intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

207
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra một trang sử mới trong phát triển kinh tế xã - hội của đất nước. WTO mở ra nhiều cơ hội mới để cả nền kinh tế nước ta cũng như mỗi doanh nghiệp thu hút thêm sức mạnh để tăng năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững. Trong xu hướng tích cực chủ động hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông nói riêng cần phải đón...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra một trang sử mới trong phát triển kinh tế xã - hội của đất nước. WTO mở ra nhiều cơ hội mới để cả nền kinh tế nước ta cũng như mỗi doanh nghiệp thu hút thêm sức mạnh để tăng năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững. Trong xu hướng tích cực chủ động hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông nói riêng cần phải đón đầu nắm bắt những cơ hội và hạn chế, khắc phục các tác động tiêu cực - coi đó như là những thách thức cần phải vượt qua. Vấn đề cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông (XDCTGT) Việt Nam hiện nay là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững trong điều kiện thị trường có sự tham gia của các tập đoàn quốc tế đổ bộ vào Việt Nam, thời hậu WTO. Trên cả thị trường trong nước và quốc tế, năng lực cạnh tranh hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam được đánh giá là còn thấp. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó là do năng lực tài chính của các doanh nghiệp XDCTGT còn rất khiêm tốn, đã hạn chế các doanh nghiệp trong việc tập trung vốn đầu tư, nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý và điều hành, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, đổi mới công nghệ, sử dụng nhân lực và các nhu cầu phát triển khác của doanh nghiệp. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp XDCTGT là một tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu không làm được điều này, doanh nghiệp không chỉ thất bại trên "sân khách" mà còn gánh chịu những hậu quả t ương tự trên "sân nhà". Xuất phát từ thực tế trên, việc tìm giải pháp tài chính để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp x XDCTGT Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay là yêu cầu rất thiết thực và cấp bách. Đó chính là lý do tác giả nghiên cứu đề tài: "Giải pháp
  3. tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông". 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Nghiên cứu khả năng cạnh tranh, các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và vai trò của tài chính trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. Phân tích các đặc điểm của doanh nghiệp XDCTGT và đặc điểm của sản phẩm XDCTGT ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. - Đánh giá thực trạng tình hình tài chính, thực trạng về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT trong hoạt động kinh doanh từ đó đề xuất các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT trong điều kiện hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh và các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Năng lực cạnh tranh và việc sử dụng các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT là vấn đề rất rộng lớn. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tế ở các doanh nghiệp XDCTGT Nhà nước trong lĩnh vực cầu, đường bộ. Đánh giá khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT, ngoài việc đánh giá chung, luận văn tiến hành khảo sát, phân tích số liệu ở một số doanh nghiệp cụ thể từ năm 2004 đến nay - đây cũng là thời kỳ mà khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đặt ra bức thiết nhất. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4.
  4. Hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường của các thành phần kinh tế ngày càng gay gắt và khốc liệt. Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng là một nội dung cần được quan tâm. Vấn đề này đã và đang trở thành vấn đề có tính thời sự được Chính phủ, cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm. Do vậy những nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh, nhân tố ảnh hưởng, các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh và vai trò của tài chính đối với năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. Đồng thời, về thực tiễn luận văn đã đánh giá thực trạng và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng cầu đường bộ - Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp tài chính cụ thể nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT - đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay. Kết cấu của luận văn 5. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Doanh nghiệp XDCTGT và vai trò của tài chính đối với năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. Chương 2: Thực trạng tài chính và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. Chương 3: Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT.
  5. Chương 1 Doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và vai trò của tài chính đối với năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 1.1. doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng là một hệ thống phức tạp và đa dạng cả về số lượng lao động, cả về chuyên môn hay kết quả sản xuất, lẫn công nghệ sử dụng. Sự tiến triển của thị trường, các hình thức cạnh tranh mới, các công nghệ sản xuất mới xuất hiện thúc đẩy doanh nghiệp phải tự thích ứng, phải trở nên mềm dẻo hơn. Dưới áp lực của nhiều ràng buộc cả từ bên ngoài (Nhà nước, nhà cung cấp, khách hàng, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp khác...) lẫn từ bên trong, doanh nghiệp phải quyết đoán để có thể tồn tại và phát triển. 1.1.1. Doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và các mối quan hệ trong kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Trừ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động công ích, doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nói chung có thể được hiểu là một tổ chức kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời, được luật pháp thừa nhận (pháp nhân hoặc thể nhân), được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định, có mức vốn không thấp hơn mức vốn pháp định do Nhà nước quy định cho từng loại hình doanh nghiệp có từ một chủ sở hữu trở lên, và chủ sở hữu phải đảm bảo trước pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình (trách nhiệm vô hạn hoặc trách nhiệm hữu hạn), có tên gọi riêng và hoạt động với doanh nghiệp riêng.
  6. Doanh nghiệp XDCTGT là một dạng doanh nghiệp mà chức năng chính của nó là sản xuất các sản phẩm xây lắp, xây dựng các công trình giao thông phục vụ giao lưu kinh tế trong xã hội. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp XDCTGT luôn diễn ra trong một môi trường kinh tế - xã hội với những mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau của nhiều chủ thể kinh tế - xã hội khác nhau. Riêng trong phạm vi các quan hệ kinh tế có thể phân thành hai nhóm quan hệ: Nhóm các quan hệ kinh tế bên trong doanh nghiệp và nhóm các quan hệ kinh tế bên ngoài doanh nghiệp. Nhóm các mối quan hệ kinh tế bên ngoài doanh nghiệp gồm: Các mối quan hệ với ngân sách nhà nước, với cấp trên, với chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn xây dựng, các tổ chức cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tín dụng và với thị trường trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp XDCTGT. M «i tr­ ê ng s i nh th¸ Các chủ M «i tr­ ê i ngc C¸ c chñ ® u t­ «n Ç gn đầu tư gh M«i tr­ ê Ö ng y tÕ M«i tr­ ê Các cc c¬ quan ơ quan ng x C¸ Các tổ c tæchøc C¸ chức ·h éi tư vấn, thiết kế t­ vên,thiÕ kÕ t cung cung cêp vËt t­ ứng vật dịchch vô dÞvụ m¸ mãc tư máyymóc x© dùng y xây©ựng x d dùng y xây dựng Doanh nghiệp p Doanh nghiÖ XX D giao th«ng DCTGT Nh÷ng ng­ êi Nhµ n­ í c l ao ®éng X D CTGT C¸ c tæchøc C¸ c ® thñ èi cung cÊ tiÒ pn c¹ nh tranh vµ vèn cho x© dùng y Hình 1.1: Mối quan hệ và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp XDCTGT
  7. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn, thiết kế, dịch vụ diễn ra chủ yếu thông qua đấu thầu, ký kết hợp đồng, thanh toán và bàn giao công trình đã hoàn thành. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức cung cấp vật tư, thiết bị, máy móc xây dựng là quan hệ mua bán tại cửa hàng hay theo bản hợp đồng cung cấp. Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước là những quan hệ về cấp phát vốn, các khoản thuế, lệ phí. Những quan hệ này được giới hạn trong khuôn khổ do luật định. Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các nhà đầu tư cho vay, với bạn hàng, với khách hàng... phát sinh khi doanh nghiệp tiến hành các nghiệp vụ huy động vốn đầu tư qua liên doanh, qua phát hành cổ phiếu, qua vay tín dụng... và ngược lại cũng liên doanh, đầu tư cho vay vốn với các doanh nghiệp khác... Các quan hệ kinh tế này luôn bị chi phối bởi các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... và sự điều chỉnh của pháp luật của Nhà nước. Xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong cơ chế kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế này của doanh nghiệp hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu coi nhẹ, không nắm bắt và thiếu hiểu biết về nó thì cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể đạt tới đỉnh cao. Nhóm các quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp: Đó là những mối quan hệ về sản xuất - kỹ thuật - phân phối - tài chính và quan hệ hạch toán kinh tế giữa doanh nghiệp với các bộ phận trong doanh nghiệp, giữa các bộ phận với nhau và giữa doanh nghiệp, các bộ phận với người lao động nẩy sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.2. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp XDCTGT có các nhiệm vụ chung sau đây:
  8. - Hoạt động sản xuất kinh doanh xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường GTVT về xây dựng các tuyến đường, các cây cầu, nhà ga, bến cảng... trực tiếp hay gián tiếp phục vụ cho quá trình vận chuyển hàng hóa, hành khách, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu vận chuyển không ngừng tăng lên của nền kinh tế và nhu cầu đi lại của nhân dân. - Thực hiện đầy đủ các cam kết với khách hàng về sản phẩm, dịch vụ. Giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. - Chăm lo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp. - Bảo toàn và tăng trưởng vốn, mở rộng quy mô kinh doanh. - Bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội. - Chấp hành luật pháp, thực hiện chế độ hạch toán thống kê thống nhất và có nghĩa vụ đối với Nhà nước. 1.1.3. Hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong nền kinh tế thị trường Hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp XDCTGT là xây dựng các công trình giao thông vận tải. Hoạt động ấy được tiến hành theo một số giai đoạn kế tiếp và có quan hệ mật thiết với nhau đó là: Nghiên cứu thị trường - chuẩn bị các yếu tố đầu vào - sản xuất - tiêu thụ. Nội dung cụ thể của từng giai đoạn đó là: * Giai đoạn nghiên cứu thị trường Thị trường theo nghĩa đen là nơi mua bán hàng hóa. Theo nghĩa rộng thị trường là nơi hay còn là một quá trình trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa cần mua bán. Trong XDCTGT thị trường tồn tại chủ yếu dưới dạng đấu thầu, đàm phán và một số hình thức khác. Hai lực lượng cung và cầu đóng vai trò chủ yếu trong thị trường sản xuất XDCTGT là các doanh nghiệp XDCTGT (bên cung) và các chủ đầu tư (bên cầu). Các
  9. doanh nghiệp XDCTGT có nhiệm vụ dùng năng lực sản xuất của mình để xây dựng các công trình theo nhu cầu và đơn đặt hàng (hợp đồng) của chủ đầu tư. Tham gia vào thị trường XDCTGT còn có các tổ chức dịch vụ, tư vấn, thiết kế đóng vai trò cung cho các chủ đầu tư và các tổ chức cung cấp máy móc thiết bị, vật tư dịch vụ đóng vai trò cung cho các doanh nghiệp XDCTGT. Khi nghiên cứu thị trường XDCTGT cần chú ý đặc điểm sau: - Vì sản phẩm XDCTGT có tính chất cá biệt cao, giá trị lớn, chúng được sản xuất theo đơn đặt hàng cho nên không thể sản xuất hàng loạt, không có thời gian lưu kho, chưa được xây dựng khi chưa có đơn đặt hàng và chào hàng. - Quá trình mua bán xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn sản xuất (tức giai đoạn xây dựng công trình) thông qua việc đấu thầu và ký kết hợp đồng xây dựng và còn tiếp diễn thông qua các đợt thanh toán trung gian cho đến khi bàn giao công trình và quyết toán cuối cùng. - Việc tiêu thụ sản phẩm XDCTGT được tiến hành trực tiếp giữa người bán (doanh nghiệp XDCTGT) và người mua (chủ đầu tư) không qua khâu trung gian. - Quy luật cạnh tranh trong thị trường XDCTGT xảy ra phổ biến dưới hình thức đấu thầu. - Thị trường XDCTGT phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường đầu tư và định hướng phát triển của ngành, của đất nước. - Trong XDCTGT không có giá cả thống nhất cho một công trình toàn vẹn. - Marketing trong XDCTGT được tiến hành cá biệt cho từng trường hợp tranh thầu. Quảng cáo tiến hành chủ yếu thông qua các thành tích đã đạt được của doanh nghiệp trong việc xây dựng các công trình. - Vai trò của Nhà nước đối với XDCTGT lớn hơn so với ngành khác vì XDCTGT có liên quan đến vấn đề sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường và nguồn vốn đầu tư của Nhà nước.
  10. * Giai đoạn chuẩn bị các yếu tố đầu vào - Yếu tố lao động, bao gồm số lượng và chất lượng lao động trong XDCTGT, trình độ tổ chức lao động khoa học, các biện pháp động viên, kích thích lao động. - Yếu tố tư liệu lao động, bao gồm các thiết bị, máy móc, nhà xưởng phục vụ cho XDCTGT. - Yếu tố đối tượng lao động, bao gồm vật liệu xây dựng, kết cấu xây dựng,... - Vốn cho xây dựng, bao gồm vốn cố định, vốn lưu động, đất đai, bản quyền sáng chế, phát minh... - Thông tin phục vụ cho quản lý sản xuất và kinh doanh. * Giai đoạn kết hợp các yếu tố đầu vào và tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm * Giai đoạn tổ chức tiêu thụ và thu tiền Bốn giai đoạn kể trên tạo nên nội dung cốt lõi của quá trình sản xuất kinh doanh XDCTGT. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp XDCTGT cần phải chú ý: Một là, áp dụng nhiều biện pháp nhằm rút ngắn thời gian xây dựng, tức là rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh hay rút ngắn thời gian thực hiện các khâu của quá trình kinh doanh. Hai là, nhận dạng đúng từng hình thái thị trường để có cách ứng xử phù hợp. Để có ưu thế trong thị trường xây dựng hoặc có thể thắng thầu xây dựng, các doanh nghiệp XDCTGT cần phải: - Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. - Không ngừng phát triển và hoàn thiện công cụ lao động như máy móc và thiết bị xây dựng... - Hoàn thiện và áp dụng kỹ thuật thi công tiên tiến. - Hoàn thiện và áp dụng công nghệ mới trong XDCTGT.
  11. - Sử dụng vật liệu mới có hiệu quả, áp dụng cấu kiện mới, các cấu kiện đúc sẵn. - Hoàn thiện và hợp lý hóa các phương pháp tổ chức sản xuất xây dựng, đổi mới công nghệ quản lý sản xuất. Ba là, nắm vững môi trường kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện trong những môi trường kinh doanh cụ thể. Để có hiệu quả cao, tối đa hóa lợi nhuận, bí quyết thành công của các nhà doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào khả năng phân tích và sự am hiểu môi trường kinh doanh từ đó hoạch định được chính xác chiến lược kinh doanh và thực hiện chiến lược đó một cách nhất quán, năng động, linh hoạt, không thụ động, cam chịu rủi ro đưa đến một cách ngẫu nhiên. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp XDCTGT bao gồm: thị trường của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất xây dựng (vật tư, máy móc...); thị trường đầu ra tức là thị trường tiêu thụ sản phẩm XDCTGT (các chủ đầu tư); thị trường vốn (bao gồm thị trường chứng khoán, ngân hàng, tín dụng...); thị trường lao động; cơ quan chính quyền và công chúng xã hội. Người ta có thể chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất: Gồm những yếu tố và mối quan hệ mà các doanh nghiệp có thể kiểm soát hoặc làm chủ được thông qua các mối liên hệ chằng chịt trên thị trường. Ví dụ số lượng sản phẩm bao nhiêu, chất lượng ra sao, dùng phương pháp công nghệ kỹ thuật và các nguồn lực sản xuất nào, giá cả và các trung gian phân phối... Nhóm thứ hai: Gồm các yếu tố, những mối liên hệ nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp như các yếu tố chính trị, luật pháp, lạm phát... Doanh nghiệp phải tìm hiểu cặn kẽ để có phương thức xử lý thích hợp, đặc biệt phải tìm hiểu nghiên cứu, nắm vững luật pháp để thực hiện đúng, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật. Bốn là, phải lựa chọn chiến lược sản xuất kinh doanh. Chiến lược sản xuất kinh doanh là phương hướng hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. Nó quy định loại sản phẩm hay dịch vụ doanh nghiệp đảm nhận, quy mô sản xuất
  12. kinh doanh, các nguồn lực sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Việc xác định mục tiêu của chiến lược sản xuất kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thông thường bao gồm: - Lợi nhuận. - Thế lực trong cạnh tranh. - An toàn, tránh những rủi ro. Để thực hiện chiến lược đã hoạch định, đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện một hệ thống các chính sách như: - Chính sách sản phẩm. - Chính sách giá cả. - Chính sách phân phối. - Chính sách giao tiếp, quảng cáo... Cần phải có kế hoạch cụ thể triển khai chiến lược sản xuất kinh doanh. Năm là, Xác định giá trị sản lượng hoàn thành, đạt lợi nhuận cao nhất. Cần phải phân tích các loại chi phí, thu nhập... làm căn cứ tính toán sao cho giá trị sản lượng doanh nghiệp đạt được phải dừng lại ở đơn vị sản phẩm có chi phí cận biên bằng thu nhập cận biên. Nếu ít hơn thì doanh nghiệp sẽ không đạt lợi nhuận tối đa, nếu nhiều hơn thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ. 1.2. Đặc điểm sản phẩm xây dựng công trình giao thông và đặc điểm quy trình sản xuất xây dựng công trình giao thông 1.2.1. Đặc điểm sản phẩm xây dựng công trình giao thông Sản phẩm XDCTGT là các tuyến đường, các cây cầu, nhà ga, bến cảng... trực tiếp hay gián tiếp phục vụ cho quá trình vận chuyển hàng hóa, hành khách. Nó là bộ phận quan trọng của cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo thỏa mãn nhu
  13. cầu vận chuyển không ngừng tăng lên của nền kinh tế quốc dân và nhu cầu đi lại của nhân dân. Sản phẩm XDCTGT có những đặc điểm sau: Sản phẩm XDCTGT cố định tại nơi sản xuất cho nên chịu sự ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, địa chất, thủy lực, thủy văn... nơi công trình đi qua. Vì vậy trước khi thiết kế xây dựng đòi hỏi phải chi ra những khoản tiền để thăm dò, khảo sát thật kỹ lưỡng, đảm bảo cho việc đầu tư đúng mục đích, có hiệu quả cao; Ngân hàng thế giới gọi khoản tiền đó là khoản bảo hiểm để chống lại những quyết định sai lầm. Sản phẩm XDCTGT có khối lượng lớn, thời gian xây dựng dài cho nên chi phí lao động, vật tư, tiền vốn lớn do đó những sai lầm về xây dựng có thể gây nên những lãng phí rất lớn. Vì vậy phải có biện pháp sao cho tiết kiệm được chi phí, giảm tới mức thấp nhất khối lượng xây lắp dở dang tránh ứ đọng vốn. Đồng thời cũng phải xác định nhu cầu vốn sao cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, đồng vốn không bị ứ đọng. Mặt khác để phù hợp với yêu cầu của công việc, quyết toán về tài chính cần phân biệt sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng của XDCTGT. Sản phẩm trung gian có thể là công việc xây dựng, các giai đoạn và đợt xây dựng đã hoàn thành. Sản phẩm cuối cùng là các công trình hay hạng mục công trình hoàn thành. Chính vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp XDCTGT phải có biện pháp thi công dứt điểm từng hạng mục công trình, tránh tình trạng thi công dàn trải gây ứ đọng và thất thoát vốn. Sản phẩm XDCTGT được sản xuất ngoài trời. Đòi hỏi phải có biện pháp tổ chức thi công hợp lý, giảm thời gian ngừng nghỉ do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu đồng thời có biện pháp tổ chức quản lý, cung ứng vật tư đều đặn, kịp thời, đầy đủ... điều đó lại liên quan đến việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất xây dựng. Giảm sự di chuyển, tiết kiệm chi phí. Sản phẩm XDCTGT thường được sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, được sản xuất ra ở những điều kiện, địa điểm khác nhau, chi phí cũng thường khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm.
  14. Sản phẩm XDCTGT tồn tại lâu dài: Đặc điểm này đòi hỏi công trình giao thông phải đảm bảo bền vững về mặt kỹ thuật và mỹ quan kiến trúc. Mặt khác do tồn tại lâu dài cho nên nhiệm vụ sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn, cải tạo và mở rộng là một nhu cầu tất yếu và phải giành một khoản chi phí lớn. Những đặc điểm trên của sản phẩm XDCTGT chi phối tới việc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan như: khảo sát, thiết kế, lựa chọn phương án thi công, kết cấu công trình, điều kiện mặt bằng thi công và cả về phương pháp tổ chức quản lý, tổ chức lao động, xác định nhu cầu vốn và khả năng đáp ứng nhu cầu vốn đó cho nên việc nắm vững những đặc điểm của sản phẩm do mình tạo ra là cần thiết đối với các doanh nghiệp XDCTGT. 1.2.2. Đặc điểm quá trình sản xuất xây dựng công trình giao thông Đặc điểm của sản phẩm XDCTGT tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất xây dựng và tạo nên những đặc điểm riêng của nó. Bao gồm những đặc điểm sau: Điều kiện sản xuất xây dựng trong XDCTGT thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng. Cụ thể trong XDCTGT, con người và công cụ lao động luôn phải thay đổi theo địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp XDCTGT phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, giảm chi phí liên quan đến vận chuyển, lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để tranh thầu xây dựng, chú ý đến nhân tố chi phí vận chuyển khi lập giá tranh thầu. Đặc điểm này cũng đòi hỏi phát triển rộng khắp loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng nh ư dịch vụ cho thuê máy xây dựng, cung ứng vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng... Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) dài: Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của các doanh nghiệp XDCTGT thường bị ứ đọng lâu tại các công trình đang được xây dựng, các doanh nghiệp XDCTGT dễ gặp
  15. phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp XDCTGT phải chú ý đến nhân tố thời gian khi lựa chọn phương án, có chế độ thanh toán và kiểm tra thích hợp. Sản xuất XDCTGT phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu. Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu phải xác định giá cả của sản phẩm trước khi sản phẩm được làm ra và hình thức giao nhận thầu hoặc đấu thầu xây dựng cho từng công trình cụ thể trở nên phổ biến trong sản xuất XDCTGT. Sản xuất XDCTGT phải tiến hành ngoài trời nên chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc năng nhọc. ảnh hưởng của thời tiết thường làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp XDCTGT không được sử dụng điều hòa theo bốn quý, gây khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi dự trữ vật tư nhiều hơn... Đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp XDCTGT phải lập tiến độ thi công hợp lý, áp dụng cơ giới hóa, chú ý đến nhân tố rủi ro vì thời tiết khi tranh thầu, xác định lượng vật tư dự trữ vật tư hợp lý để tránh ứ đọng vốn. Kỹ thuật thi công phức tạp. Đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự tính toán cụ thể. Một là phải bỏ vốn ra để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị thi công; hai là đi thuê của doanh nghiệp khác. Tất cả các đặc điểm trên đã ảnh hưởng đến mọi khâu của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp XDCTGT, kể từ khâu tổ chức dây chuyền công nghệ sản xuất, trình độ kinh doanh, tổ chức cung ứng vật tư, cấu tạo trang bị vốn cố định, chế độ thanh toán, chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm, chính sách đối với lao động, chính sách giá cả,... 1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông hiện nay 1.3.1. Hội nhập quốc tế và sự ảnh hưởng của nó tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông
  16. Thực tế đã chứng minh một nền kinh tế không thể phát triển nếu không hội nhập với cộng đồng kinh tế quốc tế, đặc biệt với những nước đang phát triển như Việt Nam. Hàng hóa của các doanh nghiệp Việt nam phải chịu thuế cao ở nhiều thị trường lớn là một nguyên nhân làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Mặt khác nếu không hội nhập thì khó thu hút được các nhà đầu tư quốc tế sẽ làm nền kinh tế thiếu hụt nguồn vốn đầu tư để phát triển. Cùng với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, nhất là từ sau Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mở đường cho chiến lược phát triển hội nhập và mở cửa, Việt Nam đã và đang ngày càng tham gia tích cực vào quá trình hội nhập. Toàn cầu hóa và khu vực hóa làm cho nền kinh tế Việt Nam bắt đầu vận động theo những hình thái mới: Năm 1992, Việt Nam ký hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại với cộng đồng Châu âu (EU), Nhật Bản và là quan sát viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN); Năm 1995, chính thức gia nhập ASEAN và cam kết trong giai đoạn 1996 - 2006 triển khai thực hiện chương trình của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Năm 1998 là thành viên của Diễn đàn hợp tác Châu á Thái Bình Dương (APEC); Năm 2000 ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Năm 2006, chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới... Tính đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 150 nước và vùng lãnh thổ. Bằng việc cắt giảm thuế quan trong tiến trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đã xóa nhòa ranh giới giữa các quốc gia về mặt kinh tế và đặt các doanh nghiệp trong nước nằm trong một mặt bằng kinh tế chung với các doanh nghiệp nước ngoài. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng phải phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để tồn tại và phát triển không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả ở trong nước. Như vậy, hội nhập chịu sức ép của cả yếu tố chủ quan và khách quan và là một xu thế tất yếu mà cộng đồng doanh nghiệp phải đón nhận và có những giải pháp thích hợp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh. 1.3.2. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông khi tham gia hội nhập
  17. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cho các doanh nghiệp XDCTGT nhiều cơ hội thuận lợi: Thứ nhất, nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam mà tạo ra khả năng giảm thấp chi phí đầu vào, góp phần hạ thấp giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp XDCTGT. Thứ hai, môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện, các quốc gia và các doanh nghiệp có thêm nhiều điều kiện để tiếp nhận nguồn vốn quốc tế với nhiều hình thức đa dạng. Hiện nay, nguồn tài chính lại vẫn đang là điểm nóng đối với các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam, vì vậy, tận dụng được các nguồn vốn vay ưu đãi chính thức, vay thương mại, các nguồn viện trợ của nước ngoài, hoặc qua con đường hợp tác liên doanh, liên kết, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chương trình dự án hỗ trợ phát triển là con đường lựa chọn thích hợp. Thứ ba, nhờ mở cửa thị trường đã góp phần giúp các doanh nghiệp XDCTGT Việt nam tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại của thế giới với giá rẻ hơn hoặc thông qua con đường chuyển giao công nghệ, rút ngắn những bước đi dò dẫm, giảm chi phí trong công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, thông qua nhiều con đường như liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ... các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam có thể tiếp nhận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính mình. Thứ tư, nhờ hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến của thế giới. Một trong những điều kiện để thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa là sự phát triển của công nghệ thông tin - viễn thông. Kết quả của hệ thống thông tin toàn cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở rộng và giao lưu giữa các dòng văn hóa, các dân tộc, tạo điều kiện cho việc tiếp xúc với một thế giới mở, nâng cao năng lực đổi mới và hiện đại hóa công tác quản lý, trao đổi những tri thức và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc kết từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh nhân
  18. loại, tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đồng thời xu thế cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên trí tuệ, cũng là cơ hội tiềm tàng có nhiều hứa hẹn đối với những nền kinh tế non trẻ. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp XDCTGT. Thứ nhất, Vai trò bảo hộ của Nhà nước sẽ yếu dần đi và không còn nữa. Các doanh nghiệp XDCTGT buộc phải cạnh tranh không những ở thị trường nước ngoài mà còn phải thực hiện cạnh tranh với các đối thủ hùng mạnh trên thế giới ngay tại thị trường trong nước. Có thể nói là các doanh nghiệp phải đối mặt với cuộc cạnh tranh không biên giới. Các đối thủ tiềm năng chính của các doanh nghiệp Việt Nam là các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia, Pháp thì đã có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam khoảng vài chục năm. Trong bối cảnh đó, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp XDCTGT là vô cùng cần thiết và cấp bách. Thứ hai, năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung còn ở thứ bậc thấp trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, năm 2002 Việt Nam xếp thứ 68/75 nước được xem xét; năm 2003: 60/102; năm 2004: 77/104; năm 2005: 74/125 và năm 2006 xếp thứ 77/125 nước được xếp hạng. Như vậy, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt Nam ngày càng lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong bảng. Từ đó cho ta thấy, trong thời gian qua, năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt Nam vẫn còn yếu kém so với nhiều nước khác, nếu không muốn nói ít nhiều đã có sự thụt lùi. Thứ ba, quá trình hội nhập cũng tạo ra nguy cơ lây nhiễm các rủi ro của nền kinh tế thế giới. Do quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa được quốc tế hóa cao độ, thị trường thế giới hình thành một thể thống nhất. Sự rủi ro hoặc khủng hoảng ở một quốc gia bất kỳ cũng tạo ra nguy cơ khủng hoảng của cả hệ thống thế giới. Trong quá trình tham gia hội nhập, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của sự rủi ro chung của kinh tế thế giới và lôi kéo các doanh nghiệp Việt Nam vào vòng xoáy của nó Trình độ công nghệ, quản lý, khả năng khai thác thông tin thị trường cũng như thực tiễn về kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam là rất yếu kém
  19. nên việc tham gia vào thị trường quốc tế không tránh khỏi những khó khăn thậm chí thất bại. Tuy vậy, nhìn chung những lợi ích từ hội nhập là cơ bản và to lớn. Vì vậy, thách thức cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp XDCTGT nói riêng. Các doanh nghiệp XDCTGT cần chú ý tới những thay đổi mang tính đột phá để có thể chuẩn bị tương đối sẵn sàng trong bối cảnh cạnh tranh từ nước ngoài đang cận kề và thực tế sẽ đến rất nhanh. 1.4. năng lực cạnh tranh và vai trò của tài chính đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 1.4.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.4.1.1. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Các học thuyết kinh tế thị trường, dù trường phái nào đều thừa nhận rằng: cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Hiểu theo nghĩa thông thường, cạnh tranh là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau. Dưới góc độ kinh tế học, cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Đối với doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận tối đa trên cơ sở cùng ganh đua với các đơn vị khác để giữ và mở rộng thị phần
  20. trên thị trường. Vì vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét như là khả năng đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để giành được thị phần cung cấp sản phẩm một cách lâu dài và thu lợi nhuận ngày càng cao hơn, đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững cho doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm, dịch vụ. Giữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ có sự khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là thị phần của sản phẩm, dịch vụ đó trên thị trường. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một khái niệm rộng hơn năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Giữa năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, trước hết các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh phải có năng lực cạnh tranh, phải chiếm lĩnh được một thị phần đáng kể trên thị trường. Một sản phẩm có năng lực cạnh tranh cũng phản ánh một phần năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngoài việc tìm mọi biện pháp để gia tăng lợi nhuận một cách lâu dài và xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, rất cần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Khi nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể không đề cập đến năng lực cạnh tranh quốc gia vì giữa năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết. Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2