intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng tây bắc

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

321
lượt xem
88
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng tây bắc

  1. LUẬN VĂN: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng tây bắc
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét về bản chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử không ngừng đấu tranh chống ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của bản sắc văn hóa dân tộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước của văn hóa dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh mà còn ở tinh thần đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị động để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình. Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn 80 năm qua định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa n ước ta là Xây dựng và phát triển nền văn hóa V iệt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa v ăn h óa nhân loại, làm c ho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người… tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao … [31, tr.54] Có thể nói Nghị quyết TW V l à nguồn cảm hứng, nâng cao tinh thần của nhân dân ta bước vào th ế kỷ mới, làm cho văn h óa vừa là mục tiêu, vừa là đ ộng lực
  3. của sự phát triển đất n ước. Nghị quyết cũng chỉ rõ “ nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [31, tr.57]. Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc phòng, được coi là “phên dậu” của tổ quốc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh và chiến dịch quân sự ác liệt mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm xưa. Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Dãy núi Hoàng Liên Sơn cao đến 1500m dài tới 180km, rộng 30km, với một số đỉnh núi cao trên 3000m, vùng Tây Bắc có 2 con sông lớn đó là sông Đà và sông Thao (Tức là sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng trên vùng Tây Bắc. Với đặc điểm địa hình như vậy đã tạo nên cho vùng Tây Bắc không gian văn hóa dân tộc đặc sắc, nổi bật nhất là văn hóa dân tộc Thái với những điệu múa xòe uyển chuyển, quyến rũ với trang phục dân tộc độc đáo, kín đáo nhưng gợi cảm, với những trái Còn, trái Pa Pao chao liệng khi xuân đến, Và với những phiên chợ tình thơ mộng, lãng mạn của dân tộc Mông...Ngoài ra vùng Tây Bắc còn có gần 30 dân tộc anh em các dân tộc thiểu số, sống đoàn kết hòa thuận muôn đời bên nhau. Vùng Tây Bắc Việt Nam có một nền văn hóa cội nguồn đa dạng, độc đáo, được kết tinh từ đời này sang đời khác. Đó là một trong những nội lực to lớn của đất nước. Nhưng hiện nay, giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc đang xuất hiện xu hướng bị đồng hóa về văn hóa, từ nghi thức sinh hoạt, lễ hội tín ngưỡng, phong tục tập quán, đến những bộ trang phục truyền thống các dân tộc giờ đây ít được lớp trẻ chuộng dùng, tiếng nói riêng của từng dân tộc cũng bị pha trộn, nhiều lớp trẻ không biết nói của dân tộc mình. Âm nhạc, những làn điệu dân ca cũng bị xem thường hoặc chỉ là thú vui của người cao tuổi...do đó, “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số” [31, tr.65] cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà nghị quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng cũng đã đề cập tới. Với vai trò là một kênh thông tin quan trọng, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng bộ, chính quyền các
  4. tỉnh vùng Tây Bắc, hệ thống báo chí đã có những đóng góp tích cực trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến đông đảo nhân dân góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân các dân tộc, nhất là trong công tác tuyên truyền việc giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Bằng sức mạnh của mình, báo chí tác động vào nhận thức của công chúng, của xã hội, tạo ra ý thức cao về vị trí vai trò của v ăn hóa trong phát triển, từ đó xây dựng nên những ước muốn gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhằm tăng thêm sức mạnh nội sinh, phát triển đất nước, tiến lên giàu đẹp, văn minh. Tuy nhiên, c ũng phải thừa nhận rằng việc tuyên truyền văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng Tây Bắc thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nh ư: nội dung thể hiện chưa phong phú, đa dạng, chậm đổi mới, chưa hấp dẫn, đội ngũ phóng viên, biên tập viên ch ưa có chuyên môn sâu, cũng như sự am hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số còn bất cập...Nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã gặt hái được kết quả bước đầu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, những hệ lụy do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra cũng không phải là nhỏ, đang tác động trực tiếp vào đời sống văn hóa của nhân dân, có nguy cơ làm sói mòn đạo đức dân tộc, hủy hoại những giá trị dân tộc mà ông cha ta bao đời nay dầy công vun đắp. Tây Bắc là một vùng có cơ cấu dân tộc thiểu số cùng chung sống khá đa dạng với gần 30 tộc người. Qua cơ cấu dân tộc của Tây Bắc cho thấy nơi đây có một nền văn hóa rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc có nét đẹp, giá trị bản sắc văn hóa riêng. Trước tình hình đó, cần phải có những nghiên cứu cụ thể, khoa học tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyền truyền bảo tồn những bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số. Cho nên tôi chọn đề tài: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc nhằm nghiên cứu vấn đề giữ gìn giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  5. Trong những năm qua, vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa đã có nhiều công trình nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi nhà khoa học lại có cách nhìn và tiếp cận vấn đề khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: - Công trình nghiên cứu của Phan Ngọc (2002):Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (1996): Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Trần Văn Bính (2004): Văn hóa các dân tộc Tây Bắc- Thực trạng và những vấn đề đặt ra,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Vi Hồng Nhân (1996): Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội; Trần Quốc Vượng (2003): Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà Nội; Hoàng Vinh (1997): Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa các dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hoàng Nam (1998): Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam,Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (2003): Trang phục các tộc người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày- Thái; Các luận văn đại học và sau đại học có đề tài liên quan đến truyền thống văn hóa dân tộc Chu Đức Kìu (1993): Khảo sát đội ngũ nhà báo dân tộc ít người Cao Bằng lịch sử và thực trạng”, Luận văn tốt nghiệp đại học, Hà Nội. La Vũ Quang (1993): Một số vấn đề về tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả thông tin, tuyên truyền với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở buổi phát thanh đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Luận văn tốt nghiệp đại học. Hà Nội. Giàng Seo Pùa năm (1994): Những bước đi ban đầu của chương trình phát thanh tiếng Mông (Đài tiếng nói Việt Nam), Tiềm năng và xu hướng phát triển”, Luận văn tốt nghiệp đại học, Hà Nội. Nguyễn Thu Liên (1997): Vấn đề giũ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong các chương trình phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, Luận án thạc sỹ báo chí, Học viện báo chí và tuyên truyền quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đặng Đình Quang( 1997): Hoạt động thông tin báo chí Tỉnh Lào Cai trong thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ báo chí, Hà Nội.
  6. Nguyễn Xuyên An Việt (2001): “ Thông tin về miền núi và dân tộc trên sóng VTV1 - Đài truyền hình Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội Đỗ Thanh Phúc (2005): “ Vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Hòa Bình”, Luận văn thạc sỹ truyền thông đại chúng. Trịnh Liên Hà Quyên (2006): “ Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong giai đoạn hiện nay” Luận văn thạc sỹ truyền thông đại chúng, Hà Nội. Tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu sâu về vấn đề bảo tồn bản sắc, giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số, song chưa có công trình nào nghiên cứu, đề cập đánh giá một cách khách quan, khoa học đến việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc trên hệ thống báo chí, hy vọng sẽ góp thêm một cách nhìn trong việc tuyên truyền các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về vấn đề giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí Tây Bắc, luận văn chỉ ra được thực trạng, đề xuất các phương hướng cụ thể nhằm tăng cường vai trò tác động của báo chí trong việc tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Đi vào phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số. - Khảo sát Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La, Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo về việc tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009. - Đề xuất một số phương hướng, giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng Tây Bắc.
  7. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, tác gi ả sẽ chỉ tập trung khảo sát, đánh giá nh ững bài viết liên quan đ ến việc bảo tồn và phát huy nh ững giá trị văn hóa truy ền thống đ ặc sắc và độc đ áo c ủa dân tộc thiểu số, thông qua các chuyên trang, chuyên mục cụ th ể của hệ thống các loại hình bá o chí Sơn La. Với thời l ượng một năm rưỡi (t ừ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009), với những tài liệu tin, bài thu thập liên quan đến vấn đề nghiên cứu là cơ sở nhận xét đánh giá khách quan cho đề tài nghiên cứu. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; những đường lối, chủ trương về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước. Mặt khác còn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết truyền thông và cơ sở lý luận báo chí. Đề tài còn dựa vào lý thuyết đặc điểm của văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số để nghiên cứu, đánh giá. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Thống kê các bài viết liên quan đến tuyên truyền giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trên Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo, chương trình phát thanh, truyền hình trong thời gian từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009. Trên cơ sở đó đánh giá, phân tích rõ hơn vai trò, vị trí của báo chí Sơn La với vấn đề tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với đối tượng là công chúng báo chí Sơn La để tăng thêm tính khách quan cho đề tài. 5. Đóng góp của đề tài Đây là công trình đầu tiên về công tác báo chí với việc tuyên truyền những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, cho nên đề tài sẽ có ích cho đối tượng lãnh đạo, quản lý báo chí hiểu hơn về vai trò, vị trí, thực trạng của hệ thống báo chí trong việc sản xuất các chương trình nhằm giữ gìn và nâng cao giá trị văn hóa các
  8. dân tộc thiểu số trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, từ đó có những chính sách phù hợp nhằm lãnh đạo, quản lý hiệu quả hơn. Đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung vùng Tây Bắc nói riêng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Về mặt lý luận Bước đầu tổng kết khái quát những quan điểm cơ bản về báo chí với vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc tổ quốc. 6.2. Về thực tiễn Làm phong phú thêm những công trình nghiên cứu về giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc và nhất là việc phát huy vai trò của báo chí trong công tác giữ gìn những giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc. Từ việc nâng cao ý thức công dân, cộng đồng các dân tộc trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo dựng thói quen, nếp sống coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình, tạo môi trường thuận lợi trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, từ đó tạo ra phong trào toàn dân bảo vệ phát triển những giá trị văn hóa phong phú và đặc sắc của dân tộc.Những hệ thống giải pháp và biện pháp thiết thực của đề tài sẽ góp phần thực hiện tốt không chỉ công tác thông tin, tuyên truyền trên báo chí mà còn nâng cao nhận thức, ý thức của cả cộng đồng về góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 11 tiết.
  9. Chương 1 NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1.1.1. Văn hóa Nói về văn hóa đó là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội, thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo của một dân tộc. Ta có thể thấy ở văn hóa nổi lên những đặc trưng cơ bản nhất là tính nhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử. Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội .Do đó, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của hoạt động văn hóa là khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Có thể coi đó là ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Chừng nào cái cái chân, cái thiện, cái mỹ bị lãng quên chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc… [ 35, tr.12]. Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “Văn hóa” được những nhà nhân loại học phương tây sử dụng như là một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế giới cơ thế giới có thể chia ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được, với tư cách là một thành viên của xã hội. Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo (F.Boas) ý nghĩa văn hóa được qui định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí,
  10. lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa. Văn hóa không xét ở góc độ cao thấp mà xét ở góc độ khác biệt [66, tr.18]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thì văn hóa chỉ gắn liền với con người và xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại phát triển văn hóa là ở hoạt động sáng tạo của con người. V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen từ quan điểm xem xét văn hóa với tư cách là sự phát triển bản chất của con người đã nhấn mạnh, phân tích sâu thêm mặt xã hội của văn hóa với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế. Người nhấn mạnh tính nhân loại, tính giai cấp, tính kế thừa của văn hóa. Đặc biệt xem cách mạng văn hóa như một bộ phận hữu cơ của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khi tiếp nhận tư tưởng cách mạng của Mác-Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, từ năm 1943 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương pháp sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [28, tr.17]. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm những gì không phải là của thiên nhiên mà liên quan tới con người trong quá trình tồn tại, phát triển quá trình con người làm nên lịch sử…” [66, tr.21]. Hoặc theo định nghĩa của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
  11. tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những công trình vượt trội lên bản thân [66, tr.23-24]. Văn hóa có nhiều cách hiểu khác nhau, trên cơ sở phân tích những định nghĩa về văn hóa PGS. TSKH: Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này đã nêu bật được bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa: Tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh [66, tr.22]. Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội…” [28, tr.212]. Cho đến nay, mọi người chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định nghĩa văn hóa. Từ năm 1952, một số nhà dân tộc học người Mỹ đã trích lục được trên dưới ba trăm định nghĩa về văn hóa của các tác giả khác nhau trên thế giới phát ra từ trước đó cho đến lúc bấy giờ. Từ đó đến nay chắc chắn số định nghĩa đã tăng lên rất nhiều tuy nhiên không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hòa hợp, bổ sung cho nhau, nhưng tựu chung các định nghĩa đều khẳng định rằng, văn hóa là một nhân tố cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của con người và của loài người. Thiếu nó, loài người không phát triển. Và khi đó xã hội loài người sẽ vĩnh viễn chỉ là một bầy đàn những con vật biết đứng trên hai chân mà thôi. Như vậy, trong khi có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà văn hóa lại cùng khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển, coi văn hóa là yếu tố cơ bản, là động lực của phát triển. Từ “Văn hóa” trong vô vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hóa ta có thể qui về hai cách hiểu chính. Theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử...văn hóa được xem là bao gồm những gì do con người sáng tạo ra. Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn...
  12. Cái đặc trưng cốt lõi của văn hóa, cái làm cho văn hóa có sức mạnh phục vụ phát triển là bản sắc riêng có của mỗi nền văn hóa, mỗi dân tộc. Chính bản sắc riêng ấy mới tạo ra sự đa dạng, phong phú của các nền văn hóa trên thế giới, mới kích thích nhu cầu tìm hiểu, tiếp thu, hòa nhập lẫn nhau giữa các nền văn hóa, nhằm làm cho mình giàu có hơn, phong phú hơn. Và nhờ vậy nền văn hóa thế giới từ đó càng đa dạng và phong phú. Quá trình này là quá trình sáng tạo – sáng tạo ra những giá trị mới phục vụ đời sống con người. Nhờ sáng tạo mà các nền văn hóa có sức mạnh chi phối sự phát triển, tạo ra sự phát triển. Một nền văn hóa đồng phục sẽ giết chết sự sáng tạo, mà cũng vì thế mà giết chết sự phát triển. Văn hóa chính là kết tinh của nhiều giá trị vật chất và tinh thần trong xã hội. Một năm, một thập kỷ, thậm chí cả thế kỷ không dễ tạo nên cơ sở của một nền văn hóa dân tộc. Mỗi dân tộc có thể có những sức mạnh riêng về kinh tế, quân sự, tài nguyên, môi trường, nhưng sức mạnh về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt. Nó tác động trực tiếp và lâu dài đến nhiều hoạt động xã hội. Theo một nhà nghiên cứu nước ngoài, Liên hợp quốc có 193 quốc gia thì chỉ có 34 dân tộc có nền văn hóa có bản sắc trong đó có Việt Nam. Sức mạnh của văn hóa được tổng hợp từ nhiều nhân tố, nhiều điều kiện chính trị, xã hội nội tại không thể vay mượn được. Có thể một dân tộc chịu những ảnh hưởng của một nền văn hóa, văn nghệ của một dân tộc khác nhưng ở một mức độ nhất định, nhưng không thể áp đặt. Văn hóa qui luật của nó là trao đổi. Khuynh hướng đóng cửa hạn chế giao lưu văn hóa là trái qui luật. Tuy nhiên, văn hóa là yếu tố nội sinh, không thể chuyển giao như chuyển giao công nghệ từ nước này, dân tộc này sang dân tộc khác được. Như vậy, “Văn hóa đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội, văn hóa là nền tảng, là mục tiêu, là động lực và là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội” [61, tr.160]. 1.1.2. Văn hóa truyền thống Cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước ngàn đời của dân tộc Chúng ta đã có một nền văn hóa lâu đời, độc đáo, đa dạng, là thành quả nghìn năm đấu tranh, lao động sáng tạo của các dân tộc Việt Nam. Khi nói tới văn hóa truyền thống, chủ yếu chúng ta muốn nói đến thành quả văn hóa do
  13. cha ông chúng ta đã xây đắp và phát triển trong quá khứ và nó đã làm nên cái bản sắc, cái độc đáo, cái đặc trưng của văn hóa dân tộc ta [28, tr.105]. Như vậy, giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là những gì tinh túy nhất, quí báu nhất. Có thể nói bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính thống nhất, tính nhất quán so với chính mình trong quá trình phát triển, đặc biệt trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa. Giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc cũng chính là những nét riêng có của tinh thần, bản lĩnh, tâm hồn, tính cách dân tộc, là tâm lý, là sức mạnh nội sinh của từng nền văn hóa của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa truyền thống còn là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo, tự điều chỉnh và tự tiếp nhận, từ đó tạo cho dân tộc mình có những giá trị văn hóa riêng mà nền văn hóa khác không có. Những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc đó được hình thành trong sự chi phối của những qui luật văn hóa chung của nhân loại, nhưng mang những nét riêng có của mỗi dân tộc, làm cho nó trở thành hấp dẫn, độc đáo cần học hỏi, tiếp thu. Bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc thể hiện trong truyền thống của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc hình thành và phát triển theo những điều kiện xã hội và kinh tế, chính trị và thể chế. Nó cũng phát triển theo quá trình xâm nhập văn hóa, theo xu hướng tiến hóa chung của nhân loại chủ yếu trên hai mặt mang tính thống nhất vừa giữ vữ ng phát huy cái hay, cái đ ẹp vừa ti ếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đúng với t ư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa “Ph ương Đ ông ha y ph ươ ng Tây, có cái gì hay, có cái gì t ốt phải học lấy để tạo ra nền v ăn hóa Vi ệt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của v ă n hóa xưa và văn hóa n ay, trau d ồi cho vă n h óa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam” [ 28, tr.22]. 1.2. TÂY BẮC - MỘT VÙNG ĐẤT GIÀU GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.2.1. Tây Bắc - Vùng đất có tầm quan trọng về địa lý - Kinh tế - Chính trị
  14. Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Đi ện Biên có đường biên giới giáp với các n ước bạn Lào và Trung Quốc, Với gần 30 d ân tộc anh em: Kinh, Thái, H’Mông, M ường, LaHa, Tày, Dao, Kháng, Sinh Mun, Kh ơ mú, Lào, Hoa, … cùng sinh s ống, là một vùng rộng lớn có địa chính trị, kinh tế- văn hóa độc đáo, có vị trí chiến l ược đ ối với sự phát triển của đ ất nước cả về an ninh - quốc phòng - kinh t ế, xã hội và văn h óa. Đ ây là c ửa ngõ đ ường bộ và các tỉnh biên giới cũng là án ngữ các quốc gia ph ương Bắc tiến xuống Đông Nam Á. C hủ nghĩa đ ế quốc và các thế lực thù đ ịch phản động, từ trước tới nay luôn lợi dụng vị tr í hiểm trở, những khó khăn tạm thời về kinh tế - xã hội để thực thi các thủ đ oạn chia rẽ dân tộc, thực hiện “ diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng n ước ta. Vì thế, vị trí q uan tr ọng này luôn được các nhà cầm quân trong lịch sử và đ ược Đ ảng xác định là then chốt trong cuộc đấu tranh cách mạng dành độc lập dân tộc cho đến công cuộc xây d ựng và bảo vệ tổ quốc ngày hôm nay. Trong s ự nghiệp đ ổi, Đ ảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ tr ương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - x ã h ội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn h óa dân tộc, tạo điều kiện để Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, cùng đất nước tiến lên công nghiệp hóa- h iện đại hóa. Bên cạnh sự phát triển chung của đất nước , thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà n ước về mở cửa, giao lưu h ội nhập kinh tế quốc tế, Khu vực Tây Bắc cũng đ ang đứng trước thời cơ và thách th ức lớn, giữ vững đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, xây dựng nền v ăn hóa Vi ệt Nam tiên tiến đ ậm đà b ản sắc dân tộc, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về đời sống văn hóa trong đời sống đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Từ chủ tr ương và s ự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước sự cố gắng nỗ lực của chính quyền địa phương và nhân dân, đời sống kinh tế văn h óa, xã hội của người dân Tây Bắc đã có nhiều khởi sắc. Sản xuất nông nghiệp từ chỗ mang tính tự cung, tự cấp đã chuyển sang hàng h óa sản xuất khá phổ biến ở các vùng gắn với thị tr ường trong n ước và quốc tế, cơ c ấu cây trồng, chăn nuôi đã đ ược chuyển đ ổi ở nhiều địa phương. Sự đầu tư của nhà n ước vào các công trình kinh tế trọng điểm nh ư: Nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhà máy thủy điện Sơn La hiện có công xuất lớn nhất Đ ông Nam Á, hệ thống
  15. giao thông n ối liền các tỉnh vùng Tây Bắc, giao thông tới các trung tâm huyện, thị xã, thành phố. Hệ thống bưu điện, chợ, trư ờng học đ ược mở rộng đến từng cụm xã, bản. Nhiều thôn, bản đã có đội văn ngh ệ quần chúng, nhiều bản đ ã trở thành bản văn hóa có sức hấp dẫn đ ối với khách du lịch trong n ước và quốc tế. Trình độ dân trí của các đồng bào các dân tộc đ ược nâng lên. Để đ i khảo sát vào những thành tựu phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Bắc, tác giả luận văn xin đi sâu vào Sơn La, đây là một tỉnh trung tâm của miền núi Tây Bắc. Trong những năm đ ổi mới, nhất là từ khi có nghị quyết 22 - B ộ chính trị “ Về một số chủ trương chí nh sách lớn phát triển kinh tế xã hội miền n úi” (Ngày 27 tháng 11 năm 1989), ch ỉ thị 39/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh công tác văn hóa thông tin ở miền núi và đ ồng bào dân tộc thiểu số, cùng h àng lo ạt các chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện tốt chính sách dân tộc, Sơn La đã có nh ững b ước tiến đáng kể về phát triển kinh tế- xã h ội. Hiện nhịp độ t ăng trưởng tổng sản phẩm (GDP) của Sơn La đ ạt 7,8%. Bình quân lương th ực đầu người đạt 400kg, ch ăn nuôi gia súc, tăng trưởng từ 2- 5% năm Sản xuất l ượng thực giữ vững đ ược thế ổn đ ịnh và tiếp tục phát triển. Tổng sản l ượng lương thực có hạt đạt 25,5 vạn tấn năm 2008. Thế trận cây công nghiệp hàng hóa chủ lực hiện nay của Sơn La được củng cố và phát triển, tạo vùng n guyên liệu chế biến và xuất khẩu. Độ che phủ của rừng năm 1996 là 21,5% tăng lên 50% năm 2008, giá tr ị xuất khẩu công nghiệp tăng bình quân hàng nă m l à 33,5%. Mạng l ưới đ iện quốc gia đã đến đ ược 99% cơ sở xã, ph ường, thị trấn, thành phố. Thực hiện công cuộc đổi mới của Đ ảng, các dân tộc Tây Bắc nói chung Sơn La nói riêng đang có những b ước tiến đáng kể về phát triển kinh tế, văn h óa, xã hội. Các cơ sở kinh tế mới, hệ thống tr ường phổ thông nội trú đ ược quan tâm th ỏa đáng. Vì th ế, các dân tộc đ ã kh ẳng định t ính vững chắc, niềm tin tuyệt đ ối vào con đường đổi mới của Đảng, Nhà n ước ta hiện nay. Sơn La đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng đ ộ tuổi, chống mù chữ và đang củng cố kết quả đó. Về y tế hiện nay đã loại trừ bệnh phong trong toàn tỉnh, trên 2 200 bản có cán bộ y tế. Trên lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản phát triển về cả chiều sâu và bề rộng, góp phần tích cực
  16. vào vi ệc giáo dục lý tưởng, đạo đ ức, củng cố khối đ ại đoàn kết cổ vũ thực hiện công cuộc đ ổi mới. Hiện nay Sơn La có 450 bản văn hó a, gần 60.000 gia đình văn hóa, có trên 650 đ ội văn ngh ệ quần chúng, 70% dân số đ ược xem truyền hình, 80% dân s ố được nghe hệ thống Đài phát thanh T rung ương và địa ph ương. Từ những nét cơ bản về kinh tế, xã hội của Sơn La cho th ấy, đời sống văn hóa, xã hội của đ ồng bào các dân tộc Sơn La c ũng như mi ền núi Tây Bắc hôm nay đã có s ự thay đổi đáng kể. Những gì đạt đ ược từ chiến lược phát triển kinh tế, x óa đói giảm nghèo của Đảng, Nhà n ước hôm nay là do “Đảng bộ các tỉnh Tây Bắc không chỉ quan tâm đến mặt kinh tế mà còn đặc biệt quan tâm chăm lo đ ến đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, phát huy văn hóa dân t ộc và tăng cường giao l ưu văn hóa gi ữa các dân tộc anh em” [53, tr.39], đây chắc chắn sẽ là đ ộng lực để đồng bào Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng vững b ước phát triển, đi lên. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tỉnh miền núi Tây Bắc thực chất cũng là quá trình hình thành và phát triển con người - nguồn lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của bà con các dân tộc Tây Bắc. 1.2.2. Tây Bắc vùng đất của những trang sử anh hùng Tây Bắc, là địa bàn miền núi, nhiều dân tộc, có truyền thống văn hóa lâu đời từ thời dựng nước và giữ nước. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, trừ một bộ phận cư trú ở vùng thấp, còn phần lớn sống ở vùng núi cao, biên giới nơi không chỉ có nhiều tiềm lực to lớn về kinh tế mà còn có vị trí chính trị xung yếu, là tiền đồn quan trọng cho bảo vệ tổ quốc. Người dân Tây Bắc với bản chất chịu thương, chịu khó, cần cù lao động sáng tạo, yêu quê hương đất nước. Do phải thường xuyên đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt, chống kẻ thù ngoại xâm, tinh thần đoàn kết cộng đồng đã tạo nên sức mạnh của thiết chế xã hội truyền thống. Xưa kia ông cha ta đã dựa vào địa thế hiểm trở và tinh thần chiến đấu của các dân tộc mà dựng cờ tụ nghĩa hay chiến đấu lâu dài chống lại các thế lực bành trướng và xâm lược nước ngoài và trong các cuộc kháng chiến sau này miền núi vẫn luôn là địa bàn chiến lược quan trọng trong công cuộc dành tự do và thống nhất tổ quốc.
  17. Thời kỳ chống Bắc thuộc, Triệu Đà thôn tính Âu Lạc, người dân vùng Tây Bắc đã cùng nhau đoàn kết với người miền xuôi đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đồng bào các dân tộc Tây Bắc luôn đoàn kết một lòng theo Đảng, theo Bác chống thực dân Pháp, vùng Tây Bắc đã trở thành căn cứ cách mạng quan trọng của Trung ương và của Chính phủ ta. Thời kỳ này phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở đây, thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc Tây Bắc khẩn trương chuẩn bị đón thời cơ dành chính quyền. Ngược dòng lịch sử, năm 1943, tại nhà ngục Sơn La, người thanh niên cách mạng dân tộc Thái Lò Văn Giá, đã cùng với chi bộ nhà tù tổ chức cuộc vượt ngục thành công đưa nhiều đồng chí là tù chính trị trở lại hoạt động, lãnh đạo phong trào cách mạng chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công khởi nghĩa toàn quốc. Trong đó có đồng chí Nguyễn Lương Bằng. Sau khi trở về người thanh niên này đã hy sinh anh dũng. Cũng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, các dân tộc miền núi đã hết lòng ủng hộ và hy sinh quên mình cho kháng chiến đi đến thắng lợi. Trong chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm xưa đã có sự góp sức, góp của không nhỏ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), nhân dân các dân tộc Tây Bắc lại đồng lòng đứng lên, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. vượt qua muôn vàn khó khăn, ra sức lao động sản xuất, góp phần là hậu phương lớn của Miền Nam ruột thịt. Ở Tây Bắc chỉ trong bốn năm từ năm 1965-1968 Tây Bắc đã có 159.818 thanh niên các dân tộc lên đường tòng quân ra mặt trận, trong đó có 2% là nữ và nhiều con em các dân tộc thiểu số. Trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, bàn chân của con em các dân tộc thiểu số đã in khắp các chiến trường, trong số đó có rất nhiều người đã không bao giờ trở về. Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, song các thế lực thù địch vẫn lợi dụng địa bàn hiểm trở, cư dân thưa thớt, đặc biệt lợi dụng dân tộc Tây Bắc có những mối quan hệ láng giềng và quan hệ họ hàng thân thiết với đồng bào dân tộc ngoài biên giới hoạt động chống phá cách mạng nước ta, mục đích nhằm vô hiệu hóa các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trước “Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta đã từng bước cảm hóa mạnh mẽ và thu hút được tất cả các dân tộc thiểu số Tây
  18. Bắc đi theo con đường đấu tranh và xây dựng để có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [53, tr.45]. Với truyền thống yêu nước và lòng tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, tiếp bước cha, anh, “Các dân tộc, tộc người sống trên vùng Tây Bắc đã tìm thấy sức mạnh của mình, con đường phát triển của mình trong sức mạnh và con đường phát triển chung của cả cộng đồng các dân tộc nước ta,” [53, tr.43] luôn thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước, định canh, định cư, xóa bỏ cây thuốc phiện truyền thống, thực hiện nhận đất, nhận rừng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, đưa các giống mới vào gieo trồng, tích cực xóa đói, giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, mở mang y tế, phát triển giao thông, vận tải, phát thanh - truyền hình, thông tin văn hóa…Đảng bộ các dân tộc Tây Bắc đặc biệt quan tâm phát triển nền văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số làm cho nó thực sự nở hoa kết trái góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Nền văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc không chỉ tồn tại, đứng yên mà đã và đang luôn luôn vận động phát triển trong sự giao lưu, tác động lẫn nhau. Quá trình giao lưu ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ sự xích lại gần nhau, tăng thêm mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc ở nước ta. 1.2.3. Tây Bắc vùng đất giàu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số Văn hóa Tây Bắc là trầm tích lịch sử kéo dài và nối liền từ tiền - sơ sử cho đến ngày nay. Các đặc điểm địa lý tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng đất này đã tạo nên một vị thế và đặc điểm văn hóa riêng, có những đóng góp quan trọng vào tiến trình văn hóa dân tộc. Nói đến Tây Bắc là nói đến một vùng văn hóa đa dạng, phong phú, giàu hương sắc và đậm đà bản sắc dân tộc, bởi mảnh đất này là nơi hội tụ sinh sống từ lâu đời của hàng chục dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có một kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái riêng và hết sức quý giá. Đến Tây Bắc, dễ dàng được chứng kiến cách sống đặc trưng của văn hóa nhà sàn, đắm mình trong những điệu múa nón, múa chuông, múa Cống Tốp, Au eo… và các làn điệu dân ca trữ tình đằm thắm hòa quyện cùng tiếng đàn tính, đàn môi, khèn bè, Pí thiu, Pí ót… Đêm đêm, bên bếp lửa nhà sàn, trong hương vị rượu cần ngây ngất, sẽ được nghe những bản trường ca, tình ca bất hủ, giàu chất sử thi và thấm đẫm tính nhân văn về quá trình tạo mường lập bản, chống giặc ngoại xâm, về tình yêu quê hương
  19. đất nước, tình yêu đôi lứa và đạo lý làm người. Tây Bắc nổi tiếng với kiến trúc nhà sàn Thái độc đáo, thơ mộng bằng chất liệu gỗ, nứa, tranh tre, mà điển hình là “khau cút” sinh động vươn cao ở hai đầu chái nhà và các họa tiết hoa văn hình thoi, hình trám thể hiện ở hàng lan can hay trên các khung cửa sổ, tạo nên sự hài hòa tinh tế và phù hợp với cảnh quan thiên nhiên miền núi. Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Sơn La có từ lâu đời, điển hình là nghề dệt thổ cẩm với các hình trang trí hoa, thú, chim rất trang nhã và sinh động; Nghề đan lát mây tre, sản xuất gốm của đồng bào Thái, Mường, Dao, Khơ mú; Luyện sắt làm vũ khí và các dụng cụ sản xuất của đồng bào Mông. Trong các dịp lễ tết, ngày hội, cộng đồng các dân tộc Tây Bắc có nhiều trò chơi dân gian rất thú vị như ném còn, kéo co, đua ngựa, bắn nỏ, chơi quay, ném Pa pao… Những phong tục tập quán, lễ hội của cộng đồng các dân tộc Tây Bắc như : “sên bản, sên mường”, “lên nhà mới”, “lễ hội gội đầu”, “mừng cơm mới”, “cầu mưa”…cũng rất độc đáo và hấp dẫn. Tất cả những giá trị văn hóa truyền thống đó đã tạo nên bản sắc riêng và là hàn h trang quý giá của các dân tộc Tây Bắc cần phải được bảo vệ gìn giữ và phát huy, bởi văn hóa của mỗi dân tộc chính là “phần hồn” của dân tộc ấy, nó là thứ không thể thay thế được, nếu để mất bản sắc văn hóa thì không còn chính dân tộc đó nữa. Ý thức rõ điều đó, nhiều năm qua Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây Bắc đã chủ động xây dựng và thực hiện chiến lược bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bước đầu đã thu được những kết quả khả quan. Để đi khảo sát những kết quả đạt được trong công tác bảo tồn và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của các tỉnh vùng Tây Bắc, chúng tôi xin đi sâu vào tỉnh Sơn La, đây là một tỉnh trung tâm của miền núi Tây Bắc. Trong những năm đổi mới, đặc biệt là từ khi thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ V khóa VIII của Đảng, Sơn La đã tổ chức kiểm kê, điều tra, khảo sát, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng các di tích lịch sử và văn hóa, đến nay đã kiểm kê được 37 di tích lịch sử cách mạng, 36 di tích khảo cổ học, 14 di tích danh thắng, 3 di tích kiến trúc nghệ thuật, trong số này, đến nay có 10 di tích được xếp hạng Quốc gia, 29 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Công tác nghiên cứu khoa học, đề xuất các phương án bảo tồn được đẩy mạnh, các đề tài nghiên cứu cấp tỉnh về bảo tồn di sản văn hóa đã được thực hiện như: Đề tài nghiên cứu “Văn hóa thời tiền- sơ sử Sơn La”; Đề tài “Nghiên cứu bổ sung và viết thuyết minh giới thiệu một số di
  20. tích lịch sử văn hóa dọc Quốc lộ 6 tỉnh Sơn La”. Những kết quả nghiên cứu này đã được áp dụng vào thực tiễn, kịp thời bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa, tiêu biểu là Khu di tích Nhà tù Sơn La, Di tích lịch sử văn hóa Quế Lâm Ngự Chế- Đền thờ Vua Lê Thái Tông, Di tích lịch sử Ngã ba Cò Nòi, Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Mường Và, Tháp Mường Bám, Thắng cảnh Hang Dơi Mộc Châu. Các di tích này đang được bảo tồn và khai thác rất hiệu quả, hàng năm thu hút được hàng nghìn lượt người tham quan, học tập góp phần vào việc giáo dục truyền thống, ý thức phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội của người dân Sơn La, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa với các vùng miền trong cả nước. Công tác sưu tầm, gìn giữ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng luôn được quan tâm, chú trọng. Hàng trăm di vật thời Tiền sử, sơ sử đã được tìm thấy tại nhiều địa phương như Mường Chanh (Mai Sơn); Thôm Mòn (Thuận Châu) và một số xã thuộc các huyện ven sông Đà như Mường La, Bắc yên, Phù Yên, Quỳnh Nhai. Gần 2000 bản sách được ghi chép bằng chữ Thái cổ thuộc nhiều thể loại như Sử thi, Trường ca, Truyện thơ dân gian… Nhiều hiện vật của nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống đã được sưu tầm, trưng bày, khai thác. Đặc biệt, nhằm bảo vệ các di sản vùng lòng hồ Thủy điện Sơn La, những năm qua Sơn La đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành điền dã, khảo sát thực địa phát hiện được 27 di tích, bước đầu đã xác định được tính chất, niên đại của các di tích, di chỉ khảo cổ, đó là: 03 di tích thời kỳ Phong kiến; 07 di chỉ khảo cổ học thời đại kim khí; 09 di chỉ thời đại đá mới; 08 di chỉ thời đại đá cũ. Tất cả những di tích và di chỉ này đang đư ợc khẩn trương xây dựng phương án bảo tồn và phát huy. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc Sơn La tưởng chừng như đã bị thất truyền hoặc đang có nguy cơ thất truyền và biến dạng, đã và đang được sưu tầm, phục dựng, gìn giữ và phát huy. Tuy nhiên, khôi phục các lễ hội truyền thống nhưng phải biết lựa chọn để nâng niu, bảo tồn những giá trị tinh thần, những nét đẹp văn hóa trong các lễ nghi, sửa đổi những yếu tố không còn phù hợp, mở rộng quy mô các lễ hội để cho các lễ hội trở thành điểm hội tụ văn hóa của cộng đồng. Cho đến nay, Sơn La đã có 01 lễ hội với quy mô Khu vực, đó là Ngày hội Văn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2