intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đôla hoá và những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực của nó trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Chia sẻ: Pham Ly | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

107
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thời gian gần đây, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả các nền kinh tế có đẫyđủ các điều kiện để tiếp cận với nhau, hợp tác với nhau; trong đó có lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng. Hiện tượng các đồng tiền giao lưu với nhau trong tất cả các giao dịch kinh tế là một trong những biểu hiện tất yếu của kinh tế thị trường. Qua giao lưu đó, quan hệ giữa các đồng tiền có điều kiện để gắn bó...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đôla hoá và những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực của nó trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

  1. LUẬN VĂN: Đôla hoá và những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực của nó trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
  2. A. Phần mở đầu Trong thời gian gần đây, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả các nền kinh tế có đẫyđủ các điều kiện để tiếp cận với nhau, hợp tác với nhau; trong đó có lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng. Hiện tượng các đồng tiền giao lưu với nhau trong tất cả các giao dịch kinh tế là một trong những biểu hiện tất yếu của kinh tế thị trường. Qua giao lưu đó, quan hệ giữa các đồng tiền có điều kiện để gắn bó với nhau hơn, có thể tự đánh giá vị trí của mỗi đồng tiền trên thị trường thế giới. Việc các đồng tiền có bị đánh mất mình hay không trên thị trường, có bị các đồng tiền mạnh hơn "đồng hoá" hay không lại tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau từ vai trò của các nhà chức trách cũng như từ sự đứng vững của mỗi một đồng tiền trên thương trường. Đôla hoá là một hiện tượng kinh tế - xã hội không phải chỉ diễn ra ở nước ta mà ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Riêng ở nước ta, từ sau khi bắt tay vào công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề "Đôla hoá" đã và đang được đặt ra như một trong những vấn đề rất đáng quan tâm vì những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực của nó trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực chất Đôla hoá là gì ? ảnh hưởng của nó như thế nào đối với đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam ? Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của những người làm nghiên cứu khoa học, cũng như của bất cứ ai quan tâm đến chính sách tiền tệ của đất nước. Với bài viết này, chúng em hy vọng có thể làm rõ được phần nào thực trạng đôla hoá ở Việt Nam, đồng thời đề ra một số kiến nghị, giải pháp cho vấn đề này.
  3. B. Nội dung Chương I. Một số vấn đề lý luận. I. Khái niệm, phân loại đô la hoá 1.Khái niệm Đô la hoá là việc sử dụng ngoại tệ thay cho đồng bản tệ để thực hiện một phần hoặc toàn bộ các chức năng của tiền tệ. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại thì tiền tệ có 3 chức năng : phương tiện trao đổi, đơn vị tính toán giá trị và phương tiện tích luỹ giá trị. Vì vậy khi ta nói nền kinh tế bị đô la hoá có nghĩa là người cư trú của nước đó sử dụng ngoại tệ (không chỉ đồng đô la Mỹ) thay cho đồng bản tệ trong việc dự trữ, thanh toán hay tính toán, định giá hàng hoá. Mỗi quốc gia, Nhà nước đều phát hành đồng tiền riêng của mình để nắm giữ quyền quản lý lưu thông tiền tệ trong phạm vi đất nước đó. Tuy nhiên, cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, hàng hoá được sản xuất tại một nước có thể được dân chúng ở các nước khác sử dụng và vì thế cần có sự trao đổi về tiền tệ giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng như dân chúng. Hiện tượng người dân của nước này sử dụng đồng tiền của nước khác được coi là một hiện tượng kinh tế khách quan ở các nước chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường, mở cửa nền kinh tế để ra nhập nền kinh tế thế giới. Trong hầu hết các hoạt động thương mại, tài chính, dự trữ trên thế giới hiện nay, đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất nên thuật ngữ “đô la hoá” đã ra đời và về bản chất nó được coi là đồng nghĩa với “ngoại tệ hoá”. Hiện tượng các nước không sử dụng đồng bản tệ của nước mình trong các chức năng của tiền tệ được coi là hiện tượng đô la hoá như trường hợp một số nước sử dụng đồng Rand của Nam Phi hay một số nước Châu Âu sử dụng đồng EURO. Những phân tích trên đây cho thấy đô la hoá vừa là hiện tượng cạnh tranh giữa các đồng tiền về vị thế và vai trò của nó trong thanh toán và dự trữ quốc tế, vừa là một dấu hiệu cho sự phát triển kinh tế quốc tế, vừa mang tính chất tiền tệ, vừa mang tính lịch sử. Ngoài ra, hiện tượng đô la hoá toàn phần cũng có thể được xem là một loại hình cơ chế tỷ giá hay là một sự thống nhất về tiền tệ. Vì vậy, để hiểu rõ hiện tượng đô la hoá, chúng ta cần xem xét thêm các hình thái đô la hoá, biểu hiện, nguyên nhân
  4. và bản chất của từng loại đô la hoá 2. Phân loại Để hiểu một cách toàn diện về hiện tượng này, chúng ta cần phân loại đô la hoá. Việc phân loại đô la hoá còn giúp các nhà kinh tế và hoạch định chính sách xác định chính xác nguyên nhân của đô la hoá. Các nhà phân tích thường sử dụng 3 tiêu chí sau để phân loại đô la hoá:  Tiêu chí về tính hợp pháp: Đô la hoá chính thức (official dollarization) và đô la hoá không chính thức ( Unofficial dollarization). Một hình thái chung gian của hai loại đô la hoá này là đô la hoá bán chính thức.  Tiêu chí về quy mô sử dụng đồng ngoại tệ trong nền kinh tế : đô la hoá toàn phần (full dollarization) và đô la hoá một phần (partial dollarization).  Tiêu chí dựa vào chức năng tiền tệ : đô la hoá thay thế tài sản (asset substitution) và đô la hoá thay thế thanh toán (currency substitution). 2.1) Đô la hoá không chính thức, bán chính thức và chính thức a. Đô la hoá không chính thức Là việc ngoại tệ được người cư trú của một nước sử dụng để thực hiện một, hai hoặc cả ba chức năng của tiền tệ nhưng không được phép hoặc không được sự công nhận của pháp luật nước đó. Thị trường ngoại hối phi chính thức được hình thành gắn liền với hiện tượng đô la hoá không chính thức của một nước, là nơi diễn ra các hoạt động thanh toán, mua bán ngoại tệ phục vụ cho các mục đích bất hợp pháp như buôn lậu, cất trữ, thanh toán ngoại tệ bất hợp pháp của cá nhân và tổ chức của nước đó. b. Đô la hoá chính thức Là việc ngoại tệ được người cư trú sử dụng để thực hiện các chức năng của tiền tệ và được sự cho phép hoặc cộng nhận của luật pháp nước đó. Gắn liền với hiện tượng đô la hoá chính thức là thị trường ngoại hối chính thức là nơi đựơc phép tiến hành các giao dịch mua bán ngoại tệ để phục vụ các mục đích thanh toán, mua bán ngoại tệ theo quy định của pháp luật như tại các Ngân hàng thương mại, các cửa hàng miễn thuế… c. Đô la hoá bán chính thức
  5. Là sự tồn tại đan xen cả hai hình thức đô la hoá chính thức và đô la hoá không chính thức. Một thực tế được quan sát thấy tại hầu hết các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi mới sang cơ chế thị trường đều có hiện tượng đô la hoá mang tính chất của cả hai loại đô la hoá nêu trên. Nhiều quốc gia cho phép người cư trú được mở tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước và sử dụng đô la để niêm yết, thanh toán. Vì vậy, dù nhiều hay ít thì các tổ chức và cá nhân đều sử dụng đô la với chức năng dự trữ giá trị và phương tiện thanh toán. Mặt khác, quy chế quản lý ngoại hối của các nước này thường hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trong hầu hết các giao dịch giữa người cư trú với nhau nhưng do nhiều lý do mà hiện tượng này vẫn xảy ra bất chấp những quy định chặt chẽ của Nhà nước và tạo ra hiện tượng đô la hoá không chính thức. Đi kèm với hiện tượng đô la hoá bán chính thức là sự tồn tại song song hai thị trường: ngoại hối chính thức và phi chính thức. Hoạt động của hai thị trường này như bình thông nhau, đôi lúc lấn át nhau tuỳ thuộc vào mức độ và bản chất đô la hoá của nước đó. 2.2) Đô la hoá một phần và đô la hoá toàn phần a. Đô la hoá toàn phần Là ngoại tệ được sử dụng trong toàn bộ nền kinh tế như là đồng tiền pháp định duy nhất (hoặc đồng bản tệ chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể) và được pháp luật cho phép. Chính vì vậy, đô la hoá toàn phần luôn luôn là đô la chính thức. b. Đô la hoá một phần Là việc ngoại tệ được sử dụng trong một phạm vi nào đó của nền kinh tế. Đô la hoá một phần có thể là đô la hoá chính thức hoặc không chính thức. Hiện tượng đô la hoá một phần và không chính thức thường phản ánh mong ước của người dân muốn đa dạng hoá tài sản để đảm bảo tài sản của họ không bị mất giá trị do sự giảm giá của đồng bản tệ trong bối cảnh nền kinh tế bất ổn định và mức lạm phát cao. Thực tế cho thấy hiện tượng đô la hoá không phải là một sự kiện tức thời mà là kết quả của cả một quá trình lâu dài. Có nhiều lý do để giải thích cho hiện tượng đo la hoá nhưng các nhà kinh tế học hiện đại đều thống nhất là con đường tiến
  6. tới đô la hoá thường bắt đầu từ không chính thức đến chính thức, từ một phần lên toàn phần. 2.3) Đô la hoá tài sản và đô la hoá thay thế thanh toán a. Đô la hoá tài sản Là việc người cư trú sử dụng ngoại tệ thay cho đồng nội tệ trong chức năng dự trữ giá trị. Điều này thể hiện cả việc doanh nghiệp và người dân nắm giữ ngoại tệ tiền mặt và duy trì tài khoản ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng. Nếu ta xét theo chức năng dự trữ giá trị thì một đồng tiền mạnh là một đồng tiền ổn định và các tài sản tài chính bằng đồng tiền đó đảm bảo được giá trị cho người nắm giữ. Do vậy, các chủ thể nắm giữ các tài sản tài chính sẽ lựa chọn các ngoại tệ mạnh, hấp dẫn hơn đồng bản tệ về chi phí cơ hội (có tính đến yếu tố mất giá của đồng bản tệ) để thực hiện chức năng cất trữ. Tuy nhiên, phải cho rằng yếu tố tâm lý cũng góp phần tạo nên đô la hoá thay thế tài sản ngoài yếu tố chi phí cơ hội cho việc nắm giữ tiền nêu trên. Hiện tượng đô la hoá thay thế tài sản ở một số nước cho thấy kể cả khi đồng bản tệ đã trở nên hấp dẫn đồng ngoại tệ ( lãi suất tiền gửi của đồng bản tệ cao hơn lãi suất tiền gửi của ngoại tệ (USD) cộng thêm mức độ mất giá của đồng bản tệ) nhưng dân chúng vẫn gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng với tỉ lệ ổn định. Ngoài ra các quy định về quản lý ngoại hối, chính sách mở cửa nền kinh tế, mức độ hội nhập nền kinh tế thế giới sẽ có ảnh hưởng đến quy mô đô la hoá thay thế tài sản. Tại một nước, có nền kinh tế mở, chính sách quản lý ngoại hối tự do (nhất là tự do hoá cán cân vãng lai), mức độ hội nhập nền kinh tế toàn cầu lớn, dân chúng và tổ chức được tự do mua bán, nắm giữ ngoại tệ thì quy mô đô la hoá thay thế tài sản sẽ lớn khi ngoại tệ trở nên hấp dẫn hơn đồng bản tệ về chi phí nắm giữ tiền ( có tính đến khả năng mất giá của đồng bản tệ ). Ngược lại với các nước áp dụng chính sách quản lý ngoại hối chặt, kinh tế đóng hoặc mở cửa thấp thì ngay cả khi đồng ngoại tệ hấp dẫn hơn nhưng mức độ đô la hoá thay thế tài sản vẫn hạn chế. b.Đô la hoá thay thế thanh toán Là việc người cư trú sử dụng ngoại tệ thay cho nội tệ trong phương tiện thanh toán và đơn vị tính toán. Đô la hoá thay thế thanh toán và đô la hoá thay thế tài sản có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Đô la hoá thay thế tài sản là
  7. tiền đề của đo la hoá thanh toán nhưng nó có thể tồn tại độc lập với đôla hoá thay thế thanh toán. Đô la hoá thay thế thanh toán là yếu tố kích thích đô la hoá thay thế tài sản phát triển nhưng nó không thể tồn tại độc lập không đi kèm với đô la hoá thay thế tài sản. Một đồng tiền mạnh được lựa chọn là đồng tiền thay thế chức năng thanh toán là đồng tiền của một quốc gia mà quốc gia đó có thể sản xuất ra nhiều loại hàng hoá được người tiêu dùng của quốc gia đó và của quốc gia khác ưa chuộng. Ngoài một số đồng tiền chủ chốt trên thế giới, các chủ thể kinh tế có thể vẫn nắm giữ các đồng tiền không phải là đồng tiền mạnh, có lãi suất không cao nhưng có thể dễ dàng thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ mà họ cần. Điều này thường xảy ra ở những khu vực biên giới của một quốc gia tiếp giáp với một quốc gia khác mà hàng hoá do nước đó sản xuất ra được ưa chuộng hơn. Cũng giống như phân tích ở trên, quy mô còn phụ thuộc vào các quy định về quản lý ngoại hối, khả năng giám sát việc thực thi các chính sách về quản lý ngoại hối, khả năng thanh toán nhanh chóng, tiện lợi của hệ thống ngân hàng, mức độ hội nhập nền kinh tế thế giới. Tại một nước, có nền kinh tế mở, chính sách quản lý ngoại hối tự do cho phép dân chúng được thanh toán bằng ngoại tệ hoặc việc giám sát việc thực thi các văn bản về quản lý hối phiếu, thanh toán qua hệ thống ngân hàng không thuận lợi, thì quy mô sẽ tăng khi có biến động tỷ giá hoặc môi trường kinh té vĩ mô không ổn định. Ngược lại với các nước áp dụng chính sách quản lý ngoại hối chặt, việc giám sát thực thi chính sách quản lý ngoại hối tốt, việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng tiện lợi, nền kinh tế đóng hoặc mở cửa thấp thì ngay cả khi có biến động tỷ giả hoặc môi trường vĩ mô không ổn định mức đô la hoá vẫn bị hạn chế II. Các tiêu thức lượng hoá mức độ đô la hoá trong một nền kinh tế Để đánh giá được các tác động của đô la hoá, xem xét trường hợp nào là tự nhiên, trường hợp nào là đáng báo động, trường hợp nào có lợi, trường hợp nào có hại, chúng ta phải lượng hoá được mức độ đô la hoá của nền kinh tế. Về mặt định tính, mức độ đô la hoá thê hiện ở cả ba chức năng của tiền tệ đều có thể nhận thức hoặc quan sát được. Để đo lường chính xác tỉ lệ đô la hoá của một nền kinh tế đòi hỏi ta phải đánh giá theo cả ba chức năng của tiền tệ, nghĩa là :  Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ của nền kinh tế trên tổng dự trữ của nền kinh tế
  8.  Tỷ lệ thanh toán bằng ngoại tệ trên tổng khối lượng thanh toán  Tỷ lệ các giao dịch được niêm yết, định giá bằng ngoại tệ trên tổng khối lượng thanh toán Tuy nhiên, việc lượng hoá được thành phần thứ hai và thứ ba là rất khó khăn ở các nước đang phát triển khi các nước này hiện tượng thanh toán bằng tiền mặt diễn ra khá phổ biến. Trong các trường hợp này, hầu hết các nhà kinh tế và chuyên gia kinh tế mới chỉ dừng lại ở việc lượng hoá tỷ lệ tièn gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi và so với tổng phương tiện thanh toán (hay lượng cung ứng tiền mở rộng) ở nước đó để thấy được mức độ thay thế chức năng cất trữ trong hệ thống ngân hàng và vai trò của ngoại tệ trong tổng giao dịch của nền kinh tế. Với việc tiếp cận này, IMF đã đưa ra cách tính mức độ đô la hoá của một nền kinh tế bằng tỷ lệ giữa lượng tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng cung ứng tiền mở rộng (M2). Tiêu thức này được nhiều chuyên gia sử dụng và có thuận lợi đối với các nước có hệ thống ngân hàng phát triển ở trình độ cao, hoạt động hiệu quả, lượng tiền mặt do các chủ thể kinh tế nắm giữ không đáng kể so với tiền gửi ngân hàng. Theo cách tính này, một nền kinh tế có tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ so với tổng phương tiện thanh toán lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó được coi là bị đô la hoá cao. Các chuyên gia của IMF cho rằng nếu tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ so với lượng tiền cung ứng M2 lớn hơn 30% thì có nghĩa là hiện tượng đô la hoá đã có tác động ở một mức độ nào đó đến chính sách tiền tệ của một quốc gia và cần được các nhà hoạch định chính sách lưu ý. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng thừa nhận là cụm từ “ở một mức nào đó” cũng chưa rõ ràng do ở nhiều nước có tỷ lệ đô la hoá cao hơn nhưng chính sách tiền tệ vẫn tỏ ra vững vàng. Để đánh giá mức độ ưa chuộng loại tiền trong chức năng thay thế tài sản, người ta thường quan sát tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng số tiền gửi của các chủ thể kinh tế tại ngân hàng. Phương pháp này tuy đơn giản nhưng không chính xác đối với những có tỷ lệ sử dụng tiền mặt cao,việc tính toán lượng tiền mặt do các chủ thể kinh tế nắm giữ để dự trữ giá trị và để thanh toán chiếm tỷ trọng lớn. Đối với các nước đang phát triển, mặc dù khó có thể lượng hoá được ngoại tệ được sử dụng như thế nào trong chức năng thanh toán, cất trữ tiền mặt hay định giá nhưng các nhà kinh tế cũng cho rằng để đánh giá mức đô la hoá thực tế của các nước
  9. này, cần phải lượng hoá được khối lượng tiền mặt ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngoại tệ phi chính thức hay còn gọi là thị trường ngoại hối phi chính thức và các đặc trưng của thị trường này để thấy được vai trò của thị trường này so với thi trường chính thức và thấy được các chức năng thay thế thanh toán, tính toán giá trị của đồng ngoại tệ. Do vậy, ngoài tiêu thức tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán cao hơn 30%, có thể đưa ra một số dấu hiệu bổ trợ khi nhận dạng một nền kinh tế được coi là bị đô la hoá cao như:  Số ngoại tệ trôi nổi ngoài lưu thông là tương đối lớn so với tổng phương tiện thanh toán  Hiện tượng định giá bằng ngoại tệ và thanh toán bằng ngoại tệ diễn ra phổ biến  Hoạt động thanh toán bằng ngoại tệ của các nước có cùng biên giới diễn ra sôi động và ít dùng bằng đồng bản tệ. Cũng giống như các nước đang phát triển khác, mặc dù theo quy định, các tổ chức và cá nhân không được phép mua bán, thanh toán, cho vay bằng ngoại tệ, đặc biệt là ngoài hệ thống ngân hàng nhưng thực tế chưa kiểm soát được vì nhiều lý do vì vậy, ở Việt Nam vẫn có hiện tượng sử dụng ngoại tệ tiễn mặt để phục vụ việc thanh toán và sử dụng trong buôn lậu, nên ngoài việc đánh giá mức độ đô la hoá tiền gửi và tiền vay tại hệ thống ngân hàng, thì phải đề cập đến việc dự báo, tính toán khối lượng tiền mặt ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường phi chính thức và các đặc trưng của thị trường này. III. Nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế bị đô la hoá Đô la hoá là hiện tượng phổ biến tại các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Tuy nhiên, do có hoàn cảnh khác nhau, điều kiện khác nhau nên tại các nước này, các nguyên nhân gây nên tình trạng đô la hoá cũng khác nhau. Xác định được đúng nguyên nhân gây ra tình trạng đô la hoá là điều kiện tiên quyết để có thể đa ra những giải pháp đúng đắn về vấn đề này. 1) Nguyên nhân khách quan a. Sự yếu kém của nền kinh tế
  10. Xét về mặt lý thuyết và học thuật thì nguyên nhân căn bản nhất của tình trạng đô la hoá là đồng bản tệ đã không thể cạnh tranh được với đồng ngoại tệ trong việc thực hiện một, hai hoặc cả ba chức năng của tiền tệ. Nói chung, các quốc gia đều khuyến khích (hoặc bắt buộc) ngời dân nước mình sử dụng đồng bản tệ. Tuy nhiên,khi lựa chọn giũa đồng bảng tệ và đồng ngoại tệ, các chủ thể kinh tế sẽ lựa chọn đồng tiền nào thực hiện được tốt hơn các chức năng của tiền tệ. b. Yếu tố chính trị Kinh tế không phải là yếu tố duy nhất quyết định sức mạnh của một đồng tiền. Do ngay từ khi ra đời, tiền tệ đã mang trong mình yếu tố chính trị nên sức mạnh của một đồng tiền còn phụ thuộc vào sức mạnh chính trị của quốc gia phát hành ra nó. Điều này được minh chứng rõ ràng nhất là vai trò của đồng JPY và USD trong những thập kỷ 60, 70. Lúc này xét về mặt kinh tế thì Nhật Bản có nhiều triển vọng hơn Mỹ nhưng đồng JPY thì còn lâu mới có thể ganh đua với USD trên thị trường ngoại hối quốc tế, vì Nhật còn quá phụ thuộc vào Mỹ về vấn đề chính trị và quân sự. Sự phụ thuộc chính trị vào Mỹ (hay nước phát hành đồng ngoại tệ) cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình đô la hoá của một quốc gia thành đô la hoá toàn phần. Đây chính là trường hợp của Panama và gần đây là Ecuado c. Đồng tiền bản tệ chưa tự do chuyển đổi Khi ở một nước, đồng tiền bản tệ chưa được tự do chuyển đổi, đặc biệt là tự do chuyển đổi cán cân vãng lai thì đồng tiền bản tệ trở nên kém hấp dẫn so với ngoại tệ và cất trữ ngoại tệ sẽ xẩy ra với lý do khó có thể mua lại trong tương lai do cung ngoại tệ chưa đáp ứng cầu ngoại tệ và kết quả là đồng ngoại tệ sẽ lấn át đồng bản tệ trong chức năng cất trữ và hiện tượng đô la hoá sẽ tồn tai như một hiện tượng kinh tế khách quan. d. Lạm phát cao và kéo dài Trong những nền kinh tế của các nước kém phát triển, giá trị đồng bản tệ có xu hướng giảm giá so với USD và các đồng tiền mạnh khác trên thế giới thì trong ba chức năng của tiền tệ, chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ luôn được xem xét đầu tiên khi quyết định danh mục đầu tư tài sản tài chính. Một nền kinh tế mở với các chính sách ngoại hối cho phép dân chúng được phép mua bán và cất trữ ngoại tệ, khi
  11. có tỷ lệ lạm phát cao, kéo dài đặc biệt là do nhà nước phát hành quá nhiều tiền giấy để khắc phục thâm hụt ngân sách, giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng cao, đồng nội tệ bị mất giá, sức mua giảm sút thì dân chúng sẽ không dự trữ bằng đồng bản tệ mà thường đầu tư bằng ngoại tệ mạnh để đảm bảo giá trị tài sản của họ. e. Yếu tố tâm lý Hiện nay, tại một số nước đang chuyển đổi, sau một thời gian lạm phát cao, đồng tiền mất giá thì nền kinh tế đã ổn định trở lại với mức lạm phát thấp tỷ giá ổn định nhưng hiện tượng đô la hoá, đặc biệt là đô la hoá thay thế tài sản vẫn ở mức cao. Các chuyên gia kinh tế đều thống nhất quan điểm là việc làm mất lòng tin ở đồng nội tệ bao giờ cũng diễn ra nhanh và dễ dàng hơn là việc lấy lại lòng tin. Các doanh nghiệp và người dân ở những nước này luôn có tâm lý đề phòng những biến động kinh tế nên vẫn duy trì tài sản của họ bằng đồng ngoại tệ để đảm bảo an toàn và phòng tránh rủi ro. 2) Nguyên nhân chủ quan a. Việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách lãi suất thiếu đồng bộ *Đối với tình trạng đô la hoá thay thế thanh toán Khi các chủ thể kinh tế đã có một dự trữ khá lớn đồng ngoại tệ, giá trị đồng bản tệ vẫn không ổn định thì chức năng đơn vị tính toán và phương tiện thanh toán của đồng nội tệ cũng sẽ dần được đồng ngoại tệ chiếm lĩnh. Bắt đầu là từ các hoạt động kinh tế đối ngoại như xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư, vay nợ. Trong bối cảnh tỷ giá hối đoái biến động, các doanh nghiệp khin doanh hàng nhập khẩu có xu hướng định giá hàng hoá bán trong nước (công khai hoặc ngầm quy đổi tuỳ thuộc chính sách quản lý ngoại hối) bằng ngoại tệ để tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái. Từ lĩnh vực này, ngoại tệ sẽ dần chiếm lĩnh vai trò tiền tệ trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế. * Đối với đô la hoá thay thế tài sản Xét trong giai đoan tỷ giá ổn định, nếu mức lãi xuất đồng đô la (USD) bằng mức lãi suất của đồng bản tệ(IVNĐ) thì chủ tài sản cũng vẫn muốn giữ tài sản dưới hình thức USD do khả năng thanh toán quốc tế, khả năng chuyển đổi. Chính vì vậy các chủ tài khoản chỉ ngừng các nỗ lực chuyển đổi hình thức tài sản sang USD khi mức chênh
  12. lệch lãi xuất giữa đồng bản tệ và USD là dương và đủ bù đắp sự mất mát lợi ích về khả năng thanh toán quốc tế (hệ số rủi ro của đồng bản tệ so với USD). Thông thường, các quốc gia bị đô la hoá là những nước có nền kinh tế không mạnh với năng suất lao động thấp hơn các nền kinh tế phát triển như Mỹ. Và các nước này luôn gặp phải một tình thế tiến thoái lưỡng nan là: Nếu nâng cao lãi suất đồng nội tệ thì nền kinh tế không chịu nổi do năng suất lao động thấp, nhưng nếu hạ thấp lãI suất để kích thích phát triển kinh tế thì lại làm gia tăng tình trạng đô la hoá b. Chính sách quản lý ngoại hối lỏng Chính sách về quản lý ngoại hối ở các nước cho phép dân chúng được cất trữ, nhận, thanh toán, gửi rút ra bằng ngoại tệ một cách tự do sẽ góp phần làm gia tăng mức đô đô la hoá. Cụ thể, ở các nước có chính sách ngoại hối cho phép các doanh nghiệp được nhân ngoại tệ quá rộng rãi, cho phép các ngân hàng mở các bàn thu đổi ngoại tệ tràn lan, hay các chính sách kiều hối cho phép dân chúng nhận , gửi, rút ra bằng ngoại tệ một cách dễ dàng thì ở nước đó các chính sách nêu trên sẽ làm thuận tiện việc thanh toán,cất trữ ngoại tệ của dân chúng và các tổ chức kinh tế, góp phần làm phát triển thị trưòng ngoại hối phi chính thức và tạo điều kiện thuận lợi cho hiên tượng đô la hoá gia tăng. Đặc biệt khi các chính sách quản lý ngoại hối nêu trên không được kiểm soát để thực thi đúng quy định, hiện tượng lạm dụng các giấy phép thu đổi ngoại tệ để kinh doanh ngoại tệ trên thị trường sẽ xảy ra, tạo điều kiện phát triển thị trường đô la hoá phi chính thức. c. Hệ thống thanh toán ngân hàng kém phát triển Tại một số nước, thanh toán bằng đồng bản tệ đôi khi còn gặp khó khăn do hệ thống ngân hàng kém phát triển, hoạt động thanh toán chủ yếu được thực hiện bằng tiền mặt và với các nước có mệnh giá nhỏ thì hoạt động thanh toán tiền mặt bằng ngoại tệ sẽ phát triển làm gia tăng hiện tượng đô la hoá thay thế thanh toán. Ngoài ra hoạt động buôn lậu, mua bán bất hợp pháp cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng tao điều kiện cho thị trường ngoại hối bất hợp pháp phát triển, làm trầm trọng thêm tình trạng đô la hoá. IV- Các tác động của đô la hoá
  13. 1) Tác động tích cực Quá trình đô la hoá có thể có một số tác động được coi là tích cực:  Việc sử dụng đồng đô la sẽ tạo cho nền kinh tế “một cái van giảm sức ép” của những mất cân đối, kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.  Hạ thấp chi phí giao dịch: ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Đô la hoá chính thức cũng loại bỏ những giao dịch với các nước khác. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, điều này giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nước.  Giảm chi phí còn giúp cho các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Việc tồn tại hai đồng tiền buộc các ngân hàng phải tiến hành danh mục đầu tư tách biệt giữa nôi tệ và ngoại tệ.  Hạ thấp lạm phát hiện tại và rủi ro lạm phát trong tương lai thấp hơn. Bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, các nước đô la hoá chính thức bảo đảm duy trì tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp ở các nước phát hành đồng ngoại tệ. Lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Lạm phát thấp giúp cho những người nghỉ hưu, những người có thu nhập ổn định và những người nghèo có các tài khoản tại ngân hàng và đảm bảo rằng tiết kiệm của họ được duy trì giá trị.  Lãi suất thấp hơn khuyến khích phát triển kinh tế, ở các nước đô la hoá chính thức, người ta sẽ thực hiện so sánh và tiếp nhận đồng tiền nào có giá trị hơn, có mặt bằng lãi suất thấp hơn. Mặt bằng lãi suất thấp sẽ cho phép tăng trưởng kinh tế cao hơn và sẽ tạo điều kiện để thu hẹp khoảng cách so với các nước công nghiệp.  Đô la hoá ở mức độ lớn sẽ thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức.  Mức độ mở cửa lớn hơn, minh bạch hơn.Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Đặc biệt là khi một nền kinh tế bị đô la hoá hoàn toàn thì NHTW sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây
  14. lạm phát, đồng thời NSNN sẽ không trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. 2) Tác động tiêu cực a. Xét về góc độ tài chính Đô la hoá làm yếu kém hoạt động và hiệu quả chính sách tài chính. Nó hạ thấp doanh thu từ phát hành tiền và làm trầm trọng hơn tác động lạm phát từ việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng ( ở Achentina những năm sau khi tiến hành đô la hoá, doanh thu từ phát hành tiền giảm 0,3% GDP ). Đô la hoá cho phép một bộ phận nhất định các hoạt động kinh tế trốn thuế. Đô la hoá làm yếu kém hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp vì nó đã góp phần làm chệch hướng sản xuất sang thị trường không chính thức. b. Xét về góc độ tiền tệ Đô la hoá làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ. Đô la hoá không chính thức có thể khiến cho cầu về nội tệ không ổn định. Nếu mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ đòng tiền này sang đồng tiền khác. Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền lúc này sẽ được quyết định ở Mỹ , trong khi một nước đang phát triển và một nước công nhiệp phát triển như Mỹ không có những chu kỳ tăng tăng trưởng kinh tế giống nhau. Giả sử, nếu có xảy ra một quá trình điều chỉnh cho phù hợp thì quá trình này cũng phải kéo dài nhiều năm. Sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Với doanh thu thuế lạm phát thấp hơn và những tác động bất lợi của đô la hoá đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước khiến cho chính sách tiền tệ ở một mức độ nào đó, phải cung cấp những nhu cầu tài chính lớn hơn cần thiết cho khu vực nhà nước. Đô la hoá cũng làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá.Đô la hoá tác động đến cơ chế chuyền dẫn của tỷ giá hối đoái. Tác động khuếch đại của phá giá tiền tệ sẽ trở
  15. nên yếu kém do phá giá tiền tệ chỉ tác động đến một bộ phận nhỏ hơn các tài khoản có tính thanh khoản. Sự yếu kém chính sách tỷ giá xuất hiện bất kể có tồn tại hay không chênh lệch trên thị trường phi chính thức. Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi NHTW và chức năng của nó là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Là người cho vay cuối cùng, NHTW sẵn sàng cung cấp các khoản cho vay thanh toán đối với hệ thống ngân hàng khi có hiện tượng rút tiền ồ ạt. NHTW thực hiện chức năng này chủ yếu bằng cách sử dụng nguồn vốn tự có của mình để tạo ra khả năng thanh toán – một nghiệp vụ không thể có được trong hệ thống đô la hoá. Hoặc như NHTW có thể tạo ra nguồn tiền cơ bản trong phạm vi số ngoại tệ đã được tích luỹ dự phòng. Trong một nền kinh tế đô la hoá, Nhà nước chỉ có thể huy động nguồn tín dụng từ bên ngoài trong trường hợp có khủnh hoảng. Tuy nhiên, xét ở cấp độ Chính phủ thì điều này là không khả thi, mà thay vào đó, Chính phủ các nước này sẽ buộc phải tận dụng các quỹ dự trữ có nguồn thu từ thuế để đối phó với tình trạng khẩn cấp của khu vực tài chính. Đô la hoá mang lại sự hội nhập thị trường sâu sắc hơn và thêm nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh suất nhập khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt họ trước những rủi ro lớn hơn. Đó chính là vấn đề cạnh tranh, vấn đề cạnh tranh càng trở nên khốc liệt khi sự hội nhập đó xuất phát từ đô la hoá. Mất khả năng phá giá tiền tệ là một bất lợi khác đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Không có khả năng phá giá tiền tệ, các nhà kinh doanh mất đi một công cụ để thâm nhập, chiếm lĩnh hay làm chủ thị trường. Thêm vào đó, với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế, người kinh doanh xuất nhập khẩu không thể thoát ly khỏi nền kinh tế quốc gia để có thể không chịu những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế đó. Đồng thời do đặc thù của hoạt động xuất nhập khẩu, người kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ bị tác động của nền kinh tế trong nước mà cả nền kinh tế của các quốc gia khác một cách trực tiếp.Việc nhất thể hoá đồng tiền một cách tự phát như trường hợp đô la hoá khiến các quốc gia đô la hoá khó có thể có một cơ chế đủ mạnh để hỗ trợ lẫn nhau những lúc khó khăn, nhưng lại khiến các biến động tiêu cực ở từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến các quốc gia khác trong cùng một khu vực tiền tệ. Điều này đặt các nhà kinh
  16. doanh xuất nhập khẩu, cũng như những người kinh doanh tài chính tiền tệ ở các quốc gia này dưới những tác động kép ở cả ngay trong nước lẫn nước ngoài. Như vậy ta có thể thấy, đô la hoá chỉ mang lại lợi ích cho các quốc gia có sự hội nhập toàn diện với Hoa Kỳ về thương mại và tài chính, có nghĩa là những nước có cơ cấu kinh tế giống Hoa Kỳ, chu kỳ kinh tế khớp với chu kỳ kinh tế của Hoa Kỳ với tỷ lệ lạm phát và lãi suất ở mức tương đương. Bên cạnh đó, các quốc gia này phải có quan hệ mật thiết về thương mại, đầu tư với Hoa Kỳ thì mới có thể khai thác tối đa những lợi ích của đô la hoá và nhờ vậy mà có thể bỏ qua những ảnh hưởng tiêu cực của nó, cũng như những rủi ro mà nó mang lại. Riêng đối với các quốc gia hiện đang bị đô la hoá không chính thức, không nên nghĩ đén việc đô la hoá toàn bộ nền kinh tế mà nên chăng tìm phương pháp đối phó với đô la hoá trước khi quá muộn. Ta có thể thấy rằng đại bộ phận những nền kinh tế quan tâm đến vấn đề đô la hoá trong thời gian gần đây đều là những nước đã để đô la hoá không chính thức tràn lan đến mức không thể cứu vãn nổi. Đây là điều mà các nước khác nên tránh. Bởi suy cho cùng, nếu một quốc gia không thể đáp ứng được các tiêu chí đã nêu ở trên thì quốc gia đó không nên thực hiện đô la hoá. Không thể dự đoán trước phải mất bao nhiêu thời gian quốc gia đó mới được hưởng lợi từ đô la hoá, nhưng lại có nguy cơ phải đối mặt với những bất ổn không chỉ trong kinh tế mà còn trong cả chính trị- xã hội bởi sự phụ thuộc về kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự phụ thuộc về chính trị.
  17. Chương II. Thực trạng đôla hoá ở Việt Nam I- Tình hình đôla hoá ở Việt Nam. 1.Những con đường đôla Mỹ xâm nhập vào Việt Nam. Thời kì trước năm 1975, đôla Mỹ tham gia vào nền kinh tế Việt Nam dưới dạng những khoản viện trợ của Chính phủ Mỹ cho chính quyền miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuộc chiến tranh lạnh khiến thế giới chia thành hai cực, nửa này đóng cửa với nửa kia; vì vậy, ở Việt Nam, đồng đôla Mỹ không còn đóng một vai trò đáng kể. Từ sau Đại hội Đảng 6 năm 1986, Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa nền kinh tế, đồng đôla Mỹ bắt đầu trở lại và ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam. Xét trên phương diện giao dịch thương mại, vai trò của đồng đô la Mỹ được thể hiện rất rõ ràng qua việc hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng tăng. Từ năm 2000, khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được kí kết, Mỹ đã trở thành một bạn hàng quan trọng, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2000, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu trên 730 triệu USD, chiếm 5,14% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong năm 2001, xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm 6,59% tổng kim ngạch xuất khẩu đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam. Năm 2006, xuất khẩu sang Mỹ đạt 8 tỷ USD, chiếm 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2007, con số này dự kiến sẽ là 10 tỷ USD. Như vậy, cho đến nay, Hoa Kỳ đã trở thành đầu bảng xuất khẩu của Việt Nam, vượt qua EU (6,8 tỷ USD), Nhật (5,2 tỷ USD). Không chỉ trong giao dịch thương mại với Mỹ, mà trong các hoạt động kinh tế khác, các giao dịch với các quốc gia khác, đồng đôla cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Năm 2002, đồng đôla Mỹ chiếm 80% giao dịch ngoại thương của Việt Nam. Năm 2007, con số này là 89%, trong khi đồng euro chiếm 7%, đồng yên Nhật chiếm 3%, còn lại 1% cho các đồng tiền khác. Đôla Mỹ được sử dụng trong giao dịch với các nước châu Âu, Nhật Bản, ASEAN… Thêm vào đó, đại bộ phận các khoản vay nợ, viện trợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều được thực hiện bằng đôla Mỹ. Xét trên phương diện đời sống dân cư, sự có mặt của đồng đô la ngày càng tăng lên. Thu nhập bằng đồng đôla của các tầng lớp dân cư tăng lên. Việt Nam gia nhập WTO
  18. đồng nghĩa với việc các công ty nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, học tập, du lịch… tăng, họ sử dụng đôla Mỹ để trả lương, để thanh toán… Hơn nữa, nhằm thu hút nguồn ngoại tệ từ nước ngoài, trong những năm qua Chính phủ đã ban hành các văn bản: Quyết định số 78/2002/QĐ- TTg ngày 17/6/2002 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 170/1999 về việc thu hút nguồn ngoại tệ kiều hối từ nước ngoài vào Việt Nam. Các chính sách trên cho phép người thụ hưởng được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại ngân hàng được rút ra cả gốc lẫn lãi bằng ngoại tệ, được sử dụng số ngoại tệ này chuyển ra nước ngoài. Ngoại tệ kiều hối không bị hạn chế về số lượng và không bị đánh thuế. Riêng nguồn kiều hối hàng năm đạt kim ngạch 2-3 tỷ USD. Đó là chưa kể những khoản kiều hối "chui", những khoản đôla nhập lậu, những vụ rửa tiền… mà Nhà nước ta chưa kiểm soát hết được. Như vậy, bằng những con đường khác nhau, đôla Mỹ đã và đang thâm nhập sâu vào Việt Nam, cả trong hoạt động kinh tế lẫn đời sống dân cư. Điều này là một lẽ tất nhiên trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng và đôla Mỹ lại là đồng tiền chủ đạo của nền kinh tế thế giới. 2.Những biểu hiện của đôla hoá ở Việt Nam. Phần này sẽ nêu lên mức độ đôla hoá ở Việt Nam cũng như những biểu hiện của hiện tượng đôla hoá trong dân cư và trong hệ thống ngân hàng. 2.1. Đôla hoá trong dân cư. Trong đề án Nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và khắc phục hiện tượng đôla hoá của nền kinh tế mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra, mặc dù NHNN không đưa ra được con số cập nhật về lượng ngoại tệ (chủ yếu là USD) đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng, nhưng một số nghiên cứu gần đây cho thấy, con số này đã có thời điểm đạt tới 1/3 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, và số lượng ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường lên tới 4-6 tỷ USD. Như phần trên đã đề cập, đôla Mỹ có thể xâm nhập vào đời sống dân cư qua việc nhận lương, kiều hối, từ xuất khẩu tại chỗ như thu về du lịch, khách sạn, bán hàng cho khách nước ngoài đến du lịch tại nước ta…
  19. Trong những năm trở lại đây, nhu cầu sử dụng đôla Mỹ trong thanh toán rất cao. Hàng năm, số người đi xuất khẩu lao động, đi du học, đi du lịch rất cao và họ rất cần đôla Mỹ để chi trả, thanh toán. Không chỉ ở nước ngoài, mà trong nước, việc mua bán cũng được thực hiện bằng đôla Mỹ. Theo quy định về quản lý ngoại hối, chỉ có tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam mới được thông báo, quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, dạo một vòng ở những trung tâm thương mại lớn ở Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội, dễ dàng nhận thấy hầu hết các cửa hàng đều niêm yết giá hàng hoá và giao dịch mua bán bằng USD, nhất là những hàng hoá dịch vụ có giá trị lớn. Bất cứ người dân nào cũng có thể sử dụng ngoại tệ mọi lúc, mọi nơi một cách thoải mái. Đồng đôla Mỹ được sử dụng phổ biến để định giá và thanh toán trong các giao dịch mua bán; đặc biệt là các hàng hoá có giá trị lớn như ôtô, nhà cửa và các bất động sản khác, thậm chí ở các cửa hàng trang sức hay các khách sạn, các cửa hàng linh kiện máy tính. Vào bất kì cửa hàng máy tính nào trên phố Lê Thanh Nghị (Hà Nội), có thể thấy chỉ một chiếc USB cũng được niêm yết giá bằng đôla Mỹ. Bên cạnh đồng Việt Nam, đôla Mỹ cũng thực hiện chức năng đơn vị đo lường giá trị. Thêm vào đó, người ta có thể dễ dàng mua bán đôla ở hầu hết các cửa hiệu kinh doanh vàng bạc. Thậm chí, muốn có một triệu USD tiền mặt, có thể tìm đến thị trường chợ đen (ví dụ phố Hà Trung - Hà Nội) để mua dễ như mua một mớ rau. Nhìn chung, rất khó có thể đánh giá mức độ đôla hóa thông qua tỷ lệ giao dịch bằng đồng đôla trong đời sống dân cư. Tuy nhiên, có thể nhận ra rằng đôla Mỹ chủ yếu được sử dụng trong những giao dịch có giá trị lớn (đóng vai trò là phương tiện thanh toán). Ngoài ra, do lãi suất tiết kiệm bằng đồng đôla trong thời gian qua tăng cao hơn so với VNĐ và do tâm lý cất trữ ngoại tệ đề phòng rủi ro thì nhiều người dân sử dụng đôla Mỹ như một phương tiện cất trữ. 2.2.Đôla hoá trong lĩnh vực ngân hàng. Những biểu hiện của đôla hoá được thể hiện rõ ràng nhất trong lĩnh vực ngân hàng. Dưới đây, ta xét trên hai nghiệp vụ: huy động và cho vay của các ngân hàng. a. Đôla hoá trong lĩnh vực tiền gửi.
  20. Nếu chỉ nhìn vào mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán thì ai cũng có thể hiểu tại Việt Nam, mức độ đôla hoá là khá cao. Nhưng về mặt học thuật, mức độ đôla hoá được đo bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2). Theo quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), một quốc gia có tỷ lệ trên vượt mức 30% là bị đôla hoá trầm trọng. Theo cách phân loại đã nêu ở phần trước, Việt Nam là nền kinh tế đôla hóa một phần trong đó hệ thống tiền tệ sử dụng song song cả VNĐ và USD. Sự biến động mức đôla hoá ở Việt Nam:  Năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đôla, hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đôla Mỹ trong giao dịch buôn bán…bắt đầu được chú ý đến.  Đỉnh cao của mức độ đôla hoá tại Việt Nam là vào năm 1991 khi tỷ lệ FCD/M2 lên tới 41,2%, nguyên nhân là do giai đoạn trước đó, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát phi mã khiến người dân mất lòng tin vào đồng nội tệ.  Đến năm 1992, tình trạng đôla hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đôla Mỹ.  Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đôla hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Tỷ lệ FCD/M2 giảm xuống 22,9% năm 1997. Nhưng tiếp theo đó, cuộc khủng hoảng tài chính đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đôla hóa.  Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003 còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 24% và trong thời gian gần đây đang dao động trong khoảng 25 - 30%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đôla hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin vào đồng nôi tệ nhiều hơn. Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đồng đôla thì không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1995, chỉ có khoảng 1,5 tỷ USD tiền gửi từ khu vực dân cư thì đến năm 2006, con số này là 9 tỷ USD. Việc người dân ít "găm" đôla
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2