intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam (Khảo sát báo Nhân dân, Tuổi trẻ, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ năm 2005 đến 2010)

Chia sẻ: Vinh Le | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:204

50
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án gồm 3 chương: cơ sở lý luận thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; thực trạng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in Việt Nam hiện nay; những vấn đề đặt ra, giải pháp và khuyến nghị về thông tin giáo dục và đào tạo trên báo in Việt Nam. Để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu mời các bạn cùng tham khảo luận án.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam (Khảo sát báo Nhân dân, Tuổi trẻ, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ năm 2005 đến 2010)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN XUÂN AN VIỆT THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM (Khảo sát trên báo Nhân dân, Tuổi trẻ, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ 2005 đến 2010) LUẬN ÁN TIẾN SỸ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN XUÂN AN VIỆT THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM (Khảo sát trên báo Nhân dân, Tuổi trẻ, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ 2005 đến 2010) Ngành: Báo chí học Mã số: 9 32 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ BÁO CHÍ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tuấn Phong TS. Lƣu Hồng Minh HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan trên đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Phong và Tiến sĩ Lưu Hồng Minh. Các số liệu, kết luận và các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào. Luận án sử dụng, kế thừa và phát triển một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu… liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu và được chú giải đầy đủ. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận án Nguyễn Xuân An Việt
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Báo chí, khoa Phát thanh- truyền hình, Học viện Báo chí Tuyên truyền đã truyền tải tri thức, tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn thành luận án. Đồng thời, tôi xin cảm ơn các nhà quản lý, lãnh đạo, các phóng viên các cơ quan báo chí đã chuyển tải những thông tin quý báo giúp tôi có cơ sở tin cậy để hoàn thành luận án. Tác giả xin đặc biệt cảm ơn TS. Nguyễn Tuấn Phong và TS. Lưu Hồng Minh - đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện luận án này. Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, song luận án không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả mong sẽ tiếp tục nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy cô để luận án được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018 Tác giả luận án Nguyễn Xuân An Việt
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ĐT : Đào tạo GD : Giáo dục GDĐT : Giáo dục và đào tạo GDTĐ : Giáo dục và Thời đại KHKT : Khoa học kỹ thuật NCS : Nghiên cứu sinh TT : Thông tin TTĐC : Truyền thông đại chúng
  6. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH Bảng 2.1:Số bài lựa chọn về giáo dục - đào tạo trên các báo ............................. 76 Bảng 2.2: Phân loại nội dung thông tinGDĐT trên báo in ................................. 77 Bảng 2.3 :Số lượng bài về giáo dục và đào tạo được đề cập trên các báo in: “Nhân Dân” (ND), Tuổi trẻ (TT),” Thanh niên” (TN), “Giáo dục và Thời đại” (GDTĐ) từ năm 2005 đến năm 2010 .......................................................... 77 Bảng 2.4. Tương quan giữa tính chất bài viết với các chủ trương, chính sách về giáo dục .................................................................................................... 80 Bảng 2.5. Thông tin về hoạt động đổi mới giáo dục các bậc học trên các báo .. 93 Bảng 2.6:Tần suất thể loại được sử dụng trên các báo ..................................... 102 Bảng 2.7. Ngôn ngữ bài viếtvới thông tin về GDĐT ........................................ 105 Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ ý kiến về mục đích tiếp cận thông tin trên báo in (%) .......... 82 Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ ý kiến về mức độ quan tâm đến các loại thông tin GDĐT trên báo in (%) ................................................................................................. 83 Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ nhân vật được nhắc đến trong thông tin phản biện chính sách.... 84 Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ % bài viết có giải thích mô hình giảng dạy ........................... 88 Biểu đồ 2.5. Người đưa ra các mô hình giảng dạy.............................................. 88 Biểu đồ 2.6. Nguyên nhân của các câu chuyện tích cực ..................................... 91 Biểu đồ 2.7. Bài viết có hoặc không đề cập đến hướng giải quyết ..................... 93 Biểu đồ 2.8. Tương quan giới tính và đánh giá nội dung thông tin trên báo in hiện nay (%) ............................................................................................. 98 Biểu đồ 2.9: Nhận xét chung về chất lượng nội dung TT GDĐT trên báo in ............ 108 Biểu đồ 2.10. Đánh giá mức độ thiết thực của thông tin trên báo in(%) .......... 114 Biểu đồ 2.11: Đề xuất kiến nghị đối với TT GDĐT trên báo in ................................. 116 Hình 3.1 . Mô hình thông tin GDĐT trên báo in .............................................. 141
  7. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .......................................................... 18 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN ................................................................................................................33 1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài .................................................... 33 1.2. Đặc điểm và vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ..... 43 1.3. Cơ sở chính trị và pháp lý của thông tin giáo dục đào tạo trên báo in..... 60 1.4. Những yêu cầu đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ...... 63 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................... 71 2.1. Tổng quan về các cơ quan báo in trong diện khảo sát ....................... 71 2.2. Khảo sát thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo..................... 75 2.3. Đánh giá thông tin về giáo dục đào tạo trên các báo khảo sát......... 107 2.4. Nguyên nhân ảnh hưởng đến thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ...... 118 CHƢƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA, GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................................................ 124 3.1. Những vấn đề đặt ra đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in .. 124 3.2. Giải pháp thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ................... 129 3.3. Một số khuyến nghị khoa học .......................................................... 149 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 155 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI................ 160 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 161 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 168
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ, nền tảng phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó, Đảng và Nhà nước ta xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ của Đại hội lần thứ IV (1976) Đảng ta đã ra Quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng, trong đó có những nội dung cơ bản là: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định, phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, do vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giáo dục đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, trong đó có những vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chính sách về GDĐT trong thời gian qua thiếu đồng bộ, còn chắp vá; nhiều cơ chế, giải pháp
  9. 2 về giáo dục đã từng có hiệu quả, nay trở nên không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, cần được điều chỉnh, bổ sung. Nghị quyết Số: 29-NQ/TW ban hành ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" được hội nghị trung ương 8 (khóa XI) thông qua. Nghị quyết đã nêu được những thành tựu quan trọng của Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010… Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu… Do đó, Nghị quyết đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.” Do vậy, giai đoạn trước năm 2010 là năm “trước thềm” đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà, cho nên cần có những nghiên cứu, khảo sát toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền trên báo chí làm cơ sở tham mưu cho các nhà quản lý xây dựng và hoạch định chính sách mới. Với ý nghĩa như vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng được báo giới trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm thông tin, tuyên truyền. Báo chí đã đóng
  10. 3 một vai trò quan trọng đối với sự phát triển và đổi mới của giáo dục trong những năm qua. Báo chí đã thể hiện tích cực trong việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, các quyết sách, chỉ đạo của ngành giáo dục; thông tin các vấn đề liên quan đến giáo dục; đồng thời còn thể hiện là một diễn đàn quan trọng của giáo viên, các nhà khoa học, các nhà quản lý bàn về lĩnh vực giáo dục và đào tạo; là kênh thông tin của hàng triệu học sinh, sinh viên, giáo viên và các tầng lớp nhân dân trên cả nước; góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà. Có thể nói, những năm qua báo chí đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đến các quyết sách và thực hiện những đổi mới tích cực của ngành giáo dục, với hàng loạt những vấn đề tiêu biểu như: Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, đổi mới thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và Tuyển sinh đại học, đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên các cấp… Vấn đề giáo dục đã luôn được báo chí quan tâm, bám sát và thông tin kịp thời, hầu hết các tờ báo lớn đều dành thời lượng đáng kể phản ánh về giáo dục trong mỗi số báo, trang báo, chuyên mục. Trong đó, nội dung được phản ánh đa dạng, nhiều mảng khác nhau của giáo dục từ mầm non đến đại học và sau đại học, các vấn đề quản lý giáo dục… Vai trò và hiệu quả tác động của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí nói chung và báo in nói riêng những năm qua đã được khẳng định, một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng được Đảng, Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, đòi hỏi thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí ngày càng phải được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm cho lĩnh vực giáo dục phát triển, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại. Chính bởi vậy, TT về GDĐT là một trong những đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng và cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong suốt những năm gần đây. Do đó không ít các tờ báo đã khai thác, tìm hiểu, đăng tải thông tin khá kỹ lưỡng về nội dung này, cung cấp cho độc giả mọi thông tin về từng bước phát triển, thực hiện đổi mới giáo dục. Các báo đã góp phần tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các định hướng và nhiệm vụ chủ yếu của ngành giáo dục; góp phần mở rộng tầm nhìn cho công
  11. 4 chúng, cung cấp thông tin nhằm giúp công chúng nắm được tiến trình đổi mới giáo dục ở nước ta; thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc phát triển giáo dục. Nhưng bên cạnh đó, các báo vẫn còn những hạn chế nhất định trong thông tin về GDĐT như hình thức thông tin còn kém hấp dẫn, thông tin còn hời hợt, kém chất lượng. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam” (khảo sát báo Nhân dân, Tuổi trẻ , Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ năm 2005 đến 2010), đồng thời với thời điểm hoàn thành luận án của tác giả vào năm 2017 nên tác giả đã mở rộng nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo từ năm 2010 đến 2017 để nghiên cứu. Có thể nói, đây là một yêu cầu bức xúc và cần thiết, nhằm phát huy được hiệu quả thông tin về lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên báo chí, đặc biệt là công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay đang được thực hiện. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo, khảo sát thực trạng, đánh giá ưu điểm hạn chế về nội dung và hình thức của thông tin về GDĐT trên báo in, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin về GDĐT, và đề xuất mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án thực hiện nhiệm vụ cụ thể như sau: -Xây dựng hệ thống lí luận và thực tế làm cơ sở triển khai đề tài. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận thông tin về GDĐT trên báo in ở Việt Nam. Cụ thể: làm rõ các khái niệm liên quan; khẳng định vai trò và đặc điểm của thông tin về GDDT trên báo in; chỉ ra mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; đưa ra những yêu cầu khi thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí. - Khảo sát, đánh giá thực trạngTT về GDĐT trên báo in, về tần suất, nội dung, hình thức và phương thức thông tin.
  12. 5 - Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin về GDĐT trên báo in. Luận án chỉ ra những nhận định về chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay. -Nêu những vấn đề đặt ra và giải pháp, khuyến nghị, đồng thời đề xuất mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in 3.2. Phạm vi khảo sát Luận án khảo sát thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo: Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại, Tuổi trẻ và Thanh niên. Tác giả lựa chọn các báo trên khảo sát vì: - Báo Nhân Dân: cơ quan Trung ương của ĐCS Việt Nam, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đại diện cho tờ báo tuyên truyền, phản ánh và thông tin các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, trong đó có các chủ trương, chính sách, pháp luật về giáo dục - Báo Giáo dục và Thời đại: là tiếng nói của ngành Giáo dục, thực hiện chức năng phục vụ công tác điều hành quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Thanh niên là tờ báo của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, có chuyên trang giáo dục và có ảnh hưởng mạnh trong xã hội với số lượng phát hành báo hơn 300.000 bản/ngày, có thời điểm lên đến 400.000 bản/ngày. - Tuổi trẻ là tờ báo của Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh. Báo có chuyên trang giáo dục riêng và cũng là một trong những tờ báo có ảnh hưởng với xã hội, đặc biệt là công chúng phía Nam với số lượng phát hành 400.000 bản/ngày Tổng hợp các tin bài phản ánh trên 4 tờ báo trên, ngành Giáo dục cơ bản có thể tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề về thông tin giáo dục và đào tạo đang cần có thêm ý kiến của dư luận xã hội. Tất nhiên, trước những vấn đề đổi mới mạnh mẽ, vấn đề nhạy cảm của giáo dục, cơ quan quản lý giáo dục các cấp không chỉ dựa vào 4 tờ báo trên để nắm thông tin, mà còn phải lắng nghe ý kiến từ công chúng, từ nhiều loại hình báo chí khác. Phạm vi nghiên cứu đề tài là thông tin về GDĐT trên loại hình báo in.
  13. 6 Thời gian khảo sát: từ tháng 01/ 2005 đến tháng 12/ 2010 (Thông tin mở rộng đến năm 2017) 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở nhận thức luận các vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về báo chí và giáo dục và đào tạo cũng như các ngành khoa học liên quan. Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết như: -Lý thuyết truyền thông Một số lý thuyết truyền thông: lý thuyết xâm nhập xã hội; lý thuyết xét đoán xã hội; lý thuyết học tập; lý thuyết truyền bá cái mới; lý thuyết thuyết phục; lý thuyết truyền thông điệp cho đối tượng; lý thuyết sử dụng; lý thuyết sử dụng và hài lòng... Trong môi trường thông tin, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” coi việc có đáp ứng được nhu cầu của công chúng hay không là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả truyền thông, giác độ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thứ nhất, hành vi tiếp xúc với truyền thông của công chúng là hoạt động lựa chọn những nội dung trên phương tiện truyền thông dựa trên nhu cầu của công chúng, sự lựa chọn này có “tính linh hoạt” nhất định, điều này có lợi cho việc điều chỉnh quan điểm “công chúng hoàn toàn bị động” thành công chúng là người hoàn toàn chủ động tiếp nhận thông tin trong môi trường truyền thông hiện đại. Thứ hai, lý thuyết này nhấn mạnh tính đa dạng trong cách thức sử dụng phương tiện truyền thông của công chúng, đồng thời chỉ rõ vai trò chi phối của nhu cầu công chúng đối với hiệu quả truyền thông. Thứ ba, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” chỉ ra rằng, truyền thông đại chúng có hiệu quả cơ bản đối với công chúng, đây cũng là một sự bổ trợ có ích cho “lý thuyết hiệu quả truyền thông hữu hạn” mà thập kỷ 1940 - 1960 nhấn mạnh quá nhiều về tính phi hiệu quả của truyền thông đại chúng. Xét từ giác độ này, một số học giả coi nó là lý thuyết “hiệu quả thích hợp”. Tuy nhiên, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” cũng có những bất cập của nó, bởi nó nhấn mạnh
  14. 7 quá nhiều về nhân tố cá nhân và tâm lý, mang đậm màu sắc chủ nghĩa hành vi. Mặt khác, lý thuyết này chỉ khảo sát đơn thuần hành vi tiếp xúc với phương tiện truyền thông của công chúng, do đó không thể chỉ ra một cách toàn diện mối quan hệ xã hội giữa công chúng và truyền thông. Tuy nhiên, nhà phê bình người Anh D.Morley cho rằng, hoạt động sản xuất thông tin của cơ quan truyền thông là một quá trình mã hóa, quá trình này bị chi phối bởi lợi ích và hình thái ý thức của cơ quan truyền thông. Trong khi hành vi tiếp xúc với phương tiện truyền thông của công chúng lại là một quá trình giải mã ký hiệu, quá trình bị chi phối bởi bối cảnh xã hội, văn hóa và hình thái ý thức của công chúng, giữa hai quá trình này chắc chắn tồn tại mối quan hệ phức tạp mâu thuẫn, xung đột hoặc thỏa hiệp Trong môi trường thông tin, lý thuyết “sử dụng và hài lòng” đóng vai trò quan trọng, có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về công chúng hiện đại, từ đó giúp các cơ quan báo chí thay đổi các phương thức tác nghiệp, cung cấp cho xã hội những sản phẩm báo chí truyền thông phù hợp với thời đại. Bản chất xã hội của truyền thông quá trình giao tiếp xã hội, quá trình liên kết xã hội và quá trình can thiệp xã hội. Nói cách khác, đó là quá trình biện chứng. Con người sau khi được truyền thông xã hội hóa có thể trở nên văn minh hơn và khi con người, xã hội càng phát triển thì nhu cầu, năng lực và khả năng đáp ứng của truyền thông càng cao [ 37; tr.120] Quá trình truyền thông là sự truyền đi của các thông điệp (ý nghĩ, thông tin, tư tưởng, ý tưởng, ý kiến, kiến thức...) từ một người hay một nhóm người đến người khác hay một nhóm người khác bằng lời nói, hình ảnh, văn bản hoặc các tín hiệu khác. Chính vì vậy, truyền thông liên quan đến việc làm thế nào để liên kết các yếu tố như người nhận, người gửi, cách mã hóa và cách giải mã, các kênh và các phương tiện truyền thông nhằm đảm bảo cho tính chính xác và hiệu quả của quá trình truyền thông. - Lý thuyết xã hội học truyền thông đại chúng Dưới góc độ của xã hội học thì truyền thông đại chúng được coi như là một quá trình xã hội. Đó là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi ra công chúng trong xã hội thông qua các PTTTĐC như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử.
  15. 8 Nhà xã hội học Max Weber đã chỉ rõ tác động của truyền thông đại chúng. Theo ông, truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội do nó có sự liên kết bởi nhiều yếu tố như: nguồn tin, thông điệp và người nhận và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. [ 59 ] Một số tác giả khác cho rằng truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội, đó là quá trình truyền tải thông tin ra công chúng thông qua các phương tiện truyền thông, được liên kết chặt chẽ bởi các yếu tố: nguồn tin, thông điệp và người nhận. Thiếu một trong ba yếu tố này, hiệu ứng xã hội sẽ không xảy ra khi các kênh truyền thông đại chúng truyền thông điệp mà không có người nhận[71]; [72] Cũng theo các tác giả, truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba thành tố sau đây: 1) Hoạt động truyền thông (săn tin, quay phim, chụp ảnh, viết bài, biên tập và cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sóng), 2) Các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền thông như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... và những người làm công tác truyền thông như nhà báo, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên...), 3) Và đại chúng (các tầng lớp công chúng rộng rãi). Chẳng hạn, khi chúng ta mở máy tính, máy tính bảng, điện thoại di động xem tin tức trên một tờ báo thì hành vi đó đã nằm trong quá trình truyền thông đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta cũng mở những loại phương tiện trên nhưng lại để xem một tập ảnh chụp chung với gia đình hay bạn bè, thì hành động này lại không được coi là nằm trong quá trình truyền thông đại chúng, bởi một lẽ đơn giản là tập dữ liệu này được chụp và truyền phát trong khuôn khổ cá nhân mà thôi. Nói cách khác, điểm then chốt trong việc xác định xem một hành vi có nằm trong quá trình truyền thông đại chúng hay không không phải là cái màn hình điện thoại di động hay máy tính, máy tính bảng mà là cần xem xét coi hành vi ấy có nằm trong quá trình truyền tải thông tin ra rộng rãi công chúng thông qua các PTTTĐC hay không. Trong một số hướng nghiên cứu của xã hội học có hướng nghiên cứu về các nhà tuyên truyền với vai trò là một nhóm xã hội- nghề nghiệp trong cơ cấu
  16. 9 xã hội. Do đó, tác giả tìm hiểu các vấn đề nghiên cứu về báo chí được tiếp cận, xem xét như thế nào từ góc độ xã hội học, làm cơ sở cho việc đánh giá cụ thể về cách thức hoạt động của nhà truyền thông. - Lý thuyết báo chí học Theo Siebert trong cuốn sách về Bốn lý thuyết về báo chí, báo chí mang hình thức và màu sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị trong đó nó hoạt động. Báo chí và các phương tiện truyền thông khác, trong quan điểm của họ, sẽ phản ánh “niềm tin căn bản và giả định rằng xã hội nắm giữ”. Để nhìn nhận sự khác biệt của hệ thống báo chí giữa các nước một cách toàn diện nhất, phải nhìn vào hệ thống xã hội mà chúng đang hoạt động. Để xem xét hệ thống xã hội trong mối quan hệ với báo chí, phải xem xét những niềm tin và quan niệm cơ bản của xã hội đó: đặc tính của con người, xã hội, đất nước, mối quan hệ giữa con người và đất nước đó, của tri thức và sự thật. Báo chí biểu hiện vai trò trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực như: Chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội. Chức năng của báo chí: Thông tin, tư tưởng, khai sáng, giải trí quản lý, giám sát và phản biện xã hội, kinh tế, dịch vụ. - Lý thuyết thiết lập chƣơng trình nghị sự Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” (Agenda setting) do hai chuyên gia truyền thông Maxwell McCombs và D.Shaw (Mỹ) đưa ra. Lý thuyết này mô tả khả năng ảnh hưởng của giới truyền thông đối với công chúng thông qua các phương tiện truyền thông. Trong xã hội, nếu một tin tức nào đó được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới và coi nó quan trọng hơn những thông tin khác. Do vậy, chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” là một giả thiết quan trọng trong các lý thuyết truyền thông. Điểm nổi bật của lý thuyết này là truyền thông đại chúng có một chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng, các bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí truyền thông ảnh hưởng đến sự phán đoán của công chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh và tầm quan trọng của chúng bằng cách làm cho các “chương trình” nét nổi bậtkhác nhau, từ đó có thể tác động và tạo ra sự dẫn đường trong tương lai.Lý thuyết cho rằng Truyền thông đại chúng (trong đó có
  17. 10 báo chí) có chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng. Lý thuyết còn chỉ ra rằng, việc đưa tin về thế giới bên ngoài của cơ quan truyền thông là lựa chọn có mục đích. Theo McCombs & Shaw‟s study (1972), cho rằng các cơ quan báo chí truyền thông (dựa vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế để) “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng để cung cấp cho công chúng, chứ không phải cung cấp những thông tin mà công chúng cần. McCombs (1994) gần đây cho rằng hiệu ứng của thuyết này rất mạnh khi công chúngkhông biết hay không có kinh nghiệm trực tiếp về vấn đề, khi họ phụ thuộc nhiều hơn vào các phương tiện truyền thông để hiểu tình hình. Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” không đánh giá hiệu quả truyền thông trong thời gian ngắn của một hãng truyền thông nào đó đối với một sự kiện cụ thể, mà đánh giá về hiệu quả xã hội lâu dài, tổng hợp ở tầm vĩ mô của cả ngành truyền thông được tạo ra sau khi đưa ra hàng loạt bản tin trong một quãng thời gian khá dài. Các cơ quan báo chí truyền thông dựa vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế để “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng những thông tin “đúng sự thật”. Thiết lập chương trình nghị sự về TT GDĐT trên báo in gồm 2 khía cạnh: Một là, báo in là chủ thể của các TT về GDĐT. Hai là, báo in là trung gian tổ chức thu thập và công bố TT về GDĐT. Báo in luôn chủ trì về mặt truyền thông, “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng để cung cấp cho công chúng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp tác giả sử dụng khảo sát các văn bản, chỉ thị, nghị quyết và các công trình khoa học, sách, báo…nhằm mục đích tìm cơ sở cho việc xây dựng khung lý thuyết về TT về GDĐT trên báo in; đặc điểm, vai trò TT GDĐT trên báo in; mô hình TT GDĐT trên báo in và những yêu cầu về TT GDĐT trên báo in. Đồng thời, tác giả tìm hiểu kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học có thể hữu ích cho việc đối chiếu và
  18. 11 tham khảo trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này, các công trình đó có thể làm cơ sở cho việc đánh giá các kết qua khảo sát, tìm ra các giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp điều tra xã hội học: Mục tiêu của phương pháp này là thu nhận các nhận xét, đánh giá của các nhóm công chúng khi tiếp nhận thông tin GDĐT trên các báo trong diện khảo sát. Tìm hiểu TT về GDĐT trên báo in đã đáp ứng nhóm công chúng ở mức độ nào. Chúng tôi đề ra một bảng câu hỏi (anket) phát cho đối tượng tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, tổng số phiếu là 500 phiếu, bao gồm: Hà Nội 180 phiếu, Đà Nẵng 140 phiếu, thành phố Hồ Chí Minh 180 phiếu. Số phiếu thu về sau điều tra là 483 phiếu. Các đối tượng cụ thể: Ở mỗi thành phố chúng tôi lựa chọn đối tượng để phát phiếu như sau: học sinh (chọn 1 trường THPT, 1 trường THCS, mỗi trường 1 lớp), sinh viên (chọn 3 trường đại học ở 3 thành phố thuộc 3 khối A, B, C, mỗi trường 1 lớp), giáo viên (chọn 1 số giáo viên Tiểu học, Phổ thông và đại học), cán bộ quản lý giáo dục (Hiệu trưởng đại học, phổ thông, sở Giáo dục và Đào tạo, Vụ trưởng Vụ chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo), người dân (phụ huynh học sinh Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, đại học), theo đó có các cứ liệu và cơ sở giúp tác giả thực hiện luận án. Với những phiếu điều tra bằng bảng hỏi (anket), chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý số liệu định lượng SPSS 16.0. - Phương pháp phỏng vấn sâu (Phỏng vấn chuyên gia): với hình thức phỏng vấn đặt câu hỏi với 20 đến 30 người trả lời là những đối tượng: lãnh đạo cơ quan quản lý báo chí (Tổng biên tập một tờ báo, trưởng, phó ban giáo dục của báo): 04 mẫu; phóng viên theo dõi giáo dục (các phóng viên hiện đang theo dõi giáo dục được các báo giới thiệu đến Bộ Giáo dục và Đào tạo): 10 mẫu; Công chúng (Chọn trong số những người điều tra XHH, mỗi thành phố chọn 2-3 người bất kỳ, thường xuyên đọc thông tin về GDĐT hoặc liên quan đến lĩnh vực GDĐT như giáo viên, quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên…): 08 mẫu. Từ đó, tập hợp các cứ liệu thực tế phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Với phương pháp phỏng vấn sâu, chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý dữ liệu định tính Nvivo 8.0.
  19. 12 - Phương pháp quan sát: tiến hành khi thực hiện phỏng vấn sâu, điều tra xã hội học và tiến hành các nghiên cứu. Mục đích để xem xét hoạt động của các cơ quan báo in, hoạt động tiếp nhận thông tin GDĐT của công chúng; các biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi của công chúng và những người xây dựng các sản phẩm báo chí liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Kết quả quan sát sẽ là cơ sở để thực hiện nghiên cứu đề tài. - Phương pháp phân tích nội dung văn bản - Mô tả về phương pháp: Phân tích nội dung văn bản là phương pháp phân tích tài liệu bài viết (có thể dưới dạng in ấn hoặc nghe nhìn) nhằm lượng hoá nội dung một cách có hệ thống, có thể nhân rộng dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định. Phân tích nội dung được đề cập ở đây (phân tích nội dung định lượng) khác với hai phương pháp phân tích nội dung thông tin khác đó là (1) Ký hiệu học – một phương pháp phân tích văn bản và các hiệu tượng khác nhấn mạnh việc tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của các hiện tượng này; (2) Phân tích nội dung mang tính dân tộc học, phương pháp tiếp cận văn bản theo hướng nhận mạnh vai trò của người điều tra trong việc xây dựng ý nghĩa của bài viết và trong toàn bộ quá trình phân tích nó. Phương pháp này được xem là phương pháp phân tích định tính trong đó yếu tố ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc phân loại số liệu và xây dựng các ý nghĩa. Bước tiếp theo của phần phân tích định lượng là phải quyết định xem cần xem xét những gì. Tất nhiên, việc quyết định phải xem xét cái gì trong quá trình phân tích nội dung bị ảnh hưởng các câu hỏi nghiên cứu. Các vấn đề chung thường được tính đến khi phân tích là: (1) Các nhân vật quan trọng (Ai viết, ai là tiêu điểm- đặc điểm nổi bật nhất về họ là gì, ai có những ý kiến khác. Trong ngữ cảnh đưa tin của phương tiện truyền thông đại chúng, các nhận vật chủ yếu trong các tin bài và đặc điểm của họ là những yếu tố quan trọng để mã hoá; (2) Từ ngữ- việc đếm tần số xuất hiện của một số từ đôi khi được thực hiện trong phân tích nội dung có thể mang lại một số ý nghĩa nào đó vì nó có thể chỉ ra xu hướng giật gân hoá một số sự kiện; (3) Chủ đề và ý nghĩa – đó là việc phân loại các hiện tượng và các hiện tượng được quan tâm. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không chỉ phân loại dựa vào nội dung hiển nhiên mà còn cả những nội dung ẩn ý. Cần dò tìm dưới bề mặt để đặt câuhoir sâu hơn về những sự việc đang diễn ra;
  20. 13 (4) Khuynh hướng cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu quan tâm tìm kiếm khi phân tích nội dung. Đó là sự thay đổi, mối quan tâm, niềm tin hay các nguyên tắc. Mã hoá là bước trung tâm và đặc biệt nhất của phân tích nội dung. Có 2 yếu tố chính trong bước này là thiết một một bảng mã và thiết kế một sổ tay mã hoá. Bảng mã là một biểu/ bảng mẫu trong đó có tất cả các số liệu kiên quan tới một vấn đề được mã hoá được điền vào. Bảng này được đơn giản hoá để hỗ trợ các tranh luận về các nguyên tắc mã hoá trong phân tích nội dung và nguyên tắc xây dựng bảng mã nói riêng. Mỗi cột trong bảng mã sẽ là một khía cạnh được mã hoá. Đầu đề của các cột sẽ là các khía cạnh được mã hoá, các cột sẽ được đánh số. Mỗi mẫu sẽ dùng cho một bài được mã hoá. Các mã số sau đó có thể được chuyển thành một tệp sữ liệu máy tính cho việc phân tích bằng phần mềm SPSS. Để giúp điềm thông tin đúng và thống nhất vào bảng mã này, cần có sổ tay mã hoá. Sổ tay mã hoá là các hướng dẫn chi tiết cho người thực hiện mã hoá. Trong luận án này, tất cả các bài viết về Giáo dục đào tạo được xem xét kỹ lưỡng trên 4 tờ báo in Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010. - Mẫu nghiên cứu bao gồm các thông tin về các tờ báo được lựa chọn để phân tích, hình thức đăng tải, chuyên mục đăng tải, nguồn và thời gian đăng tải. Các thông tin này giúp người nghiên cứu có một cái nhìn tổng thể về mẫu nghiên cứu. - Cách thức chọn mẫu: Tất cả các bài báo liên quan, đề cập đến GDĐT trong khoảng thời gian nghiên cứu đều được sưu tầm. Với phương pháp lẫy mẫu ngẫu nhiên hệ thống từ 26875 tin, bài về GDĐT trong 5 năm, tác giả lựa chọn 720 tin, bài để phân tích (Mỗi báo chọn 180 tin, bài). Trong trường hợp những bài viết trùng nhau được đăng tải trên nhiều báo sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một bài bất kỳ, không lấy tất cả các bài báo trùng nhau hoàn toàn trong mẫu nghiên cứu. Trong trường hợp giống nhau nội dung hay tiêu đề nhưng có sự khác biệt về cách phân tích hoặc thể hiện trong bài báo thì đều được chọn trong mẫu nghiên cứu. Thông tin thu thập từ các bảng mã viết về Giáo dục và đào tạo trên 4 báo được mã hoá, nhập và xử lý bằng chương trình SPSS 16.0. Sau khi làm sạch số
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2