intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn đề tài : Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:58

166
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả. Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn đề tài : Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
  2. Đặt vấn đề. Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả. Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là lực lượng đảm bảo cho mục tiêu XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những biểu hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện phát triển vượt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ cải cách tiến hành chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vướng mắc chưa được tháo bỏ triệt để, tàn dư của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề nợ đọng, lao động dôi dư chưa được giải quyết thoả đáng, còn những tranh cãi về mặt lí luận, nhiều ý kiến khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn kết luận. Phát triển KTNN là đòi hỏi sống còn với nền kinh tế và định hướng XHCN ở Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh sự cần thiết “ tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân” ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2001, Tr 189); Nghị quyết Hội nghị lần thức 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 3) đã đề ra các giải pháp cơ bản về vấn đề này theo hướng tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Để có thể thành công còn rất nhiều những khó khăn cần giải quyết. Đây là một vấn đề nghiên cứu rộng và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước. Xuất phát từ những thực tiễn trên, tác giả của đề án đã chọn đề tài “Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu với hy vọng tìm hiểu sâu hơn về KTNN và đưa ra các kiến giải của
  3. nhiều nhà kinh tế giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về vấn đề này, đồng thời trong khả năng có thể đưa một vài tham luận của cá nhân đóng góp vào các giải pháp phát triển KTNN hiện nay. Đề án tập trung giải quyết những vấn đề sau : - Làm rõ khái niệm KTNN, cơ sở lý luận, sự cần thiết của vai trò chủ đạo của KTNN. - Mô tả thực trạng của KTNN, thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân. - Đưa ra và phân tích các giải pháp, đóng góp ý kiến nhằm phát triển KTNN.
  4. Phần thứ nhất: Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. I. Khái quát lí luận về thời kì quá độ, Sự tồn tại khách quan nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những nguyên tắc cơ bản của xã hội XHCN được thực hiện. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử bởi vì CNXH – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong lòng xã hội cũ. Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa đòi hỏi một thời kỳ lâu dài. Khái niệm quá độ lên chủ nghĩa xã hội được vận dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, tập quán trong xã hội. Trong đó, về kinh tế trong thời kỳ quá độ, theo Lê-nin, là nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh các thành phần kinh tế XHCN, còn có những thành phần kinh tế khác như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể v.v; về chính trị, đó là sự lãnh đạo của Nhà nước chuyên chính vô sản. - Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ là một tất yếu khách quan. V.I . Lê-nin chỉ ra: danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Thực vậy, đối với mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong thời kì quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một thể thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần có kiểu tổ chức sản xuất kinh
  5. doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Điều này phản ánh đúng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trên thực tế, cách mạng vô sản đã thành công ở những nước tư bản trung bình và những nước kém phát triển (trong đó có Việt Nam). Để xây dựng xã hội XHCN với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phải có thời gian tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới. Việc áp dụng những quan hệ sản xuất XHCN, khi sự phát triển của lực lượng sản xuất chưa theo kịp, nóng vội cải tạo các quan hệ sở hữu như trước đây ở các nước XHCN là phi lịch sử. Chỉ có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mới tạo động lực phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát triển, từ đó mà xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. - Sự lãnh đạo của Nhà nước chuyên chính vô sản sẽ đảm bảo dẫn dắt xã hội phát triển tiến lên CNXH. Trong hệ thống chuyên chính vô sản bộ phận quan trọng nhất là Nhà nước. Giai cấp vô sản phải nắm lấy chính quyền, từng bước cải tạo xã hội, chống các thế lực thù địch dù đã mất đi vị thế chính trị song vẫn còn rất mạnh, từng bước xây dựng xã hội mới. Xét theo khía cạnh kinh tế, tầm quan trọng của Nhà nước trong hệ thống chuyên chính vô sản biểu hiện ở vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước. Trong xã hội tư bản, vai trò của Nhà nước không chỉ dừng lại ở thuế khoá (nhằm nuôi sống bộ máy cai trị ), với sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho nhà nước bắt đầu can thiệp vào quá trình sản xuất. Một mình thị trường không làm nổi chức năng điều tiết nền kinh tế, cần phải có bàn tay của Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc (Lí thuyết “hai bàn tay”của P.Samuelson ). Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước xã hội XHCN được Lê- nin phát triển và áp dụng trong công cuộc xây dựng nhà nước Xô-viết. Lê-nin cho rằng Nhà nước có chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt trong hệ thống chuyên chính vô sản hiện nay Nhà nước có vai trò bà đỡ-vai trò tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vậy, ta có thể tóm tắt công thức của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của Nhà nước vô sản. Sản xuất hàng hoá là tất yếu nó không đối lập với tính kế hoạch XHCN, vấn đề là phải áp dụng tính trội của
  6. mỗi tính về mặt tích cực mà xã hội mong muốn. Sản xuất hàng hoá và tính hàng hoá với tư cách là kiểu sản xuất tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau không những nhông mất đi mà còn cần phát triển cùng với tính kế hoạch định hướng phát triển từ thấp đến cao. Hay có thể gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang phát triển hiện nay. Trong đó để thực hiện, nhất thiết phải có vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước. Bởi sự cải biến kinh tế – xã hội trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải gắn vói sự cải biến về chính trị. Không thể cải biến kinh tế – xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo Mác và Ănghen, sự ra đời của vai trò kinh tế của nhà nước thúc đẩy các điều kiện kinh tế – xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Đó chính là khởi nguyên của tư tưởng về vai trò chủ đạo của KTNN. Xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta nhỏ bé và lạc hậu việc áp dụng một nền kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình kinh tế chỉ huy như vừa qua là chưa phù hợp. Để tiến lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kì quá độ với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chúng ta quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội song tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế và KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Đó chính là những nội dung cơ bản mà Việt Nam đã phát triển tư chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng vào thời kì đổi mới.
  7. II. Quan niệm về KTNN KTNN là một thuật ngữ bao hàm một nội dung khá rộng, được xác định theo ý nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu. ở Việt Nam, thuật ngữ KTNN được sử dụng rộng rãi từ sau Đại hội VIII thay cho thuật ngữ kinh tế quốc doanh. Theo cách hiểu chung nhất hiện nay, KTNN là thuật ngữ chỉ phần tài sản thuộc sỏ hữu Nhà nước. Phần tài sản đó bao gồm : 1. Tài nguyên khoáng sản, đất đai, .v.v. là tài sản quốc gia do Nhà nước làm chủ sở hữu. 2. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do Nhà nước đảm nhiệm và các quỹ dự trữ quốc gia. 3. Ngân hàng Nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước. 4. Các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. 5. Phần vốn Nhà nước đầu tư vào các thành phần kinh tế khác dưới dạng công ty cổ phần. Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, KTNN giữ vai trò chủ đạo. Về hình thức thể hiện KTNN bao gồm hai hệ thống: hệ thống doanh nghiệp và hệ thống phi doanh nghiệp. Hệ thống doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp công ích. Hệ thống phi doanh nghiệp bao gồm ngân sách Nhà nước, các quỹ quốc gia, tài nguyên thuộc sở hữu nhà nước, v.v… III. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
  8. Vận dụng lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, ta có thể khái quát đặc điểm của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của nhà nước chuyên chính vô sản hay có thể nói đó là nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Trong hệ thống này đặc biệt nổi lên vai trò kinh tế của Nhà nước. Mọi người đều biết rằng sự cải biến kinh tế – xã hội trong thời kì quá độ lên CNXH, tất yếu phải gắn với cải biến về chính trị. hay không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhà nước bằng những công cụ, chíng sách kinh tế vĩ mô điều tiết hạn chế những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường. Nhà nước XHCN không đứng ở bên ngoài mà trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất với tư cách là thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuát của hình thái xã hội tương lai. Muốn vậy, KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Thực vậy, nếu KTNN không có ảnh hưởng chi phối được các thành phần kinh tế khác, không làm cho các mối quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất XHCN thì việc xây dựng CNXH chỉ là ảo tưởng. - Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ phù hợp với xu thế xã hội hoá của lực lượng sản xuất. - Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định - Thứ ba, KTNN là lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế: là lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. - Thứ tư, KTNN có thể tác động các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua các thể chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.
  9. - Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng. - Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn nhưng lại ít ai giám đầu tư vì nó đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu hồi vốn chậm. Nghị quyết đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt; đi đầu tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
  10. Phần thứ hai: Thực trạng phát triển và đổi mới KTNN I. Tổng quan sự phát triển của KTNN trong 15 năm đổi mới, phát triển. Trong 15 năm qua, KTNN đã có những chuyển biến đáng kể: KTNN giữ vai trò chủ đạo, DNNN giữ những vị trí then chốt nắm trong tay những nguồn lực cơ bản của xã hội, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Trong đó nổi bật có những nét đáng chú ý sau: - Chúng ta đã chuyển đổi thành công từ chế độ quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. - Tiến hành sắp xếp, đổi mới DNNN và đã thu được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. - Tốc độ tăng trưởng của KTNN khá đều đặn, hàng năm đóng góp từ 40-46% cho GDP. Bên cạnh đó, KTNN vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như : chưa được củng cố tương xứng vai trò chủ đạo, chưa có những chuyển biến đáng kể trong sắp xếp và đổi mới DNNN… và còn nhiều vấn đề phức tạp mà bài viết sẽ đề cập cụ thể trong các phần sau. 1. Thực trạng phát triển. Trong những năm vừa qua, hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân; nơi tập trung chủ yếu giai cấp công nhân và cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý của đất nước, nơi đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5280 DNNN với tổng số vốn gần 116 ngàn tỉ đồng. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm
  11. khoảng 17% tổng số doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% trong tỉ trọng GDP của cả nước. Các DNNN là lực lượng chủ yếu nắm hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của Nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung lực lượng DNNN đang chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Đây là một chủ trương lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn đến, người viết xin đề cập chi tiết trong những phần sau. Nhìn chung, hiện nay các DNNN vẫn làm ăn thua lỗ, hiệu quả kinh tế đạt thấp, tồn tại nhiều bất cập, mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Theo báo cáo của tổng cục quản lí vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có 37% số DNNN làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài chính tại Quốc hội thì cuối năm 1999 chỉ có 20% số DNNN kinh doanh có hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN giảm dần năm 1996: 11,2%, 1997: 9,7%, 1998: 9,1%, 1999: 9,2%. Con số trên chứng tỏ khả năng sinh lợi của các DNNN thấp và có xu hướng ngày càng giảm. ở các DNNN tình trạng phổ biến là ứ đọng hàng hoá, khả năng mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ để sản xuất ra các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu hơn rất ít. Sản phẩm giá thành còn cao, giá xuất xưởng của nhiều loại sản phẩm chủ yếu của ta cao hơn hẳn giá sản phẩm nhập khẩu. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN sau một thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1999đã giảm xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995: 1 đồng vốn tạo ra được 3,16 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra được 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Nợ nần trong các doanh nghiệp còn rất cao, năm 1996 tổng số nợ của các DNNN là 174.797 tỉ đồng, năm 1999 đã lên tới
  12. 199.060 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại rất thấp. Trong khu vực công nghiệp hoạt động của các DNNN cũng đem lại hiệu quả thấp; Năm 1997 (không kể các ngành khai khoáng là than và dầu khí) tỷ trong xuất khẩu trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp của: DNNN là 17,2%, đầu tư nước ngoài 46,2%, ngoài quốc donah 46,6%. 5 tháng đầu năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14,3% so với cùng kỳ năm 1999, trong đó khu vực DNNN tăng 12,5% (Trung ương quản lý tăng 11,8%, đại phương quản lý tăng 13,9%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%. Những số liệu trên đây cho thấy hiệu quả hoạt động của khu vực quốc doanh thấp hơn nhiều so với khu vực liên doanh và ngoài quốc doanh. Từ hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước của các DNNN cũng ít hơn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn nghành, nhưng chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng giá trị sản xuất và đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách toàn ngành. Đặc biệt tổng giá trị sản xuất của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn ngành công nghiệp vốn đã chậm dần. Theo số liệu của Bộ tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2000 ước tính đạt 41,2% dự toán cả năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu từ khu vực KTNN chiếm 20,8% tổng số thu, đạt 40,2% và giảm 9,0%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28,7% đạt 46,9% và tăng 68,7%. 2. Thực trạng đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã đề xuất chủ trương thực hiện đổi mới sắp xếp lại DNNN như là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất
  13. nước, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. Từ đó đến nay qua các thời kì chủ trương này lại được bổ xung và phát triển. 2.1. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Cải cách DNNN là quá trình tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đặt ra ở trong nước cũng như trên thế giới. Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đây là một cơ hội giúp chúng ta phát triển, đồng thời nó cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mặt tiêu cực như sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều này đặt ra cho chúng ta những yêu cầu và thách thức phải đổi mới để hội nhập. Muốn vậy phải cải cách nền kinh tế, tăng cường nội lực, để phát triển đón nhận những thời cơ mà thời đại đem lại. Mà một trong những việc phải làm đầu tiên là cải cách hệ thống DNNN làm cho nó thích nghi một cách toàn vện với cơ chế mới, tạo đòn bẩy cho sự tăng trưởng. Điều này khẳng định tính tiên phong của thành phần kinh tế XHCN. Thời đại ngày nay ghi nhận những phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật và công nghệ mà những ứng dụng của chúng đem lại những biến đổi lớn lao trong đời sống xã hội. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế trí thức. Việt Nam cũng chuyển mình đón nhận những thành tựu do khoa học kĩ thuật đem lại. Hệ thống các DNNN phải đi đầu cải tiến, đổi mới sản xuất, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, là tấm gương tiêu biểu trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, việc áp dụng quá lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp đã gây ra sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế – xã hội. Suốt mộ thời gian dài Nhà nước là người đứng ra quyết định tất cả các vấn đề về sản xuất cũng như tiêu thụ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ thụ động sản xuất theo kế hoạch đề ra, chúng chỉ như những phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân. Lối quản lý này làm sơ cứng nền kinh tế, mất đi động lực phát triển, phí phạm
  14. tài nguyên và các vấn đề lợi ích khác không được giải quyết thoả đáng. Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, chuyển đổi cơ chế quan liêu bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường. Cùng với nó là quá trình cải tổ sâu sắc trong hệ thống DNNN đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới thời kỳ mới. Cơ chế quản lý không phù hợp, cùng với những nguyên nhân khách quan như chiến tranh cấm vận để lại di chứng rất nặng nề cho nền kinh tế. Đó là tình trạng yếu kém của hầu hết cácDNNN, sản xuất đình trệ. Hiện tại, các doanh nghiệp có những khó khăn chủ yếu sau trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, máy móc nhà xưởng cũ kỹ, năng kực đội ngũ cán bộ không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, sử dụng vốn kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất gây gánh nặng cho nền kinh tế. Cải cách DNNN làm cho chúng phát triển là một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra trong hiện tại cũng như tương lai. Việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải theo hướng tập trung nắm giữ những đầu mối chính, tạo sự năng động tự chủ của các doanh nghệp. Nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực chủ chốt làm tăng tính hiệu quả của hoạt động Nhà nước. Điều này không hề làm giảm sút sức mạnh của KTNN mà còn tạo cho Nhà nước một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Từ đó mà định hướng XHCN ngày càng được xác lập 2.2. Phương hướng chung, đường lối chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc Trên tinh thần Đại hội IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và ra nghị quyết TW3 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quảDNNN. Nghị quyết nêu rõ : * Quan điểm chỉ đạo. - KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi
  15. mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiên vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chinh trị, xã hội; trong đó, lấy lãi suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm kết quả chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích. - Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đói với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trong lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN, cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Qua 3 đợt, DNNN đã giảm từ 12 300 doanh nghiệp còn 5 571 ( giảm 55% về số lượng, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và do địa phương quản lý ). Cơ cấu DNNN bắt đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999 ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng tăng tương ứng, từ 10% lên 20% ; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỉ đồng. Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, Nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động. Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nước ( TCTNN ) nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước vào các ngành then chốt mà Nhà nước cần chi phối… Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty. Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý 77 tổng công ty 90. Các TCTNN có 1 534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 27,5% tổng số doanh nghiệp cả nước, 61% về lao động ( riêng 17 tổng công ty 91
  16. có 491 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN, 35% lao động ). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọngđể Nhà nước điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ,tăng nhanh năng suất lao động, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh ( năm 1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung thêm nguồn vốn 15 850 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi nhuận tăng 23%, nộp ngân sách tăng 29% ). Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Tính đến hết tháng 11/2001, cả nước đã có 771 doanh nghiệp được cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu (trong đó có 698 doanh nghiệp được cổ phần hoá, 41 doanh nghiệp được giao và 32 doanh nghiệp được bán), bằng 13% số doanh nghiệp hiện có, với số vốn gần 3.000tỷ đồng, bằng hơn 2% tổng vốn nhà nước trong DNNN. Sau khi cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp đã huy động được thêm hơn 2.000 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân, đồng thời thông qua bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu thêm hơn 1150 tỷ đồng để đầu tư và giải quyết chính sách cho người lao động. Bên cạnh đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi không mất đi mà lại tăng thêm từ 10 – 15% so với giá trị trên sổ sách. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số DNNN đầu tư một phần vốn thành lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 18-5-2000, DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy : 267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn. Năm là, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động. Theo báo cáo chưa đầy đủ, đến ngày 31/1/2001, số DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê theo Nghị định 103/1999/NĐ-CP là 105 doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp sau khi
  17. chuyển đổi chủ yếu là công ty cổ phần, cổ đông chủ yếu là số lao động làm việc tại doanh nghiệp, ngoài ra cũng có một số trường hợp bán cho người ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các địa phương và doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao và bán (chuyển đổi sở hữu), chiếm tương ứng 37% và 47,5%; thực hiện thuê và khoán kinh doanh (chuyển đổi phương tức quản lý) chỉ chiếm tương ứng 2% và 15,2%. Đánh giá một cách tổng quát, sau khi chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp đã ổn định tổ chức, vốn kinh doanh có xu thế tăng, doanh thu và lợi nhuận tăng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Cụ thể, so với trước khi chuyển đổi, vốn kinh doanh tăng 67,3 %; doanh thu tăng 42,5%; nộp ngân sách Nhà nước tăng 44,5%; số lao động tăng 12,8%; thu nhập bình quân của người lao động tăng 38,7% ( từ 280.000 lên 388.000 đồng/người/tháng)… Từ đó cho thấy việc thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nước; khắc phục được tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của DNNN được phát huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vốn trong dân. Trong các nội dung trên, cổ phần hoá các DNNN và đổi mới cơ chế chính sách là hai xu thế chủ đạo của tiến trình này người viết xin đề cập chi tiết trong những phần sau. *Về mặt thành tựu, có thể khái quát mặt được của DNNN sau quá trình sắp xếp đổi mới như sau : - Hầu hết các DNNN đều có những chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy mô bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn; thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng thêm; vốn tích luỹ, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng vốn sản suất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bước tăng lên. - DNNN đã góp phần rất quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và lĩnh vực then chốt; thực
  18. sự là nòng cốt tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô; là lượng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội. - Số DNNN giảm mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN vẫn duy trì mức khá cao, bình quân tăng 11%/năm trong 10 năm (1991 –1999). Năm 2000 các DNNN đóng góp 39 % GDP. II. Vấn đề đặt ra. Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu phần nào về thực trạng của các DNNN, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại và vướng mắc cần giải quyết. Trong phạm vi bài viết chỉ xin đưa ra những vấn đề cơ bản nhất: Thứ nhất, về mặt nhận thức quan điểm, chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của KTNN và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Từ đó dẫn đến cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998 số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% doanh nghiệp kinh doanh chưa hiệu quả khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn nhà nước của DNNN không cao và có xu hướng giảm dần (Năm 1996 là 11,2 %, năm 1997 là 9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%). Không ít doanh nghiệp xây dựng dư án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính
  19. khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn. Thứ ba, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ khoa học và công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực ( sản xuất thiết bị đo điện, sản xuất điện tử, sản xuất sợi dệt …) còn lại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp của ta lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí tự động hoá dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng…có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường thô cao hơn 70% - 80%. Đến tháng 10/2000 cả nước mới có 236 doanhy nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN. Thứ tư, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5771 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng 116 000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN tập trung vào những ngành những lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối. Thứ năm, lao dộng thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng là khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của bộ Lao động Thương binh - Xã hội, hiện nay, số lao độnh không có việc làm thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%. Đây là một thực trạng bức xúc mà người viết xin đề cậpcụ thể trong những phần sau. Thứ sáu, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường.
  20. Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại vướng mắc cần tháo gỡ. - Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để DNNN tự chủ tự tạo trách nhiệm, năng độnh trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt vốn trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh , tạo điều kiện cho tích luỹ vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắnchặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi chẳng hạn như : Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp), tiền thu sử dụng vốn… - Về đầu tư , việc phân cấp giao quyền quyết định cho doanh nghiệp chưa rõ ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư. - Về quản lý Nhà nước, chưa phân định rõ các loại quyền như :quyền quản lý của Nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu ; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp với doanh nghiệp ; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ; còn quá nhiều văn bản pháp qui chồng chéo, thiếu khả thi ; cơ chế phá sản của doanh nghiệp còn chưa được thực hiện theo luật phá sản doanh nghiệp (Đại diện ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2