trong tương lai, nhưng tại thời điểm hiện tại các bên sẽ  xác định  trước mức giá áp dụng cũng như cách thức thanh toán và kết thúc hợp đồng. Một  số đặc điểm của công cụ kỳ hạn: ­ Công cụ kỳ hạn là công cụ tài chính tự  do thỏa thuận. Các bên tham gia  được tự  do thỏa thuận các điều khoản, như  loại tài sản cơ  sở, số  lượng, chất   lượng hay tiêu chuẩn hàng hóa, giá kỳ  hạn, thời gian đáo hạn, cách thức giao  hàng, cách thức thanh toán và kết thúc hợp đồng. ­ Công cụ kỳ hạn không yêu cầu bất kỳ một khoản thanh toán nào từ  hai   phía ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng kỳ  hạn. Việc giao hàng và thanh toán  giá trị của hợp đồng sẽ được tiến hành khi hợp đồng đáo hạn.  ­ Do các điều khoản của hợp đồng không được chuẩn hóa, hợp đồng kỳ  hạn được giao dịch trên thị trường phi tập trung hay thị trường OTC. ­ Khi tham gia vào hợp đồng kỳ hạn, hai bên mua bán không phải tiến hành  đặt cọc để  bảo bảo khả  năng thực hiện hợp đồng của mình nên rủi ro đối tác,  rủi ro tín dụng trong hợp đồng hoán đổi là rất lớn. 
  19. 19 ­ Các chủ  thể  của thị  trường chủ  yếu sử  dụng công cụ  kỳ  hạn với mục   đích phòng vệ  rủi ro về  biến động giá cả  của hàng hóa cơ  sở  hơn là mục đích  đầu cơ  và kinh doanh chênh lệch giá. Do các điều khoản của hợp đồng kỳ  hạn  không được chuẩn hóa nên tính thanh khoản của các hợp đồng này không cao,   dẫn đến việc các nhà đầu cơ sẽ khó khăn trong việc giao dịch hợp đồng này trên  thị trường thứ cấp. ­ Có 2 cách thức phổ  biến để kết thúc hợp đồng kỳ  hạn khi đáo hạn: (1)   kết thúc bằng việc một bên sẽ  giao hàng thật sự và bên kia sẽ thanh toán giá trị  hợp đồng theo giá kỳ hạn; (2) kết thúc hợp đồng bằng việc  thanh toán bằng tiền  mặt (bù trừ  chênh lệch giữa giá giao ngay vào giá kỳ  hạn). Đa số các hợp đồng  kỳ  hạn đều được kết thúc theo cách thứ  nhất. Ngoài ra, các bên tham gia hợp  đồng còn có thể chọn cách mua/bán lại hợp đồng trước khi đáo hạn; tuy vậy, do  hợp đồng kỳ  hạn là thỏa thuận riêng của hai bên mua bán trước đó nên rất khó   để nó được mua bán lại. Đối với hợp đồng có thỏa thuận là giao hàng vật chất vào một ngày đã   được xác định trước, một bên sẽ có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán và bên kia  có nghĩa vụ  giao hàng và nhận tiền cho một số lượng cụ thể  tài sản cơ  sở  với  mức giá mức giá đã xác định, bất chấp giá thị  trường lúc đó là bao nhiêu đi nữa.  Trong trường hợp nếu giao hàng thật là khó khăn hoặc có sự  thỏa thuận trước   của hai bên mua bán, hợp đồng kỳ  hạn có thể  không thực hiện việc giao hàng  thực tế  vào thời điểm đáo hạn mà chỉ  tiến hành thanh toán bù trừ  giữa giá giao   ngay với giá kỳ hạn của tài sản cơ sở. Ví dụ, nếu tài sản cơ sở là chỉ số của một  thị  trường chứng khoán (giả  sử  là HNX­30), việc thực hiện thanh toán bù trừ  bằng tiền mặt chắc chắn sẽ  được hai bên lựa chọn vì dễ  dàng thực hiện hơn   nhiều so với giao hàng thật. Vào ngày đáo hạn, bên mua nhận một khoản thanh   toán nếu giá giao ngay cao hơn giá kỳ  hạn; bên bán sẽ  nhận một khoản thanh  toán nếu giá giao ngay thấp hơn giá kỳ hạn của tài sản cơ sở. ­ Như đã trình bày ở trên, các hợp đồng kỳ hạn sẽ phải chờ đến ngày đáo  hạn của hợp đồng để  thanh toán và kết thúc. Nhưng một bên của hợp đồng có  
  20. 20 thể  kết thúc vị  thế  trong hợp đồng của mình trước hạn bằng việc sử  dụng một   công cụ kỳ hạn khác đối ứng có ngày đáo hạn trùng với thời gian trên hợp đồng  gốc. Trong hợp đồng gốc, bên mua đang nắm giữ vị thế trường và nếu bên mua   muốn kết thúc vị  thế  của mình trước khi hợp đồng gốc đáo hạn thì anh ta sẽ  tham gia vào vị thế đoản trong một hợp đồng khác. Hợp đồng đối ứng này có thể  được ký kết với một đối tác khác hoặc có thể  với chính đối tác trong hợp đồng  gốc.  1.1.3.2 Công cụ tương lai Công cụ  tương lai có thể  coi là một hình thức đặc biệt của công cụ  kỳ  hạn, là hình thức chuẩn hóa của công cụ kỳ hạn được giao dịch trên thị trường có  tổ  chức. Công cụ tương lai là thỏa thuận mua bán các tài sản cơ sở trong tương   lai với mức giá được xác định trước và khi giao dịch trên thị  trường thì sẽ  được   thể hiện dưới dạng hợp đồng tương lai. Những đặc điểm giống nhau giữa công cụ kỳ hạn và tương lai: ­ Cả hai công cụ đều được dùng để phòng vệ  rủi ro trong biến động giá,   bằng cách cố  định mức giá mà các bên kỳ  vọng trong tương lai ngay tại thời   điểm ký kết hợp đồng. Nếu hợp đồng tương lai được duy trì và kết thúc vào lúc  đáo hạn thì bên bán sẽ có nghĩa vụ bán và bên mua có nghĩa vụ mua tài sản cơ sở  theo giá đã ký kết, bất chấp giá thị trường của tài sản đó là bao nhiêu. ­ Hợp đồng tương lai có thể thỏa thuận giao hàng vật chất hoặc thanh toán  bù trừ bằng tiền. ­ Mỗi bên của hợp đồng không nhất thiết phải giữ  vị  thế  của mình cho  đến thời điểm đáo hạn, mà có thể  kết thúc vị  thế  của mình trước khi đáo hạn  bằng cách ký các hợp đồng đối ứng.  Ngoài những điểm chung như vậy, hợp đồng tương lai còn có những điểm   khác biệt so với hợp đồng kỳ hạn: ­ Hợp đồng tương lai được chuẩn hóa rất cao. Nội dung các điều khoản   trong hợp đồng tương lai sẽ được Sở giao dịch công bố công khai trước, như loại  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2