intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Giải pháp đề xuất để quản lý nợ công của Việt Nam trong thời gian tới

Chia sẻ: Nguyen Van Tien | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:51

137
lượt xem
57
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chưa bao giờ nền kinh tế thế giới lại phải đối mặt cùng lúc với nhiều vấn đề nóng hổi như những năm vừa qua. Mở đầu cho 1 chuỗi những biến động đáng chú ý đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007-2010) mà bắt nguồn của nó từ Mĩ - đầu tầu của nền kinh tế , tài chính thế giới. Những hệ quả kéo theo sau đó cho đến hôm nay vẫn đang là những chủ đề kinh tế rất thời sự, còn rất nhiều vấn đề gây ra nhiều lo ngại, mất rất nhiều...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Giải pháp đề xuất để quản lý nợ công của Việt Nam trong thời gian tới

  1. Luận văn Giải pháp đề xuất để quản lý nợ công của Việt Nam trong thời gian tới
  2. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 LỜI MỞ ĐẦU Chưa bao giờ nền kinh tế thế giới lại phải đối mặt cùng lúc với nhiều vấn đề nóng hổi như những năm vừa qua. Mở đầu cho 1 chuỗi những biến động đáng chú ý đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007-2010) mà bắt nguồn của nó từ Mĩ - đầu tầu của nền kinh tế , tài chính thế giới. Những hệ quả kéo theo sau đó cho đến hôm nay vẫn đang là những chủ đề kinh tế rất thời sự, còn rất nhiều vấn đề gây ra nhiều lo ngại, mất rất nhiều thời gian nghiên cứu của các nhà kinh tế. Và vấn đề nợ công đã trở thành một vấn đề nóng trên toàn cầu, ở tất cả quốc gia, kể cả nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển. Từ câu chuyện nợ công Hy Lạp cùng một số nước trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu và những bài học kinh nghiệm được rút ra, rồi đến những cuộc tranh cãi trong thượng- hạ viện Mỹ về nâng trần nợ công đã là một hồi chuông cảnh báo cho nhiều nước trên thế giới phải có một cái nhìn cẩn trọng về vấn đề nợ công. Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các vấn đề kinh tế- tài chính chắc chăn sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Với vị thế là một nền kinh tế trẻ, đang phát triển, có rất nhiều triển vọng trong tương lai, câu chuyện nợ công đang được xem là một vấn đề nóng bỏng, được đưa vào nhiều hội nghị, hội thảo kinh tế lớn nhằm giải quyết những khó khăn còn vướng mắc trong quá trình quản lý nợ tồn tại Việt Nam. Vì vậy vấn đề nợ công luôn là đề tài cấp thiết cần được làm sáng tỏ thêm qua các nghiên cứu khoa học. Thông qua cái nhìn trực quan về tình hình thế giới trong thời gian qua kết hợp với những đánh giá, phân tích có cơ sở khoa học chúng ta sẽ đưa ra một số dự báo cho chuyển biến tình hình nợ công của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó sẽ đưa ra một số khuyến nghị cho công cuộc điều hành, quản lý nợ công tại Việt Nam. Ở đây chúng ta sẽ: -Làm rõ các khái niệm thế nào là nợ công? Khủng hoảng nợ công là gì? Mối quan hệ giữa nợ công và các biến số kinh tế. - Nêu diễn biến thực tế của một số cuộc khủng hoảng nợ công khu vưc Châu Âu, cụ thể là: Hy Lạp, Tây Ban Nha, CH Ai Len từ đó phân tích, đánh giá hậu quả của các cuộc khủng hoảng này cho bản thân các quốc gia đó cũng như cho thế giới. Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng nợ công của các nước Châu Âu tới kinh tế Việt Nam trên các phương diện: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, đầu tư, xuất khẩu... 2
  3. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 - Đưa ra một số dự báo cho bối cảnh tình hình kinh tế thế giới trong thời gian tới. Cuối cùng dựa trên các bài học từ khủng hoảng nợ công ở một số nước Châu Âu đã phân tích rút ra các giải pháp, khuyến nghị cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam trong công cuộc quản lý nợ công. Những nội dung trên sẽ trình bày qua 3 chương bao gồm: Chương 1: Mối quan hệ giữa nợ công và các biến số kinh tế Chương 2: Tác động của khủng hoảng nợ công tại khu vực châu Âu tới nền kinh tế Việt Nam Chương 3: Những khuyến nghị 3
  4. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 CHƯƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ 1.1. Khái niệm cơ bản 1.1.1. Nợ công là gì 1.1.1.1. Khái niệm Về khái niệm nợ công, cho đến nay vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, bởi khái niệm nợ công không chỉ mang tính học thuật, mà còn chứa đựng cả ý đồ chính trị- kinh tế của những người sử dụng nó. Sự khác biệt giữa các định nghĩa và nợ công chủ yếu xoay quanh hai khía cạnh có mối liên hệ mật thiết với nhau: chủ thể vay nợ và trách nhiệm trả nợ. Một số quan điểm cho rằng nợ công chỉ liên quan tới những khoản mà chính phủ vay nợ (chính quyền trung ương và chính quyền địa phương). Như vậy, nợ công chính là các khoản thâm hụt ngân sách của các cấp chính phủ trong quá khứ trừ đi tổng các khoản thặng dư ngân sách trong quá khứ.Tuy nhiên, định nghĩa này không phản ánh đầy đủ trách nhiệm trả nợ chính phủ. Chính vì vậy, xuất hiện quan điểm cho rằng trong khái niệm nợ công cần đưa thêm các khoản vay nợ của các chủ thể khác trong nền kinh tế nhưng được chính phủ bảo lãnh thanh toán. Theo cách tiếp cận này, nợ công là nợ của khu vực công. Khu vực công theo quan niệm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và được dùng trong thống kê tài chính chính phủ, được hợp thành bởi chính phủ nói chung và doanh nghiệp công. Nếu đồng nhất quan điểm nợ công là nghĩa vụ nợ của khu vực công, thì quy mô của nợ công sẽ rất lớn. Điểm mấu chốt ở đây là các doanh nghiệp công được hiểu như thế nào? Và có nên chấp nhận cách tính tất cả các nghĩa vụ nợ của các doanh nghiệp công vào nợ công hay không? Nếu xét trên giác độ mục đích hoạt động của các doanh nghiệp, có thể thấy rằng chỉ nên đưa vào phạm vi tính nợ công các doanh nghiệp công hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, và được nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các hàng hóa công cộng cho nhu cầu xã hội, nhưng có thu được lợi nhuận, thì nợ của các doanh nghiệp này không nên tổng hợp vào nợ công. Ví dụ các doanh nghiệp vận tải hành khách công cộng bằng xe bus đã được nhà nước hỗ trợ cước phí. Tuy nhiên còn một góc nhìn khác về doanh nghiệp công- theo mức độ sở hữu về vốn. Theo luật, người nắm giữ phần lớn lượng vốn của một doanh nghiệp thì có quyền quyết định phương án hoạt động của doanh nghiệp đó và đương nhiên phải chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề gặp phải. Do đó các doanh 4
  5. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối không may gặp các rủi ro thì người chủ sở hữu- nhà nước phải đứng ra xử lý, chịu trách nhiệm về các rủi ro đó. IMF và WB đều xác định: “nợ công là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm nghĩa vụ nợ của các tổ chức sau:  Chính phủ trung ương  Các cấp chính quyền địa phương  Ngân hàng trung ương Các tổ chức độc lập nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định (trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước), và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho các tổ chức đó ” Quan niệm về nợ công của Việt Nam được xác định rõ trong Luật quản lý nợ công, số 29/2009/QH12 ngày 17/6/2009 như sau: “...nợ công bao gồm:  Nợ chính phủ;  Nợ đươc chính phủ bảo lãnh;  Nợ chính quyền địa phương”. Việc xác định phạm vi nợ công ở nước ta hẹp hơn so với thông lệ quốc tế là do các nguyên nhân sau: (i) Sau một thời gian dài xây dựng và phát triển nền kinh tế theo mô hình cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã và đang có rất nhiều doanh nghiệp nhà nước, theo tổng cục thống kê tính tới ngày 1/1/2012 thì có 4715 doanh nghiệp nhà nước trên tổng số 541.103 doanh nghiệp trong cả nước. (ii) Năng lực quản lý điều hành của nhiều chủ doanh nghiệp nhà nước chưa bắt kịp với cơ chế thị trường. Do vậy, chính phủ chỉ chấp nhận trả nợ thay cho các doanh nghiệp nhà nước đối với các khoản nợ mà chính phủ đã cam kết bảo lãnh. Cách tiếp cận này sẽ ngăn chặn tình trạng các doanh nghiệp nhà nước lạm dụng danh nghĩa để vay nợ tràn lan. Đứng trên góc độ nhìn từ trong nước của nền kinh tế Việt Nam thì quan niệm về nợ công của Việt Nam là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước. Tuy nhiên, trong thời kì mới, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, tích cực hội nhập quốc tế thì khái niệm nợ công của nước ta khó có thẻ phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Và trên thực tế các số liệu thống kê về nợ công của chính phủ Việt Nam công bố luôn có sự khác biệt so với các số liệu thống kê của các tổ chức quốc tế. 5
  6. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Từ các phân tích trên, quan điểm về nợ công của Việt Nam nên có sự thay đổi để có thể thống nhất, phù hợp theo quan niệm của quốc tế mà các tổ chức tài chính quốc tế như IMF và WB đang sử dụng trong thống kê tài chính chính phủ (GFS) bởi một số lý do sau: Thứ nhất, Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên cần áp dụng các chuẩn chung trong thống kê tài chính và so sánh quốc tế. Thứ hai, việc phản ánh đầy đủ các nghĩa vụ nợ của khu vực công sẽ giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng các phương án xử lý đối với khoản nợ này. Đồng thời việc công khai minh bạch cả quy mô, nguy cơ tiềm ẩn của nợ công sẽ giúp thức tỉnh dân chúng chung ta thắt lưng buộc bụng cúng chính phủ. Chỉ có như vậy thì tiết kiệm mới trở thành quốc sách hàng đầu. 1.1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công (i) Cân bằng ngân sách cơ bản: khi các khoản thâm hụt ngân sách nhỏ thì việc đi vay để tài trợ cũng giảm đi. (ii) Lãi suất thực tế: khi lãi suất thực tế trên thị trường tăng có thể làm cho các khoản vay trở nên đắt hơn và ngược lại lãi suất giảm khiến các khoản vay rẻ hơn. Mặt khác lãi suất tăng lên - chi phí đi vay tăng, Chính phủ sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn. (iii) Tốc độ tăng trưởng thực tế: ảnh hưởng không nhỏ đến nợ công. Nền kinh tế tăng trưởng tốt điều đó có nghĩa việc sử dụng nguồn vốn vay đã đem lại hiệu quả do đó triển vọng trả được nợ trở nên sáng sủa hơn so với khi nền kinh tế kém tăng trưởng. Mặt khác khi nền kinh tế tăng trưởng cao thì mức độ tiết kiệm trong nền kinh tế lớn, khả năng huy động được nguồn vốn vay từ trong nước cũng tăng lên. (iv) Lãi suất ngoại tệ: ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản vay nước ngoài. Khi lãi suất ngoại tệ tăng các khoản vay ngoại tệ trở nên đắt đỏ hơn và ngược lại. (v) Tỷ giá: có thể xảy ra rủi ro tỉ giá, với các yếu tố khác không đổi, tỷ giá tăng khi trả nợ sẽ làm khoản nợ công đắt hơn khi tính bằng nội tệ ngược lại ta sẽ có lợi nếu đến lúc trả nợ tỷ giá giảm so với lúc đi vay. 1.1.1.3. Phân loại nợ công Việc phân loại nợ công sẽ tạo thêm nhiều thuận tiện cho việc nghiên cứu, đánh giá, quản lý nợ công,…có thể phân loại nợ công theo nhiều tiêu chí khác nhau. Dựa vào thời hạn vay và trả nợ, có thể chia nợ công thành nợ ngắn hạn (nợ có thời hạn thanh toán còn lại dưới một năm) và nợ trung-dài hạn (có thời 6
  7. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 hạn thanh toán còn lại từ 1 năm trở lên)- theo Ngân hàng thanh toán quốc tế. Cách phân chia này tạo thuận lợi cho việc cân đối, tính toán nguồn trả nợ. Căn cứ vào chủ thể cho vay có thể phân nợ công thành nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng caohơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái. Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường được chính phủ của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao. Căn cứ vào lãi suất vay nợ có thể phân thành nợ có lãi suất cố định và nợ có lãi suất thả nổi. Cách phân chia theo chủ thể cho vay hay theo lãi suất giúp đánh giá chính xác hơn các tác động của việc thay đổi bối cảnh kinh tế thế giới trong và ngoài nước đến quy mô, khả năng thanh toán nợ... Căn cứ vào nghĩa vụ trả nợ có thể phân chia thành nghĩa vụ trả nợ trực tiếp (của chính quyền các cấp) và nghĩa vụ nợ dự phòng (các khoản nợ được chính phủ bảo lãnh). Cách phân chia này cho thấy rõ hơn các rủi ro tiềm ẩn đối với nợ công khi môi trường kinh tế thay đổi. Khả năng kiểm soát và xử lý đối với các khoản nợ được bảo lãnh rõ ràng là thấp hơn đối với các khoản nợ mà chính phủ vay trực tiếp. Ngoài ra còn có thể phân chia nợ công theo điều kiện vay nợ (vay ưu đãi, vay thương mại), thường khác nhau ở các mức lãi suất và điều kiện vay theo đồng tiền vay nợ để phản ánh các rủi ro về tỷ giá hối đoái. 1.1.2. Khủng hoảng nợ công 1.1.2.1. Định nghĩa Trong lịch sử tài chính tiền tệ thế giới, thuật ngữ “Khủng hoảng nợ công” (Tiếng anh: public/national/sovereign debt crisis) đã không còn xa lạ. Có rất nhiều các nghiên cứu, các học thuyết đưa ra nhằm tìm hiểu quá trình hình thành của một cuộc khủng hoảng nợ công, cũng như cách thức dự báo và ngăn chặn nó. 7
  8. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một sự thống nhất hoàn toàn giữa các nghiên cứu, các học thuyết đó về khái niệm của một cuộc khủng hoảng công nợ. Trước hết về khái niệm "Khủng hoảng", theo Đại từ điển Tiếng Việt của NXB Văn hoá - Thông tin năm 1998 thì khủng hoảng là tình trạng rối loạn, mất sự cân bằng,bình ổn, do nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết hoặc khủng hoảng là tình trạng thiếu hụt gây mất cân bằng nghiêm trọng. Theo Qũy Tiền Tệ Quốc Tế(IMF) ban đầu khái niệm khủng hoảng nợ thường được định nghĩa là việc một quốc gia không có khả năng chi trả các khoản nợ của mình hay bị vỡ nợ (sovereign default). Định nghĩa này đúng trong những năm 1980, thời kỳ mà nhiều quốc gia không thể thanh toán được các khoản vay ngân hàng của họ. Tuy nhiên, định nghĩa khủng hoảng nợ là việc các quốc gia bị vỡ nợ không còn hoàn toàn chính xác khi thị trường trái phiếu chính phủ nổi lên vào những năm 1990. Dựa trên rất nhiều nghiên cứu trước đây của IMF, Andrea Pescatory và Amadou N.R.Sy, hai nhà kinh tế kỳ cựu của IMF, đã tổng hợp ra 4 hình thức chủ yếu của khủng hoảng nợ. Theo đó, khủng hoảng nợ là các cuộc khủng hoảng xảy ra khi: một quốc gia bị vỡ nợ; có khoản nợ xấu lớn; có các khoản vay quy mô lớn từ IMF hoặc có điềm báo taihọa. Thứnhất, về khủng hoảng nợ xảy ra khi một quốc gia bị vỡ nợ định nghĩa này được các tổ chức định mức tín dụng tập trung xây dựng dựa vào các khả năng không chi trả được nợ. Tổ chức định mức tín dụng Moody’s năm 2003 đã định nghĩa một quốc gia bị vỡ thường có các biểu hiện sau đây: Có sự chậm trễ trong thanh toán lãi và/hoặc gốc, ngay cả khi việc thanh toán chậm được thực hiện trong thời gian ân hạn. Việc hoán đổi nợ xảy ra trong đó Quốc gia phát hành trái phiếu đề nghị người nắm giữ trái phiếu một khoản nợ mới, hoặc một gói chứng khoán mới tương đương nghĩa vụ tài chính giảm bớt, như là những công cụ nợ mới. Việc hoán đổi nợ có mục đích rõ ràng là giúp quốc gia đi vay tránh khả năng vỡ nợ. Đối với trái phiếu, tín phiếu, hối phiếu được phát hành bằng nội tệ hoặc ngoại tệ, mỗi khoản nợ của bên phát hành được coi là không có khả năng chi trả (vỡ nợ) khi việc thanh toán nợ hàng năm theo lịch trình không được thực hiện vào ngày đáo hạn, hoặc khi đề nghị hoán đổi khoản nợ mới bao hàm những điều kiện kém thuận lợi hơn so với việc phát hành ban đầu. Ngoài ra, có nhiều khoản vay ngân hàng được gia hạn cuối cùng bị chiết khấu một khoản so với giá trị ban đầu. Hay những thỏa thuận khác bao gồm đề nghị hoán đổi nợ, hoán đổi nợ/vốn chủ sở hữu liên quan tới các chương trình tư 8
  9. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 nhân hóa của chính phủ, và/hoặc mua lại bằng tiền mặt. S&P coi các giao dịch này là vỡnợ vì chúng bao gồm những điều kiện kém thuận lợi hơn so với ban đầu. Thứ hai,khủng hoảng nợxảy ra khi có khoản nợ xấu hơn, theo một số nghiên cứu đưa ra, một cuộc khủng hoảng nợ được xếp vào loại này nếu một hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra. - Có khoản nợxấu vềgốc hoặc lãi về nghĩa vụ bên ngoài đối với các chủ nợ thương mại (ngân hàng hoặc người nắm giữ trái phiếu) lớn hơn 5% tổng dư nợ thương mại. - Có thoả thuận gia hạn hoặc cơ cấu lại nợ với các chủ nợ thương mại được liệt kê trong Báo cáo Tài chính Phát triển của ngân hàng Thế giới. Nếu xác định theo tiêu chí này thì đã có khoảng 54 cuộc khủng hoảng nợ xảy ra. Các cuộc khủng hoảng này có xu hướng tập trung vào những năm 1980, khi hầu hết các nước Mỹ La tinh và một số nước Châu phi và không thể thanh toán các khoản vay ngân hàng quá mức của họ trong những năm 1970. Thứ ba,khủng hoảng nợ xảy ra khi có khoản vay quy mô lớn từ IMF, một quốc gia đang trải qua một cuộc khủng hoảng nợ nếu: - Nó được xếp vào trường hợp vỡ nợ như trong định nghĩa ở bên trên của S&P, hoặc. - Nó nhận được một khoản cho vay lớn (có điều kiện) vượt quá 100% hạn mức ấn định trước từ IMF. Như đã đề cấp ở bên trên, S&P đánh giá một quốc gia phát hành bịvỡnợ nếu chính phủ không đáp ứng một khoản thanh toán gốc hoặc lãi vào ngày đáo hạn (bao gồm cả đềnghị hoán đổi nợ, hoán đổi nợ/vốn chủsởhữu liên quan tới các chương trình tư nhân hoá của chính phủ, và/hoặc mua lại bằng tiền mặt). Đối với Manasse, Roubini và Schimmelpfennig, cuộc khủng hoảng nợ không chỉ bao gồm các trường hợp nợ vỡ hoàn toàn hoặc bắt buộc tái cơ cấu, mà còn cả trường hợp gần như vỡnợ nhưng tránh được nhờ gói hỗ trợ chính thức có quy mô lớn của IMF. Trong các quan niệm trên thì quan niệm thứ 3 được IMF và các tổ chức quốc tế khác trên thếgiới sử dụng phổbiến nhất. Tựu chung lại, khủng hoảng nợ là tình trạng một quốc gia không thể chi trả được các khoản nợ của mình, phải đề nghị thương thảo lại về các thỏa thuận vay nợ, hoàn trả gốc và/hoặc lãi, và phải nhận một khoản tài trợ chính thức có quy mô lớn từ IMF. 9
  10. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 1.1.2.2. Nguyên nhân, dấu hiệu nhận diện khủng hoảng nợ công a) Dấu hiệu nhận diện Hyman minsky(1919-1996) nhà kinh tế học người Mỹ- người được cho làtheo chủ nghĩa kinh tế Keynes điển hình đã nỗ lực nghiên cứu nhằm đưa ra giải thích đặc thù của khủng hoảng tài chính. Hyman cho rằng khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ sự yếu kém trong nội tại tài chính của bất kỳ một quốc gia nào. Sựyếu kém này tăng dần cấp độtheo chu kỳkinh doanh. Sau một cuộc suy thoái kinh tế, hầu như các doanh nghiệp mất mát lượng lớn tài chính. Khi nền kinh tế trở lại tăng trưởng, lợi nhuận kỳ vọng tăng theo, các doanh nghiệp có xu hướng đặt niềm tin cho phép mình tiến hành đầu tư tài chính. Ngay thời điểm này, họ đều nhận thấy lợi nhuận kỳ vọng này sẽ khó trang trải cho phần lãi vay.Tuy nhiên, tất cả đều lạc quan rằng, mức lợi nhuận kỳ vọng sẽ tăng và việc trang trải nợ nần không phải là một vấn đề quá nan giải. Luồng tiền đưa vào đầu tư càng nhiều, nền kinh tế càng tăng trưởng. Bản than những tổ chức tín dụng cũng tin tưởng rằng khoản tiền của họ sẽ thu hồi được đến mức thực hiện được việc giải ngân tín dụng mà không đòi hỏi nhiều thế chấp đảm bảo. Những tổ chức này hy vọng rằng ngoài các khoản tín dụng, mà họ cung ứng, các doanh nghiệp có thể tự tìm kiếm tương tự ở đâu đó. Như vậy, trong nội tại nền kinh tế đang chứa đựng lượng lớn tín dụng mang tính rủi ro, khóthu hồi. Một khi những tổ chức tín dụng nhận thấy vấn đề này, luồng tiền cho vay lập tức bị chặn đứng. Tất yếu một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ sẽ xảy ra. Thành phần chính của các cuộc khủng hoảng tài chính là các thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng có vai trò chính yếu trong các giao dịch tài chính. Nó đưa người vay tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là mầm mống cho những kỳ vọng xấu của người cho vay về người đi vay. Thông tin bất cân xứng khiến cho người đi vay và người gửi tiền khó khăn trong việc phân biệt giữa vấn đề thanh khoản và tình trạng mất khả năng thanh toán, qua đó dẫn đến việc người sở hữu bán đi những tài sản bằng ngoại tệ của nước gặp khó khăn. Vì vậy, để hạn chế những thông tin bất cân xứng thì hai bên đi vay và cho vay cần có càng nhiều về nhau càng tốt thông qua những câu hỏi và người cho vay hỏi người đi vay để tránh sự lựa chọn bất lợi cho nhà đầu tư. Tóm lại, dấu hiệu của khủng hoảng tài chính bao gồm: Các ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền của người gửi tiền. 10
  11. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại Acũng không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng. Một cuộc khủng hoảng tài chính có thể xuất hiện một hoặc hội tụ cả hai dấu hiệu trên. b) Nguyên nhân Về bản chất, các cuộc khủng hoảng nợ công là cuộc khủng hoảng xảy ra trong lĩnh vực tài chính, và là ngòi nổ cho sự bùng phát khủng hoảng tài chính sau này. Do đó, có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công mang những đặc điểm chung nhất và cũng có thể bị gây ra do một số nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính. Bất kỳ một quốc gia nào cũng đứng trước nguy cơ hứng chịu một cuộc khủng hoảng tài chính bởi quy luật của phát triển. Khi nền kinh tế phát triển lên đến đỉnh điểm ắt sau đó nó sẽ rơi vào tình trạng trì trệ. Cuộc khủng hoảng nợ công vừa xảy ra tại Hy Lạp là minh chứng cho việc các quốc gia phát triển cũng không thể coi thường khủng hoảng. Các nguyên nhân của khủng hoảng tài chính bao gồm: Thứ nhất, nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém, chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp. Đánh giá qua các cuộc khủng hoảng thì thấy chính sách kinh tếvĩ mô của nhiều nước bị khủng hoảng không phù hợp, các quốc gia này cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư ồ ạt vào đầu cơ tích trữ. Trong khi đó, giá trị của đồng nội tệ lại thấp hơn so với đồng USD. Về vấn này đã được trình bày trong lý thuyết về “bộ ba chính sách bất khả thi”. Lý thuyết về “Bộ ba chính sách bất khả thi” phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô:  Ổn định tỷ giá  Tự do hóa dòng vốn  Chính sách tiền tệ độc lập “Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong 3. Một kiểu khác của lý thuyết bộ ba bất khả thi rất được chú ý - với một chính sách ổn định tỷ giá hoàn hảo, với một tài khoản vốn mở (không bị kiểm soát) hoàn hảo, nhưng một quốc gia vẫn hoàn toàn không thể tự chủ chính sách tiền tệ. Những ví dụ lặp lại trên thế giới cho thấy ở những nơi và thời điểm mà tài khoản vốn bắt đầu được tự do, thì cùng lúc xuất hiện một chính sách tỷ giá cứng nhắc hơn và sự tự chủ về chính sách tiền tệ cũng giảm đi. Song song với sự phát triển thương mại và dịch vụ trong thế giới hiện đại, kiểm soát vốn rất dễ bị lãng quên. Thêm nữa, vấn đề kiểm soát vốn còn thể hiện 11
  12. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 những thay đổi của quốc gia không đúng thực tế. Do vậy rất khó để một quốc gia có được một hệ thống kiểm soát vốn thật sự hiệu quả. Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều kiện ngày nay, một quốc gia phải lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định. Nó không thể có đồng thời cả hai. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Thứ hai, hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém Hệ thống ngân hàng yếu kém về quản lý đã để các dòng vốn đầu tư vào quốc gia một cách ồ ạt và thường xuyên phát sinh các khoản nợ khó đòi. Chính phủ các nước chưa có can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các công ty tài chính nhằm hướng các hoạt động của ngân hàng vào hỗ trợ cho chính sách phát triển kinh tế, dẫn tới việc quản lý tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu tư quá mức khiến cho hiệu quả kinh tế thấp. Bản thân các ngân hàng chậm trễ trong việc đổi mới hoạt động và bảo thủ trong việc hiện đại hoá các hoạt động nghiệp vụ của mình. Các ngân hàng phụthuộc rất lớn vào sự trợ giúp của chính phủ. Thứ ba, chính sách tỷ giá hối đoái được duy trì cứng nhắc Các nước bị khủng hoảng trong một thời gian tương đối dài đã duy trì tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc theo USD. Điều này tỏ ra không có lợi trong những năm gần đây khi nền kinh tế Mỹ phát triển bất ổn định, USD lên giá so với Yên nhật, giá trị đồng tiền của nước này đã bị đánh giá cao từ 20%-30% so với USD dẫn đến xuất khẩu trì trệ và kích thích nhập khẩu. Chính sách tỷ giá cố định buộc các nước này phải duy trì lãi suất cao khiến cho luồng vốn vay nước ngoài tăng nhanh và khi có sự biến động về tỷ giá thì các dòng vốn sẽ lập tức rút ra. Bên cạnh đó, do duy trì tỷ giá hối đoái cố định đòi hỏi phải tiêu tốn một lượng ngoại tệ lớn khi thực lực tài chính của nhà nước còn yếu nên khả năng chống đỡcuộc khủng hoảng không hiệu quả. Thứ tư, năng lực xử lý khủng hoảng yếu kém Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước phải thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nỗi cạn kiệt dự trữ ngoại hối Nhà Nước mà lại càng làm cho sự tấn công của luồng vốn từ ngoài chảy vào để đầu cơ thêm kéo dài. 12
  13. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Thứ năm, nền kinh tế phát triển hướng ngoại quá lệ thuộc vào nước ngoài. Các nước bị khủng hoảng đều thực hiện chính sách công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, về cơ bản là đúng đắn xong về cơ cấu xuất khẩu lại quá nghèo nàn. Trong khi đó thị trường thế giới về các mặt hàng này xuất hiện xu hướng bão hòa do sự cạnh tranh giữa các nước lớn. Điều này làm cho xuất khẩu của các nước bị sụt giảm, dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai, sản xuất trong nước bị đình trệ. Thứ sáu, sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư Sự bất hợp lý trong cơ cấu nhập khẩu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan tài chính nên các nhà đầu tư trong nước đi vay một kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan tài chính nên các nhà đầu tư trong nước đi vay một cách ồ ạt vốn từ bên ngoài. Chính lượng vốn nhập khẩu quá mức này đã tạo nhiều yếu tố tiêu cực cho nền kinh tế và gây khó khăn cho công tác quản lý. Lượng vốn nhập khẩu cao hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai gây ra mối đe doạ về sự mất cân đối vì dẫn đến việc gia tăng tín dụng không hợp lý, thiếu hiệu quả và tăng gánh nặng nợ nần cho quốc gia. Thứ bảy, những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới. Tình hình biến động trên thị trường thế giới góp phần gây ra các khủng hoảng tài chính. Tiêu biểu là sự sụt giảm của thương mại quốc tế và sự tăng vọt của lãi suất toàn cầu. Khi các nước trên thế giới đối mặt với thương mại trì trệ, chính phủ và các công ty phải hứng chịu thua lỗ. Điều này khiến khả năng trả nợ đối với các khoản vay trong và ngoài nước của họ thấp dần. 1.2. Tác động của nợ công tới các biến số kinh tế 1.2.1. Tác động tới tăng trưởng kinh tế Trên một phương diện nào đó, khủng hoảng nợ công là tình trạng ách tắc trong quá trình tài chính công và làm giảm sút chức năng tài chính công. Điều đó chắc chắn khủng khoảng nợ công dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế và làm cho tình hình tài chính quốc gia trở nên yếu đi. Suy giảm kinh tế còn được lý giải là sau khủng hoảng do các hoạt động kinh tế trở nên trầm lắng hơn và suy thoái kinh tế là điều thường thấy. Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sựhỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, “thắt lưng buộc bụng” lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế 13
  14. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích “thực chất” nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng “sức khoẻ” nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia... 1.2.2. Tác động tới lãi suất, đầu tư Khi một quốc gia lâm vào tình trạng vỡ nợ, không thực hiện được các nghĩa vụ nợ (trả nợgốc và lãi…) thì quốc gia sẽ ngay lập tức bị hạ mức tín nhiệm. Việc chính phủ huy động thông qua trái phiếu (hay hình thức vay khác) đều trở nên khó khăn và lãi suất sẽ cao hơn. Khi tín nhiệm trái phiếu quốc tếcủa chính phủ bịsụt hạng, nhất là khi bị khủng hoảng nợ công, chính phủ thiên về huy động vốn từ thị trường trong nước với. Tình trạng lấn át đầu tư có thể dẫn đến khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất và dẫn đến suy giảm kinh tế trong trung hạn. Tình trạng này được lý giải như sau khi chính phủ tăng cường huy động trong nước để tài trợ cho hoạt động của mình (thường là sau khủng hoảng nợ công), chính phủ phải huy động với lãi suất cao và do đó lãi suất thị trường trong nước sẽ giatăng, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thu hẹp đầu tư do không tiếp cận được vốn vì khi đó đầu tư công đã cạnh tranh nguồn vốn của khu vực tư nhân… Khi nợ công, nợ nước ngoài gia tăng, nhất là khi có khủng hoảng nợ công thì chi phí của các khoản vay của khu vực doanh nghiệp sẽ tăng lên cao. Điều này dễ hiểu vì nguyên tắc tính lãi trong cho vay quốc tế thường được tính đến yếu tốrủi ro quốc gia. Khi một quốc gia vỡnợ thường dẫn đến mức bù rủi ro tăng cao, chi phí bảo hiểm khoản vay CDS (credit default Swap rate) tăng, dẫn đến chi phí khoản vay ở khu vực doanh nhiệp gia tăng. Việc đầu tư nhiều, kém hiệu quả, tăng vay nợdẫn đến lấn át đầu tư và khủng hoảng nợ công. Tuy nhiên, trên phương diện trung hạn, sau các cuộckhủng 14
  15. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 hoảng nợ công là một chu kỳ tăng cường huy động mới mạnh mẽ hơn để trang trải cho các khoản cứu trợ từ cộng đồng quốc tế. Và điều đó có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân, lãi suất cao do chính phủ tăng huy động hoặc tăng thuế để tận thu đảm bảo nguồn trả nợ. 1.2.3. Tác động tới lạm phát, tỷ giá Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tình trạng tài chính quốc gia, khả năng trả nợ quốc gia là chỉ số rất quan trọng đảm bảo về lòng tin của cộng đồng với đồng tiền nội tệ. Thực tế chỉ ra rằng khủng hoảng nợ công thường kéo theo hoặc đi kèm khủng hoảng tiền tệ ngân hàng. Trong ngăn hạn, sự gia tăng GDP sẽ kéo theo sự thay đổi của các biến số kinh tế khác. Trước hết, khi GDP tăng, cầu tiền tệ tăng lên. Nếu cung tiền tệ không thay đổi, sự gia tăng cầu tiền tệ sẽ khiến lãi suất tăng dẫn tới đồng nội tệ tăng giá, điều này dẫn tới nhập siêu, khuyến khích nhập khẩu cản trở xuất khẩu. Trong dài hạn cả lạm phát và lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo cũng sự gia tăng của cung tiền. Hiện tượng này thương thấy ở các nước đang phát triển do nguồn thu từ thuế còn hạn chế trong khi nhu cầu chi tiêu của chính phủ lại lớn. Hơn nữa, tại các nước đang phát triển, thị trường tài chính còn trong giai đoạn phát triển nên các chính phủ vay nợ ít trên thị trường và sử dụng biện pháp in tiền để tài trợ cho các khoản chi của mình. Trong lịch sử, nhiều nước đã thực hiện biện pháp in tiền đẻ tài trợ cho thâm hụt ngân sách và dẫn đến lạm phát phi mã (như Việt Nam nhưng năm cuối thập kỷ 1980), và siêu lạm phát như tại Đức những năm 1920. Tại các nước phát triển in tiền để tài trợ cho chi tiêu chính phủ cũng xảy ra, nhưng thường là trong giai đoạn chiến tranh, khi nhu cầu chi tiêu và các khoản nợ của chính phủ quá lớn, trong thời bình phần lớn các chính phủ chọn cách vạy nợ trên thị trường vốn thông qua phát hành trái phiếu để tài trợ cho các khoản chi tiêu. Việc tăng nợ công còn tác động tới lạm phát thông qua kênh khác. Khi các hộ gia đình nắm giữ nhiều trái phiếu chính phủ hơn, họ sẽ cảm thấy giàu hơn dẫn tới việc chi tiêu nhiều hơn. 15
  16. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI KHU VỰC CHÂU ÂU TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công tại một số nước Châu Âu 2.1.1. Hy Lạp Hy Lạp vốn là nước có lịch sử với nhiều rắc rối về tài khóa. Khi trở thành nước thành viên thứ 12 của Liên minh Châu Âu, nợ chính phủ của nước này đã ở mức hơn 100% GDP. Nhiều nước thành viên đã lo ngại những vấn đề tài khóa của Hy Lạp có thể gây tổn hại tới đồng tiền chung của cả khối. Ngược lại, đối với Hy Lạp, việc trở thành thành viên của Liên minh Châu Âu mang lại rất nhiều điều kiện thuận lợi. Gia nhập khu vực đồng tiền chung Châu Âu năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế do thị trường trái phiếu không còn phải lo ngại về mức lạm phát cao hay việc phá giá đồng tiền. Mức lãi suất thấp cũng cho phép Chính phủ Hy Lạp tái tài trợ cho các khoản nợ với các điều kiện thuận lợi hơn. Còn phải kể tới một yếu tố quốc tế khác là xu thế hạ thấp đánh giá rủi ro mất khả năng thanh toán trong giai đoạn bùng nổ tín dụng cũng khiến Hy Lạp dễ dàng tiếp cận với các khoản vay dài hạn hơn. Tuy nhiên, Chính phủ Hy Lạp hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ. Từ khi tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu năm 2001 cho đến năm 2008 - khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, ngân sách quốc gia Hy Lạp luôn nằm trong tình trạng thâm hụt với mức trung bình 5% GDP/năm (mức trung bình cho toàn khu vực châu Âu là 2%/năm). Để bù đắp cho khoản thâm hụt này, Hy Lạp đã đi vay trên thị trường vốn quốc tế và trong suốt một thập kỷ trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Chính phủ Hy Lạp đã vay mượn khá nặng nề từ bên ngoài, trở thành một con nợ triền miên với tổng số nợ công lên tới 300 tỷ euro, chiếm 124 % GDP, thâm hụt ngân sách lên tới hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục âm. Cuối năm 2009, mức thâm hụt ngân sách của Hy Lạp lên tới 15,4% GDP – đây là mức cao chưa từng có trong khu vực đồng tiền chung châu Âu. Nợ còn hạn của Hy Lạp lên tới gần 400 tỷ đô la Mỹ, trong đó riêng nợ đến hạn năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la Mỹ. Lãi suất Hy Lạp phải trả cho các khoản vay nợ lên tới mức kỷ lục cao, trên 9% đối với các khoản vay có kỳ hạn. Tháng 3/2011, Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp, nguy cơ vỡ nợ cao: Hy Lạp phải đối mặt với 2 vấn đề thâm hụt cùng một lúc, đó là thâm hụt ngân sách (vượt hơn 13% GDP năm 2010) và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai (trung bình vào khoảng 9% GDP) so với mức trung bình của toàn khu 16
  17. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 vực Eurozone là 1%. Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt là Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP và trần nợ nước ngoài 60% GDP. Không còn bức tranh kinh tế đầy màu hồng và những lời hứa hẹn về chính sách khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, Hy Lạp bán trái phiếu để có tiền cho ngân sách. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 1/2010, lên 9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm vào tháng 7/2011. Nội lực không đủ vực dậy nền kinh tế lớn thứ 27 thế giới, Hy Lạp trở thành mắt xích yếu nhất của eurozone. Châu Âu không thể để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đổ vỡ hệ thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền chung và kéo theo nhiều quốc gia khác rơi vào hiệu ứng domino. Châu Âu có thể cứu được Hy Lạp với thỏa thuận hoán đổi nợ kỷ lục, với những gói cứu trợ lên tới hàng trăm tỷ EUR, nhưng Hy Lạp không còn là vấn đề duy nhất của khu vực này. Cơn hỗn loạn tài chính đã lan đến Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Italy.Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Sự phụ thuộc quá nhiều của Hy Lạp vào nguồn tài trợ nước ngoài đã khiến cho nền kinh tế nước này trở nên dễ tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư.Hy Lạp chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các quốc gia thành viên Eurozone. Bộ trưởng Tài chính các nước Eurozone đã quyết định hỗ trợ tài chính dành cho Hy Lạp với mức hỗ trợ 110 tỷ euro trong vòng 3 năm 2011-2013 (lãi suất ưu đãi là 5%), trong đó các nước thuộc Eurozone bỏ ra 80 tỷ euro và 30 tỷ còn lại là IMF cho vay. Đổi lại, Hy Lạp phải cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 11% GDP (2011) và xuống dưới mức quy định 3% của EU vào năm 2013. Khủng hoảng nợ Hy Lạp là một cảnh báo cho các quốc gia về bội chi ngân sách và việc sử dụng các khoản nợ công. Vấn đề đặt ra không phải là nợ bao nhiêu phần trăm GDP mà các khoản vay nợ đó được dùng vào mục đích gì? hiệu quả đạt được ra sao? khả năng trả nợ thế nào? Cuộc khủng hoảng nợ sẽ làm chậm lại đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và đặc biệt là kinh tế châu ÂuDo đó, vấn đề đặt ra là phải luôn ý thức và kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế đất nước. 17
  18. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng rẻ từ khi gia nhập Eurozone đã khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên mất những nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ. 2.1.2. Tây Ban Nha Sau khi những vấn đề tài chính của Hy Lạp tạm thời được giải quyết, nay đến lượt nền kinh tế lớn hơn trong khu vực đồng euro là Tây Ban Nha trở thành tâm điểm chú ý. Lãi suất trái phiếu của nước này gần đây tăng mạnh, xuất phát từ lo ngại của các nhà đầu tư về vấn đề tình hình tài chính của nền kinh tế lớn thứ tư trong khu vực. Cuộc khủng hoảng nợ công tại Eurozone đã dịu đi đáng kể trong quý I/2012, một phần nhờ các chương trình tái cấp vốn dài hạn của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cuối năm 2011 và đầu năm 2012. Việc ECB bơm hơn 1 nghìn tỷ euro (1,3 nghìn tỷ USD) các khoản vay lãi suất thấp vào hệ thống ngân hàng khu vực đã khuyến khích các ngân hàng mua trái phiếu chính phủ của các nước đang gặp khó khăn về tài chính như Tây Ban Nha, giúp lãi suất trái phiếu của nước này giảm. Bên cạnh đó, chương trình hoán đổi nợ của Hy Lạp được tiến hành thành công đã mang lại động lực cho các thị trường tài chính. Các thị trường chứng khoán tại các nước phát triển trong quý I/2012 tăng trưởng mạnh nhất trong nhiều năm qua, tâm lý đầu tư, niềm tin người tiêu dùng và doanh nghiệp đã được cải thiện. Tuy nhiên, tác dụng về mặt tâm lý của dòng vốn lãi suất thấp mà ECB bơm vào hệ thống ngân hàng khu vực dần mất đi, thị trường trái phiếu lại trở nên căng thẳng, đặc biệt là sau khi Chính phủ Tây Ban Nha nâng chỉ tiêu thâm hụt ngân sách năm 2012 lên 5,8% GDP, cao hơn so với cam kết đưa ra trước đó là 4,4% GDP. Mặc dù chính phủ nước này sau đó đã hạ mục tiêu xuống 5,3% GDP cũng như tỏ rõ quyết tâm thực hiện các biện pháp khắc khổ để đạt mục tiêu này, song bất kể một tin xấu nào như khó khăn tài chính tại các ngân hàng lớn, tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục tăng cao đều có thể khiến Tây Ban Nha khó có khả năng, thậm chí không thể, tiếp tục tự huy động vốn trên các thị trường. Tây Ban Nha sau đó khiến thị trường chú ý hơn nữa khi công bố dự thảo ngân sách, trong đó dự kiến nợ công sẽ tăng lên đến 80% GDP trong năm 2012, tăng mạnh so với mức 68,5% GDP trong năm 2011 và là mức cao nhất kể từ năm 1990. 18
  19. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Trong bối cảnh này, khả năng tài chính của Tây Ban Nha sẽ phụ thuộc rất lớn vào việc vay mượn tiền từ các nhà đầu tư với mức lãi suất chấp nhận được. Để giúp Tây Ban Nha, các nước thành viên Eurozone có thể cam kết đền bù cho các nhà đầu tư trong đợt lỗ đầu tiên đối với số trái phiếu của nước này. Tây Ban Nha có thể sẽ yêu cầu các khoản vay từ quỹ cứu trợ của khu vực khi phải cứu trợ các ngân hàng. Tuy nhiên, với khả năng hạn chế của quỹ cứu trợ, nhiều nhà phân tích cho rằng ECB là thiết chế duy nhất có khả năng cứu các nền kinh tế lớn như Tây Ban Nha bằng cách mua hàng trăm tỷ euro trái phiếu của Tây Ban Nha từ các ngân hàng và các thị trường thứ cấp, giúp hạ mức lãi suất mà nước này phải trả. Tuy nhiên, ECB vẫn cho rằng sự can thiệp quy mô lớn như vậy sẽ là vi phạm hiệp ước của EU. Trong khi đó, quy mô "bức tường lửa" của Eurozone dù đã được nâng lên 800 tỷ euro (1,05 nghìn tỷ USD) để có thể hỗ trợ các nước thành viên không thể huy động tiền từ thị trường nhưng vẫn được cho là không đủ để giải cứu Tây Ban Nha nếu cần. Với một nền kinh tế có quy mô 1,1 nghìn tỷ euro (1,45 nghìn tỷ USD) - lớn gấp đôi tổng quy mô nền kinh tế của ba nạn nhân trước đó của cuộc khủng hoảng là Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ailen, việc cứu trợ Tây Ban Nha sẽ đòi hỏi hai nền kinh tế đầu tàu khu vực là Đức và Pháp phải cấp vốn nhiều hơn nữa. Điều này sẽ đẩy cuộc khủng hoảng nợ vào một giai đoạn nguy hiểm hơn, khi cũng sẽ nhanh chóng tạo ra các hiệu ứng lây lan tại nền kinh tế trị giá 2,2 nghìn tỷ USD của Italia. Ngược lại, nếu Tây Ban Nha không được cứu trợ và rơi vào tình trạng vỡ nợ, hậu quả có thể là sự tan rã của Eurozone. 2.1.3. Ai Len Tình trạng khủng hoảng nợ công của Ai Len bắt nguồn từ việc chính phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng. Trong thời gian qua, các vấn đề về khủng hoảng nợ của châu Âu được quan tâm nhiều trở lại sau khi Ai Len phải cầu cứu Liên hiệp châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) để tìm kiếm một khoản vay từ 80-90 tỉ EUR hoặc có thể cao hơn nữa tùy theo thỏa thuận của các bên. 19
  20. Đề án Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ Đỗ Như Sơn – CQ523072 Đồ thị 2.1. Nợ chính phủ/GDP năm 2009 của những nước đang được xem là có thể cần được giải cứu Nguồn: Eurostat Trong khi đó, quản lý nợ công của Ai Len tương đối khá hơn với mức nợ chính phủ trên GDP chỉ gần 70%. Các ngân hàng của Ai Len ngày càng phải gánh nhiều nợ xấu sau khi đã tăng cho vay quá mạnh trong thời kỳ kinh tế nước này tăng trưởng mạnh và bong bóng bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản sụp đổ, nhiều phần trong các khoản cho vay bất động sản trở thành nợ xấu và các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ. Chính phủ phải bỏ tiền ra cứu trợ ngành ngân hàng, bao gồm quốc hữu hóa ngân hàng và chi tiền để tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước. Nên mức thâm hụt ngân sách của Ai Len gần đây tăng mạnh không kém Hy Lạp. Tương tự như trường hợp của Mỹ, Chính phủ Ai Len buộc phải cứu hệ thống ngân hàng theo cách riêng của mình, đó là tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA (National Asset Management Agency) vào năm 2009 để nhận hầu hết tất cả các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn của Ai Len. Điều này chỉ có thể xảy ra khi thị trường nhà hồi phục, nếu không, bản thân NAMA sẽ tiếp tục cần cứu giúp để có thể tồn tại và tiền cứu giúp lại sẽ phải đến từ ngân sách. Trước sau gì thì cách thức dùng tiền chính phủ để duy trì các tài sản ngày càng xuống giá trong nền kinh tế và bơm vốn để vực dậy khu vực ngân hàng của Ai Len cũng sẽ buộc nước này phải liên tục đi vay mượn và chấp nhận thâm hụt ngân sách cho đến khi họ không còn khả năng chi trả nữa và phải đến cầu viện nước ngoài. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2