intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

125
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cách đây hàng trăm năm đã có những người Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài sinh sống. Từ đó đến nay đã hình thành một cộng đồng người Việt Nam gồm khoảng 2,7 triệu người ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Về căn bản, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đang phát triển theo chiều hướng ổn định, hòa nhập vào xã hội nơi cư trú và có nhiều hoạt động thiết thực nhằm duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về quê hương đất nước. Hiện tượng trên là một biểu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005

  1. LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cách đây hàng trăm năm đã có những người Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài sinh sống. Từ đó đến nay đã hình thành một cộng đồng người Việt Nam gồm khoảng 2,7 triệu người ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Về căn bản, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đang phát triển theo chiều hướng ổn định, hòa nhập vào xã hội nơi cư trú và có nhiều hoạt động thiết thực nhằm duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về quê hương đất nước. Hiện tượng trên là một biểu hiện thông thường, phù hợp với quy luật chuyển dịch dân cư trên thế giới. Vì những lý do khách quan và chủ quan của từng nước, sự di chuyển dân cư này diễn ra nhiều hay ít ở những thời kỳ khác nhau, nhất là trong những thời kỳ biến động lịch sử đặc biệt như đấu tranh giai cấp quyết liệt hay chiến tranh. Ngày nay, khi mà thế giới đang chuyển biến nhanh chóng trong xu thế toàn cầu hóa, quy luật này có thể trở nên phổ biến hơn, theo đó cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ có những phát triển mới về số lượng cũng như về tính đa dạng. Vì những mục đích khác nhau tất cả các nước có người dân của mình sinh sống ở nước ngoài đều có chính sách bảo hộ, hỗ trợ, vận động bộ phận dân cư này. Đây không chỉ là việc làm có ý nghĩa về mặt tình cảm dân tộc, có tác động về chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc gia, mà việc huy động tiềm năng của bộ phận dân cư này vào mục tiêu xây dựng đất nước có ý nghĩa kinh tế to lớn. Riêng đối với Việt Nam, lịch sử công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã gắn liền với lịch sử cách mạng dân tộc từ gần một thế kỷ nay, đặc biệt được quan tâm và thúc đẩy từ khi Đảng ra đời, in đậm dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ đã trực tiếp tiến hành tổ chức và lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Do những tác động khách quan và điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể từ sau khi đất nước thống nhất đến trước thời kỳ đổi mới (1975 – 1986), một phần không nhỏ những người rời Tổ quốc ra nước ngoài sinh sống thường có tư tưởng hận thù, chống lại chế độ mới và họ thường ra đi bằng con đường vượt biên trái phép. Vì vậy, công tác đối với người Việt
  3. Nam ở nước ngoài chưa được quan tâm, thậm chí còn nhiều bất cập; có khi là sự phân biệt, đối xử, cảnh giác. Bước vào thời kỳ đổi mới, sự nhìn nhận của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài có những nét mới, đánh giá cao lòng yêu nước của đồng bào, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào xây dựng khối đoàn kết cộng đồng (văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986), từng bước tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện để đồng bào hướng về Tổ quốc. Tình hình thế giới đang có những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp. Tình hình cách mạng trong nước cũng đang phát triển không ngừng, đòi hỏi mọi mặt công tác nói chung và lĩnh vực công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng nói riêng phải vươn lên đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới. Vì thế, cần nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Từ thực tế hoạt động công tác này rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm thúc đẩy công tác tiến lên một bước về chất, đáp ứng tầm phát triển của cách mạng. Việc nêu lên những cơ sở lý luận từ những hoạt động thực tiễn phong phú trong gần nửa thế kỷ qua, đặc biệt từ 1986 trở lại đây không chỉ nhằm làm phong phú thêm thực tiễn mà còn cần thiết để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao trong hoàn cảnh công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng được đổi mới nhằm theo kịp những chuyển biến nhanh chóng về mọi mặt. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài có ý nghĩa chiến lược, góp phần tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo vệ an ninh từ xa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống lại đất nước của bọn phản động người Việt ở nước ngoài; tăng cường quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước, củng cố vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; khai thác mọi tiềm năng và lợi thế của kiều bào phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chọn đề tài “Đảng lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là góp phần tạo sự chuyển biến đối với công tác này
  4. trong tình hình mới. Qua đó, đánh giá một cách khách quan những thành tựu, hạn chế của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng là hết sức cần thiết. Những kinh nghiệm rút ra từ việc lãnh đạo thực hiện công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong những năm 1986-2005 có tác dụng thiết thực phục vụ cho việc tổng kết sự lãnh đạo của Đảng trong những năm đổi mới đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu Thực tiễn công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài gần một thế kỷ qua bộc lộ tình hình sau: Trong khi những hoạt động thực tiễn là hết sức phong phú và hiệu quả thì việc nghiên cứu về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và về công tác đối với cộng đồng chưa được quan tâm đầy đủ, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Công tác hồ sơ tư liệu, ghi chép lịch sử, sự kiện không liên tục, chặt chẽ, việc đúc kết, tổng kết để nêu lên những bài học kinh nghiệm chưa được chú trọng thúc đẩy. Thực tế là cho đến nay có rất ít các công trình nghiên cứu về lĩnh vực công tác này kể cả ở trong nước và ngoài nước. Nghiên cứu những vấn đề về người Việt Nam ở nước ngoài có các công trình: “Thuyền nhân Việt Nam định cư hay hồi hương” của Vũ Ngọc Bình, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1996. Trong cuốn sách, tác giả chủ yếu nghiên cứu những vấn đề về người tị nạn trên thế giới; về thuyền nhân Việt Nam và quá trình ra đi cũng như hồi hương của họ; về luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam đối với thuyền nhân. Cuốn sách đã thống kê nhiều số liệu về người tị nạn trên thế giới và thuyền nhân Việt Nam. Đặc biệt những số liệu về người Việt Nam vượt biên bằng đường biển, số người hồi hương, số người còn trong các trại tị nạn ở Hồng Kông và một số n ước Đông Nam á, số người đã được đi định cư ở nước thứ ba từ năm 1975 đến năm 1996. Tư liệu được tác giả lấy từ các nguồn của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Cao ủy Liên hợp quốc về Người tị nạn (UNHCR), Tổ chức Di dân quốc tế (IOM) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF). Cuốn “Người Việt Nam ở nước ngoài” của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997. Đây là một chuyên khảo nghiên cứu công phu với hệ
  5. thống tư liệu phong phú, sinh động đề cập đến nhiều vấn đề trên các mặt, các lĩnh vực khác nhau trong đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội…của người Việt Nam ở nước ngoài từ trước cho đến những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Tác giả trình bày bản khảo cứu về người Việt Nam ở nước ngoài theo từng vùng kiều cư: Tây Âu, Bắc Mỹ, Liên Xô trước đây và Đông Âu, Ôtxtrâylia và Đông Nam á; theo từng nhóm người: trí thức, sinh viên, doanh nghiệp, văn nghệ sĩ, lao động… Bên cạnh đó, các đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp thu hút đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài”; “Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài thực tiễn và một số cơ sở lý luận” của ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đã từng bước nghiên cứu vấn đề. Đề tài thứ nhất chủ yếu nghiên cứu về tiềm năng và môi trường đầu tư liên quan tới người Việt Nam định cư ở nước ngoài, kinh nghiệm một số nước trong việc thu hút đầu tư của kiều dân. Nhóm tác giả đã nêu lên thực trạng đầu tư tại Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại yếu kém và nguyên nhân; từ đó đề ra một số giải pháp nhắm thu hút đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài vào Việt Nam. Đề tài thứ hai trình bày lược sử công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1930 đến năm 2002. Tiếp đó là phân tích một số vấn đề nổi cộm trong công tác như: tổ chức, cốt cán và phong trào Việt kiều yêu nước, đấu tranh chống bọn phản động người Việt, huy động đóng góp của kiều bào, thông tin văn hóa cho cộng đồng và nêu ra một số kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách của Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Liên quan tới chủ đề, thời gian qua, còn có một số bài đăng trên các tạp chí Cộng sản, Quê hương, Thông tin đối ngoại; trên các báo Nhân Dân, Đại đoàn kết, Tiền phong…Đáng chú ý là các bài viết của tác giả Nguyễn Phú Bình như: “Tiềm năng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” (Tạp chí Quê hương, số 10, năm 2004), “Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài và những bài học thực tế” (Tạp chí Cộng sản, số 2, tháng 1-2005), “Những chuyển biến tích cực trong công tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài năm 2005”(Tạp chí Cộng sản, số 2+3, năm 2006)…Trên sách, báo của người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều bài đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề Đảng lãnh đạo công tác đối với người Việt
  6. Nam ở nước ngoài, nhưng chưa có các công trình nghiên cứu khoa học, hệ thống. Một số tác giả người nước ngoài cũng đã có những công trình về người Việt Nam ở nước ngoài hoặc liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài. Tác giả Trần Trọng Đăng Đàn, trong cuốn Người Việt Nam ở nước ngoài cho biết ở Pháp có nhà dân tộc học Georges Boudarel, giáo sư đại học Pari VII, đã có một công trình nghiên cứu về người Việt Nam ở nước ngoài và hoàn cảnh lưu vong của họ. ở Mỹ, ký giả Sonni Efron đã thực hiện một phóng sự điều tra về thực trạng của cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ sau 15 năm, đăng trên tờ “Los Angeles Times” năm 1990. Tại các nước thuộc Liên Xô trước đây và Đông âu có giáo sư, tiến sĩ N.I.Niculin- nhà Việt Nam học nổi tiếng đã để gần như suốt cả cuộc đời hơn 40 năm nghiên cứu khoa học của mình cho Việt Nam trong đó có nhiều công trình nghiên cứu về Việt kiều tại đây… Nhìn chung ở từng chừng mực về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005 đã được đề cập trong những công trình kể trên. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên về Đảng lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn: Nhận thức rõ vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Góp phần củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa người Việt Nam ở trong nước với cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. * Nhiệm vụ của luận văn: -Làm rõ thực trạng tình hình, vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước. -Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với một lĩnh vực công tác mới và rất quan trọng là công tác với người Việt Nam ở nước ngoài. Nêu bật quan điểm, chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng đối với đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài.
  7. -Khẳng định những thành công, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác người Việt Nam ở nước ngoài. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ năm 1986 đến năm 2005. - Phạm vi của luận văn là tập trung nghiên cứu nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ 1986 đến 2005. Các lĩnh vực công tác khác có liên quan mật thiết đến công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài như công tác vận động quần chúng của Đảng, Chiến lược đại đoàn kết dân tộc cũng được đề cập trong luận văn với mục đích so sánh hỗ trợ để nêu bật đặc thù của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và đại đoàn kết dân tộc. Các quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước cũng như các chủ trương, chính sách về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cũng là cơ sở lý luận của công trình nghiên cứu. Về mặt thực tiễn, luận văn dựa trên thực tiễn mọi mặt đời sống của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và thực tiễn công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài từ 1986 đến 2005. - Nguồn tư liệu để thực hiện luận văn này bao gồm: + Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX; những chỉ thị, nghị quyết, quyết định, nghị định của Trung ương, Bộ Chính trị và Chính phủ về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; về đại đoàn kết dân tộc; về Mặt trận; về dân vận trong thời kỳ đổi mới. + Những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đã được công bố. + Báo Nhân Dân, báo Đại đoàn kết, tạp chí Cộng sản, báo Tiền phong, tạp chí Quê hương điện tử... - Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích là chủ yếu. Đồng thời kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như thống kê, so sánh, đối chiếu nhằm làm nổi bật quá trình lãnh đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng từ 1986 đến 2005.
  8. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Trình bày có hệ thống, làm rõ tính đúng đắn, nhất quán trong đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng từ 1986 đến 2005. - Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm thực tiễn góp phần làm tốt hơn công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được gồm 2 chương 5 tiết.
  9. Chương 1 sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (1986 – 1993) 1.1. tình hình cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài 1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử người Việt Nam ra nước ngoài Đã có nhiều cách gọi người Việt Nam ở nước ngoài như “Việt kiều”, “kiều bào”, “người Việt Nam ở nước ngoài”, “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”…Trong thực tiễn và ngay cả trong những văn bản pháp quy các khái niệm này luôn gắn liền với công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Khái niệm Việt kiều là khái niệm được sử dụng một cách rộng rãi và cũng là danh từ sớm được sử dụng trong các văn bản chính thức. Điều 36 Hiến pháp 1959, Điều 75 Hiến pháp 1980 quy định “Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều”. Tiền thân của ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay cũng gọi là Ban Việt kiều Trung ương. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kiều bào ta ở nước ngoài đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của. Lúc này khái niệm “Việt kiều” được sử dụng rộng rãi trong tên gọi của các phong trào Việt kiều yêu n ước. Sau nam 1975, số người di tản ra nước ngoài ồ ạt. Những người này ngại nhận mình là Việt kiều vì sợ lẫn với các phong trào Việt kiều yêu nước trước đó. Do những mặc cảm về hoàn cảnh ra đi, thái độ với chế độ mới ở trong nước, họ thường nhận là “người Việt tị nạn”, “người Việt hải ngoại”, “cộng đồng người Việt tự do”… Tại Nga và các nước Đông âu, những người Việt Nam ở đây dù đã định cư cũng không muốn coi mình là Việt kiều vì mặc cảm cho rằng Việt kiều chỉ để chỉ những người Việt Nam ở các nước tư bản phương Tây và sợ lẫn với người Việt tị nạn ở các nước này. Từ điển tiếng Việt 1997 chú giải từ “kiều” chỉ là “Yếu tố ghép sau một danh từ riêng, tên gọi một dân tộc, để cấu tạo danh từ, có nghĩa “Kiều dân”, ví dụ Hoa kiều, Việt kiều ở Mỹ. Về ngôn ngữ từ “kiều” mang ý xa xôi, sống phiêu bạt ở nước ngoài. Như vậy việc sử dụng khái niệm “Việt kiều” hiện tại ít nhiều tạo ra những mặc cảm đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
  10. Hiến pháp 1992 đã sử dụng khái niệm “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” thay thế cho khái niệm “Việt kiều”. Cho đến nay hầu hết các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước, văn bản pháp quy ban hành đã không dùng khái niệm “Việt kiều” nữa. Khái niệm kiều bào là khái niệm được sử dụng nhiều trong các nghị quyết của Đảng, phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Từ điển tiếng Việt năm 1997 nói “Kiều bào là người dân nước mình sinh sống ở nước ngoài”. Tuy nhiên trong thực tế người ta không sử dụng kiều bào để chỉ những người Việt Nam đi lao động, học tập có thời hạn ở nước ngoài. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài lần đầu tiên được giải thích một cách chính thức trong Luật Quốc tịch Việt Nam 1998. Điều 2, Khoản 4 của Luật nêu rõ: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài” [63, tr.12]. Định nghĩa này cũng chỉ mang tính ước lệ. Trong thực tế để xác định rõ quy chế định cư của người Việt Nam ở nước ngoài, người ta thường phải xem xét trong từng trường hợp cụ thể trên cơ sở các giấy tờ của đương sự, các mối quan hệ, luật pháp nước sở tại. Khái niệm người Việt Nam ở nước ngoài được sử dụng phổ biến hiện nay. Năm 1993 Ban Việt kiều Trung ương cũng đổi tên thành ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài. Điều 2, Khoản 3 Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 định nghĩa: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài” [63, tr.12]. Có thể nói, đây là khái niệm rộng nhất, bao hàm tất cả các đối tượng người Việt Nam không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch hay cư trú. Trong thực tiễn chúng ta gặp nhiều khái niệm khác nhau để chỉ người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, một số khái niệm lại chưa được định nghĩa một cách chính thức và đầy đủ. Tình trạng này đã gây không ít khó khăn trong công tác xây dựng chính sách, trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng nh ư trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Thực tế này xuất phát từ tình trạng phức tạp về quốc tịch của kiều bào. Vì vậy những khái niệm để chỉ người Việt Nam ở nước ngoài còn là vấn đề cần được hệ thống, nghiên cứu hơn nữa và phải được luật hóa trong tương lai.
  11. Trong luận văn này, để rút gọn khi viết và để sinh động trong cách trình bày, nhiều chỗ vẫn sử dụng chữ “Việt kiều” hoặc “kiều bào” thay cho người Việt Nam ở nước ngoài. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Từ rất sớm đã có người Việt Nam ra sinh sống ở nước ngoài. Theo lịch sử ghi lại thì hoàng tử Lý Long Tường, con thứ hai của vua Lý Anh Tông, đã sang Cao Ly tị nạn từ thế kỷ thứ XIII. Đến thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX cùng với lịch sử truyền giáo của các nước phương Tây và việc xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, phạm vi cư trú của người Việt Nam ra nước ngoài được mở rộng. Thời kỳ này, có một số tín đồ đạo Thiên chúa từ Việt Nam di cư sang Siam (Thái Lan), nhiều người di cư sang Pháp và một số thuộc địa của Pháp như Tahiti, Niu Dilân. Cuối thế kỷ XIX và nhất là đầu thế kỷ XX số người Việt Nam ra nước ngoài tăng lên về số lượng và đặc biệt là về chất lượng. Cùng với việc mở rộng kiều cư ra các nước châu á là các phong trào hoạt động yêu nước mà rầm rộ nhất là phong trào Đông du. Phan Bội Châu hoạt động tại Nhật Bản và Trung Hoa từ năm 1904 cho đến năm 1925; cũng từ năm 1904, Tăng Bạt Hổ xuất dương sang Nhật mưu đồ cứu nước, rồi bôn ba ngót 20 năm ở Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và đến cả nước Nga; Nguyễn Thượng Hiền từ năm 1907 và Phạm Hồng Thái từ năm 1918 đã trở thành một chí sĩ người Việt Nam ở nước ngoài chiến đấu cho độc lập dân tộc và hy sinh ở Trung Quốc…Bên cạnh sự hoạt động của người Việt Nam ở nước ngoài thuộc các nước phương Đông người Việt Nam ở các nước phương Tây cũng có nhiều hoạt động sôi nổi. Có một số nhân vật lỗi lạc đã trở thành niềm tự hào của người Việt Nam ở nước ngoài đó là Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh …và đặc biệt là Nguyễn Tất Thành. Từ năm 1911, Người đã sống và hoạt động cách mạng trên các châu lục và trở thành Nguyễn ái Quốc- một nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, nhiều người Việt Nam yêu nước đã vượt biển đến vùng đông bắc Thái Lan để hoạt động chống thực dân Pháp. Cùng thời gian này, một số người Việt Nam khác cũng bị thực dân
  12. Pháp đưa sang Lào và Campuchia làm phu đồn điền. Thời kỳ Mỹ xâm lược Việt Nam 1954-1975 số người Việt Nam ra nước ngoài tăng hơn, chủ yếu là để học tập và một phần là ra đi để trốn quân dịch. Cho đến khi Mỹ thất bại ở miền Nam Việt Nam, toàn bộ ngụy quyền, ngụy quân sụp đổ thì cả một làn sóng di cư ồ ạt từ Việt Nam ra nước ngoài, mà trước hết là đến Mỹ, Canada, ôxtrâylia, Pháp…đã làm cho số lượng người Việt Nam ở nước ngoài tăng vọt. Những năm 1975-1980, cuộc di cư ồ ạt do thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã trở thành những đường dây vượt biên theo nhiều cách. Tiếp đó là số người đi ra nước ngoài do sự kiện xung đột quân sự tại biên giới phía Bắc và những biến động tại Campuchia, tại mặt trận biên giới Tây Nam; có một phần nhỏ đi bằng đường bộ, nhưng chủ yếu đi bằng đường thủy và họ được gọi là “thuyền nhân”. Theo thống kê của Cơ quan Cao ủy tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR) thì từ năm 1975 đến năm 1991, có hơn một triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Năm 1979 là năm có người ra đi nhiều nhất (khoảng hơn 20 vạn người), trung bình có hơn 1,5 vạn mỗi tháng. Số người này đến Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia, Philippin, Inđônêxia, Nhật Bản và chính quyền ở đây chỉ cho “tạm trú” trong các trại tị nạn để được chọn chuyển đi định cư ở nước thứ ba. Và cũng theo UNHCR cho biết đến tháng 2-1985, các nước phương Tây đã tiếp nhận 555.573 “thuyền nhân” từ các tỉnh, thành thuộc miền Nam Việt Nam. Nhìn một cách tổng quát, lịch sử di dân của người Việt Nam ra nước ngoài gắn chặt với lịch sử cùng những biến cố lớn của đất nước và của thế giới. Quá trình di dân ra ngoài nước Việt Nam có kèm theo quá trình hồi hương của người Việt Nam từ nước ngoài về nước (chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau). Lịch trình di dân càng về sau càng sôi động và đặt ra nhiều vấn đề mới không chỉ thuộc phạm vi quốc gia mà là cả quốc tế. 1.1.2. Thực trạng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một cộng đồng phức tạp về thành phần xã hội, xu hướng chính trị, địa vị pháp lý, thế hệ và đa dạng về nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc… Sự phức tạp này cũng rất khác nhau giữa các địa bàn và thể hiện dưới những nét chủ yếu sau:
  13. -Số lượng, phân bố: tính đến năm 2004 có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang làm ăn sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 4/5 sống ở các nước phương Tây. Tập trung ở Mỹ khoảng 1300.000 người, Pháp khoảng 300.000 người, ôxtrâylia khoảng 250.000 người, Canađa khoảng 200.000 người. Campuchia, Thái Lan, Nga và Đức mỗi nước khoảng 100.000 người… [6, tr.77-78]. Có thể phân chia cộng đồng làm 3 khu vực với những điểm khác biệt tương đối rõ: Số lượng và sự phân bố người Việt Nam ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật và Ôxtrâylia chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi sự kiện Mỹ thất bại tại Việt Nam hồi tháng 4- 1975. Những Việt kiều tới đây chủ yếu sau sự kiện này, với mục đích định cư lâu dài và họ cư ngụ tập trung thành một vùng riêng biệt, điển hình nhất là ở Mỹ. Phần lớn cộng đồng đã hòa nhập, ổn định về địa vị pháp lý và kinh tế, có tiềm năng về tri thức, có khả năng giúp mở rộng quan hệ, mở thị trường. Tuy vậy đây cũng là nơi tập trung nhiều người có quan hệ với chính quyền cũ hoặc gắn bó quyền lợi với chế độ thực dân, thù hận, mặc cảm với chính quyền cách mạng. Khu vực các nước láng giềng Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc, một số nước Đông Nam á cộng đồng hình thành sớm, gắn bó với trong nước, tinh thần cách mạng cao, có nhiều đóng góp cho các cuộc kháng chiến của dân tộc. Nhìn chung điều kiện kinh tế kiều bào nơi đây còn khó khăn hơn các khu vực khác, ít người được học cao. Trong khi đó kiều bào ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và Đông Âu lại có những nét đặc thù riêng. Cộng đồng hình thành chủ yếu sau năm 1990 kể từ khi chế độ XHCN ở các nước trên không còn, phần lớn là cán bộ, học sinh được cử đi công tác, học tập và lao động đã ở lại. Những năm 1980-1989 ở đây mới có khoảng 2000 người. Năm 1990 tăng lên 6000 người và hiện nay ước tính có khoảng 300.000 người [19, tr.34]. Tỷ lệ người có xu hướng định cư lâu dài ở một nơi nào đó là rất nhỏ, nhiều người không có giấy phép cư trú, tư cách pháp lý yếu. Không ít người đã qua đào tạo, có trình độ học vấn nhưng chuyển sang kinh doanh, nhạy bén với thị trường, có vốn đầu tư về nước và là đầu mối đưa hàng Việt Nam vào thị trường này. Tâm lý chung
  14. của kiều bào ở khu vực này là sẽ trở về Việt Nam khi điều kiện làm ăn khó khăn hoặc khi đã tích lũy được một số vốn nhất định. Thời gian qua, mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến động, song cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn đang phát triển theo xu hướng ngày càng ổn định cuộc sống và hòa nhập vào xã hội nơi cư trú; chịu ảnh hưởng của nền văn hóa và pháp luật nước sở tại; có vị trí, ảnh hưởng nhất định ở nơi cư trú và có tác động ở mức độ khác nhau trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước có đông người Việt Nam sinh sống. Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình, hình thành nên các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaixia… Trong quá trình định cư, kiều bào phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách, để tạo dựng cơ nghiệp, chăm lo cho con cái học hành, tích lũy vốn liếng làm ăn và dành dụm một phần để giúp đỡ người thân trong nước. - Về quy chế pháp lý: Đánh giá chung về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho thấy, tại các nước có đông người Việt Nam sinh sống, phần lớn thủ tục xin nhập quốc tịch ít phức tạp, do nhu cầu làm ăn, sinh sống, tỷ lệ người Việt Nam đã có quốc tịch nước sở tại khá cao, hiện có khoảng 80% kiều bào ở Mỹ, Pháp, ôxtrâylia…đã nhập quốc tịch nước sở tại. Những người chưa có quốc tịch sở tại đều hưởng quy chế định cư hoặc tạm cư. Số người bất hợp pháp ít. Định cư lâu dài và gia nhập quốc tịch nước sở tại sẽ tiếp tục gia tăng trong cộng đồng người Việt Nam ở các nước phát triển. Điều này giúp cho người Việt Nam có cơ hội thành đạt hơn, sẽ xuất hiện nhiều người giàu có, nhiều người có bằng cấp khoa học và giữ các chức vụ cao trong hệ thống chính trị của nước sở tại. Bên cạnh đó, chỉ có một bộ phận người Việt Nam ở Nga và các nước Đông âu có quy chế định cư, số có quốc tịch không đáng kể, vẫn còn nhiều người không có quy chế định cư hoặc giấy tờ hợp pháp. Người Việt Nam tại các nước này, tuy đã đạt được một số thành tựu kinh tế ban đầu, nhưng số đông vẫn chưa xác định lập nghiệp, định cư lâu dài; thêm vào đó, một số người mới sang thăm thân nhân, du lịch ở lại bất hợp
  15. pháp, càng làm cho cộng đồng có những diễn biến phức tạp, trong chừng mực nhất định ảnh hưởng tới quan hệ song phương. Quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam với các nước láng giềng đã tạo điều kiện thuận lợi cho bà con ở Lào và Trung Quốc có quy chế pháp lý rõ ràng và cuộc sống ổn định; Thái Lan đã có chính sách cởi mở hơn đối với Việt kiều (cho phép kiều bào thế hệ 2-3 nhập quốc tịch Thái và cấp giấy tờ định cư cho kiều bào thế hệ 1); tình hình kiều bào ở Campuchia cũng có cải thiện nhất định so với các năm trước, song vẫn còn nhiều khó khăn. Chính sách đổi mới, mở cửa đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, cho bà con kiều bào ở nước ngoài hướng về Tổ quốc và người trong nước đi ra nước ngoài. Trong những năm qua, đã có hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp; mỗi năm cũng có hàng chục nghìn người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hoặc được người nước ngoài nhận làm con nuôi, cũng nh ư hàng nghìn người khác ra nước ngoài để đoàn tụ gia đình, chưa kể một bộ phận ra nước ngoài thăm thân nhân, vì những lý do khác nhau ở lại… - Về đời sống kinh tế: Do nhu cầu cuộc sống, khoảng 2/3 số kiều bào đã nhập quốc tịch nước ngoài. Mức sống của kiều bào thuộc loại trung bình thấp hoặc trung bình so với mức sống của người dân sở tại; đa số làm thuê; số giàu có với mức vốn vài triệu USD trở lên còn ít. Các doanh nghiệp của kiều bào chủ yếu phục vụ trong cộng đồng, khả năng vươn ra cạnh tranh thị trường bên ngoài còn yếu; thậm trí ngay tại một số khu vực tập trung đông người Việt Nam sinh sống như ở Mỹ, Canada, ôxtrâylia, Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, khu vực Đông âu, Thái lan, Campuchia… các doanh nghiệp, cửa hàng, cửa hiệu buôn bán của kiều bào đã và đang bị các thế lực kinh tế của một số cộng đồng kiều dân khác cạnh tranh, lấn át. Tuy nhiên người Việt Nam ở nước ngoài đã có một quá trình tích lũy vốn và kinh nghiệm, đủ khả năng đầu tư về Việt Nam chủ yếu ở mức độ quy mô với số vốn một vài trăm nghìn USD, trong đó có một số ít doanh nghiệp đầu tư với mức vốn khoảng một vài triệu USD. Lượng kiều hối bà con gửi về trong những năm trở lại đây
  16. tăng mạnh trung bình khoảng 10%/năm (năm 2004 là 3,5 tỷ USD). Ngoài ra kiều bào còn tiến hành có hiệu quả một số hoạt động có tính chất môi giới, tìm đối tác và làm cầu nối hợp tác giữa doanh nghiệp nước ngoài với trong nước, góp phần thu hút thêm đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. - Tiềm năng về trí thức khoa học và công nghệ: nhiều nguồn tài liệu nêu con số hiện có khoảng 300.000 chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài (chiếm xấp xỉ 10-15% cộng đồng) bao gồm người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật bậc cao ở các nước công nghiệp phát triển, có kiến thức cập nhật về văn hóa, khoa học và công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó một số người có vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực về khoa học và công nghệ của thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển; trong đó một thế hệ trí thức mới người nước ngoài gốc Việt Nam đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu và châu úc. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế mũi nhọn như: tin học, viễn thông, điện tử, sinh học, quản lý kinh tế, chứng khoán… Ước tính ở Mỹ hiện có hơn 150.000 trí thức người Việt, Pháp khoảng 40.000, Canada hơn 20.000, Ôtxtrâylia có 7.000. Trong khi đó ở các nước Đông Âu chỉ còn khoảng 5.000 trí thức, số đông đã chuyển sang hoạt động kinh doanh, ít người còn làm nghề gắn với chuyên môn được đào tạo [19, tr.77]. - Về đời sống văn hóa tinh thần: người Việt Nam ở nước ngoài là một cộng đồng không nhỏ, có những nơi tập trung cao như ở Mỹ, Canada, ôxtrâylia, Pháp, Lào, Campuchia, Thái Lan…là môi trường thuận lợi cho việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, các sinh hoạt lễ hội truyền thống và tiếng Việt. Từ trước tới nay, các sinh hoạt lễ hội truyền thống và việc dạy tiếng Việt chủ yếu do các hội đoàn trong cộng đồng đứng ra tổ chức, chưa có sự hỗ trợ tích cực từ phía trong nước. Nên nhìn chung, các hoạt động văn hóa dân tộc còn nghèo nàn, thiếu sinh động; mặt khác, một số hoạt động này ở một số nước phương Tây còn mang màu sắc chính trị chống đất nước, do bị bọn phản động người Việt khống chế, lũng đoạn.
  17. Có khoảng 750 người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động trên các lĩnh vực văn học, nghệ thuật (số liệu thống kê từ giữa những năm 90) tại các vùng kiều dân Việt Nam cư ngụ trên thế giới. Trong đó phần lớn hoạt động ca nhạc, chưa kể các hoạt động có liên quan như sản xuất băng nhạc, đĩa nhạc, cải lương, nhạc cổ, chủ vũ trường, chủ tụ điểm karaoke… chỉ tính riêng số nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ hát tân nhạc đã có tới 525 người chiếm tỷ lệ tới 64,575% tổng số người hoạt động văn nghệ trong các vùng có người Việt Nam cư ngụ tại nước ngoài [23, tr.328]. Một hiện tượng khá phổ biến và cũng là điểm yếu trong xã hội kiều bào là tính liên kết cộng đồng, gắn bó tương trợ nhau không cao và trong nhiều gia đình chưa có sự chăm lo đúng mức về việc giữ gìn bản sắc dân tộc, nên thế hệ trẻ sinh trưởng ở nước ngoài có xu hướng xa dần ngôn ngữ và các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, đặc biệt là tiếng Việt – một trong những cơ sở quyết định trong việc duy trì bản sắc dân tộc. - Tình hình thông tin và thái độ chính trị của cộng đồng đối với đất nước. Trong cộng đồng có khoảng 3/4 số người thuộc diện “di tản” vào cuối cuộc chiến tranh (4- 1975) hoặc “vượt biên” thời kỳ đất nước khó khăn nhất (1978 – 1982), trong đó một số lượng đáng kể đã từng phục vụ, gắn bó với chế độ Sài Gòn trước đây và nhập cư với thân phận “tỵ nạn chính trị”, tiếp đến là những người đi theo Chương trình ra đi có trật tự (the Orderly Departure Programme - ODP). Chương trình này tạo ra một cách ra đi có thể thực hiện được cho những ai muốn ra đi thay cho việc ra đi lén lút bất hợp pháp để định cư ở nước ngoài, được áp dụng cho những người có nguyện vọng, nhu cầu xuất cảnh ra nước ngoài sinh sống và đoàn tụ gia đình trong trật tự và an toàn. Người ra đi được nhập cảnh trong khuôn khổ, luật lệ của những nước mà họ tới. Chương trình này do các tổ chức quốc tế, các nước có liên quan và Việt Nam tổ chức nhằm góp phần giải quyết vấn đề tị nạn ở Việt Nam. Chương trình hợp tác đa phương này do Việt Nam và UNHCR thỏa thuận và tiến hành từ tháng 5-1979. Sau 16 năm, đã có hơn 60 vạn người được xuất cảnh và đi định cư ở hơn 30 nước trên thế giới (chủ yếu ở Mỹ, Ôxtrâylia và Canada). Trong Chương trình ODP có 2 thành tố đáng kể được tiến hành theo sự hợp tác song phương giữa Việt Nam và Mỹ là: Hoạt động nhân đạo
  18. (Humanitarian Operation - HO) và Trẻ lai Mỹ (Amerasian Children - AC) [12, tr.76,79]. Vì những nguyên nhân ra đi nói trên, nên không ít người vẫn còn mặc cảm với quá khứ “vượt biên”, thành kiến nặng nề hoặc thiếu hiểu biết về chế độ mới, một số ít còn mang trong mình tư tưởng hận thù cách mạng. Có thể nói, đây là đặc thù khá điển hình của cộng đồng người Việt so với nhiều cộng đồng kiều dân khác trên thế giới (nhiều cộng đồng kiều dân có ít hoặc thậm chí không có sự đối lập về chính trị với Tổ quốc gốc của họ). Trong những năm qua, các thế lực thù địch bên ngoài, đứng đầu là Mỹ tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam. Được sự tiếp tay ủng hộ của các thế lực cực hữu nước sở tại, tổ chức phản động chống cộng cực đoan đã lôi kéo, thâm nhập, lũng đoạn phần lớn các tổ chức, hội đoàn của người Việt (trong cộng đồng hiện có khoảng 695 tổ chức hội đoàn; 415 tờ báo, tạp chí; 46 đài phát thanh và truyền hình bằng tiếng Việt; 74 nhà xuất bản của người Việt); chúng nắm hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng, khống chế phần lớn dư luận trong cộng đồng, triệt để khai thác chiêu bài “tự do, dân chủ, nhân quyền”, hằng ngày tuyên truyền lặp đi lặp lại những luận điệu xuyên tạc, bôi xấu chế độ ta. Trong khi đó do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác thông tin đối ngoại của ta còn nhiều hạn chế chưa thâm nhập được sâu rộng trong cộng đồng, nhất là những nơi tập trung đông người Việt sinh sống ở các nước phương Tây. Sống trong hoàn cảnh môi trường như vậy, nhiều người Việt Nam ở nước ngoài không có cơ hội tiếp xúc với thông tin thật, nên chưa hiểu đúng về thực trạng tình hình đất nước, còn hoài nghi về công cuộc đổi mới, về chính sách đoàn kết dân tộc cũng như các chính sách khác của Đảng và Nhà nước ta đối với kiều bào. Phần lớn những người chưa về nước lần nào đều giữ trong mình một hình ảnh đất nước Việt Nam nghèo khó sau chiến tranh, họ không hình dung được những thay đổi lớn lao của đất nước thời gian qua. Một thực tế khách quan không thể phủ nhận là, người Việt Nam ở nước ngoài tuy sống xa Tổ quốc nhưng vẫn mang trong mình tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, luôn hướng về cội nguồn, dòng tộc, có tình cảm gắn bó với gia đình, quê hương xứ sở và đã có đóng góp công sức, của cải và cả xương máu cho sự nghiệp đấu
  19. tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những đặc điểm đó ngày càng được củng cố và khích lệ bởi những thành tựu to lớn đạt được trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện chính sách đối ngoại rộng rãi. Thái độ chính trị trong cộng đồng đối với đất nước đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Ngày càng có đông đảo kiều bào hoan nghênh, công khai bày tỏ ý kiến ủng hộ công cuộc đổi mới, ủng hộ chính sách đại đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta. Thực tế còn nhiều người Việt Nam ở nước ngoài (chủ yếu sống ở các nước phương Tây có chế độ chính trị khác ta) hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thậm chí còn rất “dị ứng” khi nói đến những từ như cộng sản, xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi đề cập đến vấn đề dân tộc, đến mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì có sự đồng thuận hơn và trên thực tế dư luận kiều bào ngày càng có sự nhìn nhận khách quan về những thành tựu do công cuộc đổi mới đất nước đem lại, về sự ổn định chính trị – xã hội và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Tâm lý nguyện vọng chung của kiều bào là muốn ổn định cuộc sống, an phận làm ăn, đồng thời muốn duy trì quan hệ tình cảm với gia đình, quê hương, muốn được đối xử bình đẳng như người trong nước, cũng như quan tâm đến lợi ích trong quan hệ với đất nước. - Hoạt động của các tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài: chúng tổ chức các cuộc biểu tình, hô khẩu hiệu chống chế độ Việt Nam trước các cơ quan đại diện ta nhân dịp các ngày lễ 30-4, 2-9, ngày nhân quyền Quốc tế... hoặc khi có các phái đoàn lãnh đạo cấp cao trong nước sang thăm, các đoàn dự hội thảo, hội chợ, triển lãm, du lịch, văn nghệ sang biểu diễn phục vụ kiều bào. Bọn phản động tổ chức các cuộc diễu hành, các buổi dạ hội thanh niên, đêm biểu diễn “văn nghệ đấu tranh”, các chiến dịch vận động quyên tiền ủng hộ cuộc “đấu tranh” của đồng bào trong nước…Cầm đầu các hoạt động này thường là các tổ chức “Cộng đồng người Việt tự do” ở địa phương và hằng năm chúng vẫn xin được tài trợ của chính quyền địa phương để hoạt động. Bên cạnh đó, chúng tìm mọi cách khống chế, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, xuyên tạc tình hình trong nước và triệt để sử dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc để vu khống, bôi nhọ chế độ ta. Các thủ đoạn phổ biến là:
  20. xuyên tạc các “vụ việc” xảy ra ở một số địa phương như Thái Bình, Đồng Nai, Tây Nguyên; xuyên tạc hoặc tuyên truyền sai trái về xử lý của ta đối với một số nhân vật như Nguyễn Đan Quế, Trần Độ, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Lê Quang Liêm, Nguyễn Văn Lý...; đưa các đối tượng được ta đặc xá đi tuyên truyền vu cáo ta ở các nơi; liên kết các tổ chức phản động ở một số địa bàn để tổ chức hội nghị, hội thảo về nhân quyền chống Việt Nam, tìm cách tham gia phát biểu tại các diễn đàn, gửi kháng thư cho Liên Hợp quốc, tiếp xúc vận động hoặc gửi thư đến các nghị sĩ Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây lên án ta vi phạm nhân quyền, kêu gọi có biện pháp can thiệp đối với ta; đòi cho phép treo cờ ngụy tại nơi công cộng ở một số thành phố có đông người Việt Nam sinh sống; tìm cách móc nối, kích động các phần tử chống đối, “bất đồng chính kiến”, tạo dựng ngọn cờ, gây rối chính trị ở trong nước; âm mưu công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị chống đối và quốc tế hóa các vụ việc phức tạp trong nước; phát tán rất nhiều tài liệu phản động, đồi trụy vào trong nước. Nguy hiểm hơn là các tổ chức phản động cực đoan đã tiến hành một số vụ chống đối quyết liệt, mang tính chất khủng bố, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản của các cơ quan đại diện ta, như vụ đặt bom ở cơ quan đại diện ta tại Thái Lan, Philippin; đe dọa đặt bom tàu biển chở gạo từ Việt Nam tới Trung Đông; gây nổ ở ngoài tường cơ quan đại diện ta tại Campuchia; đốt phá cơ quan đại diện ta tại Anh, Pháp; rồi vụ ép buộc máy bay của Thái Lan vào rải truyền đơn trên vùng trời thành phố Hồ Chí Minh… Mục tiêu hoạt động của các tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài là, cố gắng tạo ra một hình ảnh xấu về Việt Nam trong dư luận cộng đồng quốc tế và kiều bào, cản trở các hoạt động đối ngoại của ta, làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân, làm mất ổn định về chính trị xã hội, đi đến bạo loạn lật đổ chế độ. Một số tổ chức phản động tích cực hoạt động theo dạng này là: Uỷ ban cứu trợ người vượt biên của Nguyễn Đình Thắng; mạng lưới nhân quyền của Nguyễn Thanh Trang (Mỹ); Uỷ ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam của Võ Văn ái, Văn phòng liên lạc các hội đoàn người Việt tự do của
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2