intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu & Hợp tác Đầu tư VILEXIM

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

99
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày nay, một công ty dù có được sản phẩm tốt nhất, giá “hời” nhất cũng chưa chắc đến được với người mua hoặc đã đến tận tay người mua nhưng chưa chắc họ đã chấp nhận. Bởi lẽ cả người mua và người bán đều chịu sự ảnh hưởng, sự tác động của rất nhiều yếu tố từ chính bản họ cũng như từ những lực lượng xung quanh. Các yếu tố, lực lượng này có thể ủng hộ hoặc ngăn cản việc công ty thoả mãn nhu cầu của khách hàng; mặt khác các yếu tố, lực...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu & Hợp tác Đầu tư VILEXIM

  1. LUẬN VĂN: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu & Hợp tác Đầu tư VILEXIM
  2. LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, một công ty dù có được sản phẩm tốt nhất, giá “hời” nhất cũng chưa chắc đến được với người mua hoặc đã đến tận tay người mua nhưng chưa chắc họ đã chấp nhận. Bởi lẽ cả người mua và người bán đều chịu sự ảnh hưởng, sự tác động của rất nhiều yếu tố từ chính bản họ cũng như từ những lực lượng xung quanh. Các yếu tố, lực lượng này có thể ủng hộ hoặc ngăn cản việc công ty thoả mãn nhu cầu của khách hàng; mặt khác các yếu tố, lực lượng này cũng có thể ủng hộ hoặc ngăn cản khách hàng tiếp cận và sử dụng sản phẩm của công ty. Một công ty muốn được khách hàng chấp nhận, nhờ đó có khả năng phát triển mạnh thì phải biết hiểu rõ các yếu tố hình thành nên hành vi của khách hàng, phải biết tìm kiếm và tạo ra sự ủng hộ của các lực lượng xung quanh khách hàng và cả công ty. Xúc tiến hỗn hợp là một trong bốn biến số quan trọng của marketing-mix ( bên cạnh sản phẩm, giá và phân phối) đảm nhiệm trách nhiệm trên. Bản chất của các hoạt động XTHH chính là truyền tin về sản phẩm và công ty tới khách hàng để thuyết phục họ mua. XTHH không chỉ tác động trực tiếp đến người mua mà còn tác động gián tiếp thông qua các trung gian và các phương tiện khác để thúc đẩy người mua tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá của công ty. Một hệ thống XTHH th ường gồm bốn công cụ chủ yếu là quảng cáo, xúc tiến bán (khuyến mại), tuyên truyền (quan hệ công chúng), bán hàng trực tiếp và marketing trực tiếp. Các công cụ này đều có sự tác động, hỗ trợ qua lại lẫn nhau để thực hiện một chiến lược xúc tiến chung đã được vạch ra trước nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của công ty. Nếu như “xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại” (Luật Thương mại Việt Nam năm 1999); “là việc doanh nghiệp sử dụng rộng rãi các kỹ thuật thuyết phục khách hàng khác nhau để liên hệ được với thị trường mục tiêu và tất cả công chúng” (Business Today); nghĩa là xúc tiến thương mại mới chỉ dừng lại các hoạt động cung cấp thông tin và thuyết phục khác hàng mục tiêu của các thương nhân thì XTHH còn đòi hỏi nhiều hoạt động hơn thế. XTHH không chỉ áp dụng cho các thương nhân mà còn là công cụ đắc lực của các nhà sản xuất. XTHH đòi hỏi có một chiến lược hài hoà với các biến số khác là giá, sản phẩm và phân phối; với toàn bộ chiến lược chung của công ty và của toàn ngành; và việc thực hiện chiến lược
  3. XTHH được thể hiện thông qua việc sử dụng một hệ thống các công cụ XTHH với các vị trí và vai trò khác nhau. Như vậy, có thể thấy XTTM chỉ là biểu hiện một phần ra bên ngoài của XTHH; là một “phần nổi của tảng băng” XTHH. Đối với Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Hợp tác Đầu tư VILEXIM, là một công ty thương mại thuần tuý, có chức năng lưu thông hàng hoá, kết nối người sản xuất với người tiêu dùng. Do vậy, hoạt động XTHH lại càng đóng vai trò quyết định đối với Công ty so với các biến số khác. XTHH của Công ty không chỉ làm một chiều hướng về khách hàng mà còn hướng ngược lại là những nhà sản xuất nhằm làm cho sản xuất khớp nối với nhu cầu, bên cạnh đó XTHH cũng phải hướng đến những trung gian khác hỗ trợ cho nhiệm vụ trên của công ty được diễn ra thuận lợi. Nhận thấy vai trò to lớn của hoạt động XTHH đối với công ty VILEXIM, với mong muốn góp sức nhỏ bé của mình vào sự phát triển chung và hoạt động marketing nói riêng của Công ty, bằng những kiến thức đã được trang bị trong trường cùng một số hiểu biết của bản thân về thực tiễn các hoạt động xúc tiến thương mại đang diễn ra hiện nay và tình hình hoạt động XTHH của Công ty VILEXIM trong thời gian thực tập, em xin đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hoạt động XTHH của Công ty thông qua Chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài là “Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu & Hợp tác Đầu tư VILEXIM”. Kết cấu của Chuyên đề được chia làm ba chương: Chương I: Tổng quan về Công ty VILEXIM - giới thiệu về lịch sử hình thành và phát triển của Công ty VILEXIM, bộ máy tổ chức cùng năng lực hoạt động của Công ty và những lĩnh vực ngành nghề kinh doanh mà hiện nay Công ty đang hoạt động. Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động marketing của Công ty VILEXIM – đánh giá những thành tựu cùng những nguyên nhân mà Công ty đạt được trong thời gian qua và những vấn đề còn tồn tại hiện nay đối với Công ty. Chương III: Định hướng chiến lược và giải pháp hoàn thiện hệ thống XTHH ở Công ty VILEXIM – đề ra một số giải pháp hoàn thiện hệ thống XTHH
  4. của Công ty dựa trên cơ sở phân tích một số căn cứ quan trọng như chiến lược phát sản phẩm, thị trường và XTHH của Ngành và Nhà nước; chiến lược phát triển kinh doanh chung và chiến lược XTHH của Công ty. Chương I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VILEXIM I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY VILEXIM VILEXIM là một công ty xuất nhập khẩu (XNK) trực thuộc Bộ Thương mại. Công ty đã có quá trình lịch sử hình thành và phát triển gắn với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của nước ta, từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Công ty từ một đơn vị chỉ thực hiện những nhiệm vụ mà Bộ Thương mại giao phó nay chuyển thành một công ty độc lập tự hạch toán kinh doanh. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn lịch sử phát triển, Công ty đã có sự thay đổi nhiều lần về tên gọi nhằm phù hợp với sự thay đổi về quyền hạn và nhiệm vụ của mình. Được thành lập vào năm 1967, Công ty có tên gọi đầu tiên là Công ty XNK Biên giới. Công ty có nhiệm vụ nhận hàng viện trợ từ các nước XHCN, sau đó chuyển số hàng này sang Lào để giúp đỡ cho cuộc kháng chiến của nhân dân Lào khi đó. Năm 1976, với chủ trương mở rộng hợp tác đầu tư sang Lào của Chính phủ Việt Nam, Công ty đổi tên thành Công ty XNK Việt Nam, ngoài nhiệm vụ chuyển hàng viện trợ cho Lào, Công ty còn thực hiện hợp tác đầu tư XNK với Lào. Năm 1987, theo chính sách chuyển đổi cơ chế kinh tế của Nhà nước, Công ty đổi tên thành Công ty XNK với Lào với phạm vi hoạt động rộng hơn, Công ty không chỉ hợp tác kinh doanh XNK với Lào mà còn kinh doanh XNK với nhiều nước trên thế giới như Nhật, Hàn Quốc, Đức, Thái Lan…Từ năm 2003, Công ty có tên gọi như ngày nay.  Tên Việt Nam: Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Hợp tác Đầu tư VILEXIM  Tên giao dịch quốc tế: VILEXIM Export – Import and Investment Co- operation joint stock Company  Tên viết tắt: VILEXIM Trụ sở giao dịch chính hiện nay của Công ty đặt tại 170 Đường Giải Phóng, Hà Nội. Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội, Công ty còn có các chi nhánh và văn phòng
  5. đại diện như sau: Chi nhánh tại TP. HCM, Chi nhánh tại Hải Phòng, Chi nhánh tại Hà Tây, Đại diện tại Lào, Trung tâm xuất khẩu lao động. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty hiện nay bao gồm:  Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp, xuất nhập khẩu uỷ thác các mặt hàng nông lâm sản, hoá chất (Trừ hóa chất Nhà nước cấm), dược liệu, bông vải sợi, điện máy, vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, thiết bị dùng cho giáo dục.  Xuất khẩu lao động đi nước ngoài, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng và nghề nghiệp cho lao động đi làm việc ở nước ngoài.  Đại lý tiêu thụ hàng hoá  Kinh doanh vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất cho các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp. II. NĂNG LỰC CỦA CÔNG TY 1. Bộ máy tổ chức và nguồn nhân lực Để đáp ứng được nhu cầu và nhiệm vụ của Công ty đề ra, Công ty xây dựng một đội ngũ cán bộ công nhân viên hiện nay bao gồm 136 người với cơ cấu là 93 người thuộc khối kinh tế, 35 người thuộc khối kỹ thuật, 8 người hoạt động lao vụ và bảo vệ. Về trình độ, đại học chiếm 72%, cao đẳng và trung cấp chiếm 20%. Trong đó một lực lượng lớn nhân viên mới bổ sung vào đều còn trẻ, có trình độ cao, năng động, nhiệt tình. Hiện nay, với cơ cấu tổ chức bộ máy nhân sự này đang cho thấy phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới của Công ty trong giai đoạn này. Đối với chế độ lương, thưởng và phạt, bên cạnh phần lương cứng trả theo ngạch bậc lương mà Nhà nước quy định, Công ty còn có quy định thưởng cho những cán bộ và nhân viên theo thành tích vượt kim ngạch kế hoạch được giao, và xét phạt những người không thực hiện được chỉ tiêu kim ngạch. Việc thưởng phạt cũng còn căn cứ vào thái độ làm việc của nhân viên thông qua bảng đánh giá của các trưởng phòng và bảng theo dõi, đánh giá của phòng tổ chức hành chính. Về hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực của Công ty, Công ty thường xuyên cử các cán bộ và nhân viên ưu tú của mình tham gia các khoá học ngắn hạn và các chương trình tu nghiệp dài hạn ở nước ngoài nhằm tiếp thu, học hỏi những công nghệ quản lý hiện đại để ứng dụng vào hoạt động của Công ty, giúp Công ty tiến kịp với trình độ phát triển của các Công ty hiện đại trong nước và trên thế giới .
  6. Sơ đồ Bộ máy tổ chức Công ty XNK & HTĐT VILEXIM Giám đốc Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng XNK Tài Chính- Tổng hợp & Kiến thiết & Tổ chức hành 1.2.3.4.5 Kế toán Marketing Xây dựng chính Chi nhánh Chi nhánh tại Chi nhánh tại Đại diện tại Trung tâm tại TP.HCM Hải Phòng Hà Tây Lào XKLĐ Đứng đầu Công ty là giám đốc do Bộ Thương mại bổ nhiệm và miễn nhiệm. Giám đốc có trách nhiệm tổ chức và điều hành mọi hoạt động của Công ty, đại diện cho toàn bộ cán bộ công nhân viên của Công ty, thay mặt cho Công ty trong các mối quan hệ với bạn hàng. Giám đốc là đại diện cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của Công ty trước pháp luật và các cơ quan quản lý của Nhà nước Dưới giám đốc là các phó giám đốc. Hai phó giám đốc ở trụ sở chính tham gia giúp Giám đốc quản lý chung trong đơn vị và phối hợp hoạt động với các phòng XNK. Các chi nhánh, đại diện và trung tâm xuất khẩu lao động đều có một phó giám đốc thay mặt Giám đốc điều hành và quản lý mọi hoạt động ở các đơn vị đó. Dưới các phó Giám đốc là các phòng, ban, văn phòng đại diện, chi nhánh trực thuộc. Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận này được quy định cụ thể như sau: Phòng Tổng hợp là cơ quan tham mưu tổng hợp cho Giám đốc Công ty trong đó trực tiếp chịu trách nhiệm về công tác kế hoạch hoá, báo cáo thống kê và phục vụ công tác quản lý – kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ trong Công ty.
  7. Phòng Tài chính Kế toán là đơn vị tham mưu cho Giám đốc Công ty trong công tác Tài Chính - Kế toán đảm bảo phản ánh chính xác, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong Công ty. Là phòng quản lý vốn tài sản, sử dụng chức năng Giám đốc đồng tiền thông qua việc kiểm soát bằng chứng từ, các hoạt động về kinh tế, tài chính của các đơn vị trong Công ty. Phòng Tổ chức – Hành chính là cơ quan tham mưu tổng hợp cho Giám đốc công ty về mọi mặt, trong đó chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác quản trị nhân sự như: tổ chức bộ máy quản lý, lao động - tiền lương, các chính sách đối với người lao động…Đồng thời thực hiện công tác quản lý chung và phục vụ hành chính. Các phòng XNK, Chi nhánh tại Hải Phòng và Chi nhánh tại TP.HCM là đơn vị thực hiện chức năng kinh doanh XNK và dịch vụ, có vai trò chính - trực tiếp – quan trọng trong việc tạo lợi nhuận và thu nhập chung trong Công ty. Mỗi đơn vị kinh doanh tổ chức thực hiện kinh doanh XNK các ngành hàng, sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi phân công theo quy định của công ty trong từng thời kỳ. Xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh XNK và dịch vụ, tổ chức nguồn hàng xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ… Chủ động tìm kiếm, giao dịch với khách hàng trong và ngoài nước để có thể ký các hợp đồng mua, bán trao đổi hàng hoá theo phương án Giám đốc duyệt. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động phục vụ cho hoạt động kinh doanh của phòng. Trung tâm XKLĐ và Chi nhánh tại Hà Tây là các đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực xuất khẩu lao động. Các đơn vị này có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện công tác xuất khẩu và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo giấy phép của Bộ LĐTBXH cấp cho Công ty. Đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng cho người lao động. Tổ chức thực hiện các hoạt động phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Phòng kiến thiết xây dựng đề án phát triển doanh nghiệp có chức năng xây dựng các cơ sở mới để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện chiến lược mở rộng và phát triển Công ty. Đại diện tại VIENTIANE – Lào có chức năng thay mặt Công ty giải quyết những công việc của Công ty giao. 2. Năng lực tài chính
  8. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động của Công ty chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp xuống. Đến năm 1995, Công ty phải độc lập tự hạch toán kinh doanh. Bước đầu công ty đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo cân đối thu chi có hiệu quả. Đến nay, năng lực quản lý tài chính của Công ty khá hiệu quả, nguồn vốn của Công ty tăng mạnh, trở thành một trong những Công ty XNK có tiềm lực tài chính lớn trong nước. Theo báo cáo hoạt động tài chính của Công ty trong ba năm trở lại đây cho thấy, tổng nguồn vốn của Công ty vào năm 2004 đạt gần 144 tỷ đồng tăng 115,8% so với năm 2003, và tăng 144,44% so với năm 2002. Trong đó, nợ phải trả gần 125 tỷ đồng năm 2004, tăng 137,8% so với năm 2003 và tăng 173.5% so với năm 2002; vốn chủ sở hữu đạt trên 18 tỷ đồng năm 2004, tăng 30,8% so với năm 2002 và tăng 43,33% so với năm 2003. Như vậy, nguồn vốn của Công ty tăng lên là do nguồn vay nợ và vốn chủ sở hữu đều tăng mạnh. Nhìn vào tổng vốn từ nguồn vay nợ thì nợ ngắn là chủ yếu (chiếm gần 90% tổng nợ). Vốn vay ngắn hạn này thường được Công ty sử dụng cho việc thanh toán L/C cho các lô hàng nhập khẩu. Vốn vay ngắn hạn tăng lên mạnh chứng tỏ rằng khả năng xoay vòng vốn của Công ty đang tăng nhanh. Trong cơ cấu nguồn vốn, vốn vay nợ luôn chiếm tỷ trọng cao, thường khoảng 85% tổng nguồn vốn. Tuy nhiên các tỷ số về khả năng thanh toán của Công ty, khả năng thanh toán toàn bộ (tỷ số tổng tài sản trên nợ phải trả), tỷ lệ thanh toán nợ ngắn hạn (tỷ số tài sản lưu động trên nợ ngắn hạn), luôn lớn hơn 1; nghĩa là Công ty luôn đảm bảo cho mình khả năng thanh toán các món nợ, tránh được những rối loạn lớn trong hoạt động kinh doanh. Nhìn vào nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty qua các năm cho thấy, nguồn vốn này đang tăng đều. Đây là một nguồn vốn quan trọng nhất đánh giá sự phát triển của Công ty. Nguồn vốn này tăng lên cho phép Công ty mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, tăng khả năng cho Công ty trong việc thực hiện những hợp đồng có giá trị lớn, mở rộng các hoạt động liên doanh liên kết với các công ty sản xuất trong nước trong quá trình sản xuất những mặt hàng xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vay nợ từ bên ngoài khi sử dụng nguồn này, hoặc tạo khả năng cho Công ty có thể vay nợ với hạn mức lớn nhằm phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
  9. Bảng cân đối kế toán Đơn vị: triệu đồng Số liệu của Công ty VILEXIM 3. Năng lực công nghệ Trụ sở chính của Công ty là một toà nhà ba tầng được xây dựng từ năm 1985 với diện tích hơn 500m2, có vị trí rất thuận lợi cho mọi hoạt động giao dịch giữa khách hàng với Công ty. Các phòng làm việc trong Công ty đều được trang bị đầy Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 I. TÀI SẢN 58.797 66.914 143.724 1.1 Tài sản lưu động và đầu tư 54.835 63.860 135.522 ngắn hạn 1.2 Tài sản cố định và đầu tư dài 3.962 3.054 8.202 hạn (trong đó tài sản cố định hữu 3.176 2.866 6.618 hình) II. NGUỒN VỐN 58.797 66.914 143.724 2.1 Nợ phải trả 45.655 52.514 124.887 -Nợ ngắn hạn 45.572 51.758 124.260 -Nợ dài hạn - -Nợ khác 83 755 626 2.2 Nguồn vốn chủ sở hữu 13.142 14.400 18.837 đủ các thiết bị văn phòng hiện đại như máy vi tính, máy fax, máy in, máy photocopy… thuận tiện cho việc lưu trữ và truyền đạt thông tin giữa các phòng, giữa khách hàng trong nước và khách hàng ở nước ngoài với Công ty. Hệ thống lưu trữ và xử lý thông tin, chương trình quản trị kế toán được trợ giúp bởi một phần mềm chuyên dụng riêng. Để phục vụ cho việc dự trữ và lưu kho hàng hoá, Công ty có hai kho Cổ Loa và Tứ Kỳ với diện tích khoảng 1000m2 đặt tại Gia Lâm và Đông Anh. Các kho này
  10. đều được trang bị các đồ dùng cần thiết để bảo quản hàng hoá, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Để phục vụ cho việc đưa đón lãnh đạo Công ty và cung cấp dịch vụ vận tải cho các cán bộ công nhân viên ở các đơn vị, phòng ban của Công ty trong công tác quản lý, kinh doanh và các hoạt động khác, Công ty có một đội xe gồm hai xe con, ba xe tải lớn chở hàng. Đội xe này được các nhân viên phụ trách của Công ty tu dưỡng, sửa chữa, đảm bảo cho xe luôn trong tình trạng an toàn khi vận hành. Trong vài năm gần đây, tổng giá trị tài sản cố định của Công ty tăng lên nhiều, chủ yếu là để đầu tư vào việc mua sắm các thiết bị văn phòng, các thiết bị phục vụ cho hoạt động đào tạo xuất nhập khẩu lao động, mua thêm xe. Hiện nay, tổng giá trị tài sản cố định của công ty là 6.618 triệu đồng, chiếm 5,71% trong tổng giá trị tài sản. Nhìn vào tỷ trọng tài sản cố định trong tổng tài sản, tỷ số này thường thấp (khoảng 4,5%) và ổn định. Điều này là do Công ty chỉ tập trung vào hoạt động kinh doanh thương mại chứ không đi sâu vào lĩnh vực sản xuất vật chất cần thiết bị lớn. III. THỊ TRƯỜNG VÀ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY Công ty tham gia hoạt động kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều khu vực thị trường. Nhưng có thể phân thành hai loại thị trường lớn là thị trường kinh doanh xuất nhập khẩu và thị trường kinh doanh trong nước. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, công ty tham gia hoạt động kinh doanh XNK trực tiếp, XNK uỷ thác và xuất khẩu lao động. Đối với hoạt động kinh doanh trong nước, hoạt động kinh doanh của Công ty bao gồm hai hình thức là đại lý tiêu thụ và hình thức mua bán hàng hoá. Trong mỗi lĩnh vực hoạt động, mỗi khu vực thị trường Công ty có các cách thức hoạt động khác nhau và đối thủ cạnh tranh khác nhau. 1. Thị trường kinh doanh xuất nhập khẩu: 1.1 Kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp Kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp là việc Công ty chủ động liên hệ tìm kiếm nguồn hàng trong nước hoặc ở nước ngoài và thu mua sản phẩm, sau đó tổ chức các hoạt động xuất khẩu hoặc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá ở thị trường
  11. nước ngoài hoặc thị trường ở trong nước. Việc hỗ trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, Công ty có các trung gian tham gia hỗ trợ bao gồm các ngân hàng cung cấp tín dụng, các công ty cung cấp dịch vụ vận tải, các công ty bảo hiểm cung cấp dịch vụ bảo hiểm rủi ro cho hàng hoá. Đối với hoạt động nhập khẩu trực tiếp, các sản phẩm hiện Công ty đang kinh doanh là các sản phẩm điện máy, vật liệu xây dựng, hoá chất phân bón. Hầu hết các loại sản phẩm này đều được Công ty thu mua từ nhiều thị trường nước ngoài khác nhau, với cơ cấu về số lượng, chủng loại tuỳ theo nhu cầu của thị trường trong nước. Đối với các sản phẩm điện máy, Công ty chủ yếu nhập từ các nước Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan. Khách hàng của Công ty có nhu cầu các sản phẩm loại này là các đại lý, cửa hàng bán lẻ trong nước kinh doanh các sản phẩm điện máy. Bắt đầu cho hoạt động mua bán ở loại sản phẩm này, Công ty thường tổ chức tìm kiếm nhu cầu thị trường bằng cách phỏng vấn trực tiếp các khách hàng hiện tại của mình và khách hàng tiềm năng về loại sản phẩm, chất lượng, mẫu mã, nhu cầu tiềm năng… Sau đó thực hiện việc tìm kiếm sản phẩm thông qua các bản chào hàng trên mạng, thư hay catologe trực tiếp từ các công ty sản xuất ở nước ngoài, nếu loại sản phẩm nào phù hợp với nhu cầu hiện có trong nước thì đặt mua. Cuối cùng Công ty nhập sản phẩm về và bán sỉ cho các khách hàng của mình. Công ty cũng thường nhập số lượng nhỏ những sản phẩm mới đối với thị trường trong nước để bán thử, nếu người tiêu dùng chấp nhận với nhu cầu lớn thì Công ty sẽ bắt đầu kinh doanh với loại sản phẩm đó. Ngược lại, thì Công ty chuyển sang kinh doanh sản phẩm khác. Về quan hệ với khách hàng, Công ty thường có mối quan hệ lâu dài với vai trò là nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng tiêu thụ. Đối với hàng vật liệu xây dựng, Công ty thường đã có mối quan hệ lâu dài với các đối tác cung ứng với nước ngoài. Công ty tiến hành tổ chức thu mua và nhập khẩu loại sản phẩm này từ các thị trường cung ứng chủ yếu là từ các nước Đông Âu và SNG, Trung Quốc, Lào; sau đó cung cấp lại cho các nhà bán bán lẻ trong nước. Quan hệ của công ty với các nhà bán lẻ này cũng thường là mối quan hệ thường xuyên, lâu dài. Ngoài ra công ty cũng thường cung cấp hàng cho các công ty xây dựng lớn. Những hợp đồng loại này thường không thường xuyên, nên việc kí
  12. kết được hợp đồng chủ yếu dựa vào mối quan hệ của công ty với các nhà thầu xây dựng. Đối với mặt hàng phân bón, hoá chất, những mặt hàng này được dùng trong ngành nông nghiệp. Công ty nhập mặt hàng cũng từ nhiều nước nhưng chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ. Những mặt hàng này thường được công ty bán trực tiếp cho các hợp tác xã, các nhà bán lẻ ở nông thôn, hoặc phân phối hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất liên kết với công ty trong việc cung cấp các sản phẩm nông sản phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Trong hoạt động cạnh tranh hàng nhập khẩu, công ty thường phải cạnh tranh với các công ty XNK trong nước, các nhà sản xuất trong nước trong việc cung ứng cùng loại sản phẩm cho khách hàng. Để đảm bảo hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, bên cạnh việc thường xuyên xem xét nhu cầu của khách hàng về loại sản phẩm để cung cấp đúng chủng loại, số lượng hàng hoá, công ty cũng thực hiện các chính sách chăm sóc, duy trì khách hàng. Về hoạt động xuất khẩu trực tiếp, các sản phẩm hiện công ty kinh doanh là các mặt hàng nông sản như gạo, lạc nhân, hạt tiêu, hạt điều. Trong hoạt động này, công ty thường có mối liên hệ, liên kết với các tổ hợp tác xã trong việc thu mua và dự trữ sản phẩm. Vì là loại sản phẩm mang tính thời vụ, nên công ty chỉ thường tập trung tổ chức phối hợp với các hợp tác xã thu mua sản phẩm vào các mùa vụ, sau đó tổ chức lưu kho, dự trữ, bảo quản ở kho của công ty và thuê kho dự trữ của các hợp tác xã. Khi tìm được thị trường và kí hợp đồng xuất khẩu với các công ty ở nước ngoài, thì công ty tổ chức xuất khẩu. Sản phẩm của công ty được tiêu thụ ở rất nhiều nước trên thế giới chủ yếu là bốn khu vực thị trường chính là khu vực EU, Mỹ, Nhật; khu vực Bắc Âu, Tây Âu; khu vực CIS Đông Âu, Bắc Phi, Tây Nam Á; khu vực Ô-xtrây-lia, Châu Á. Hoạt động tiêu thụ ở nước ngoài thường thông qua các tổ chức bán lẻ như các cửa hàng, siêu thị; ngoài ra công ty cũng cung ứng sản phẩm cho các tổ chức chính phủ ở các nước đó, sản phẩm chủ yếu cho đối tác loại này là gạo. Về hoạt động cạnh tranh trong mặt hàng này, công ty thường phải cạnh tranh với các nhà cung ứng ở các nước xuất khẩu hàng nông sản lớn như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc. Để có thể đưa sản phẩm xâm nhập và duy trì được các thị trường nhập khẩu này, công ty phải tuân thủ các quy định rất nghiêm ngặt về thủ tục xuất khẩu, về chất lượng an toàn cho sản phẩm.
  13. 1.2 Kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác Xuất nhập khẩu uỷ thác là hoạt động xuất nhập khẩu trong đó công ty thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những thoả thuận với bên uỷ thác là khách hàng của công ty và nhận được phí uỷ thác. Hoạt động cung cấp dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác là hoạt động chủ yếu dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm về hoạt động nghiệp vụ ngoại thương của công ty, dựa vào việc công ty được Bộ Thương mại cấp giấy phép hoạt động xuất nhập khẩu ở những mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác. Khi nhận uỷ thác xuất khẩu hoặc nhập khẩu mặt hàng nào đó công ty phải đảm bảo thực hiện đúng mọi điều kiện về số lượng, chất lượng, quy cách, loại sản phẩm, giá nhập, thời hạn cung cấp hàng đã được thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác. Khách hàng của công ty trong lĩnh vực hoạt động này là những thương nhân (có giấy phép kinh doanh) hoặc không phải là thương nhân (không có giấy phép kinh doanh) muốn uỷ thác cho công ty thực hiện mua bán hàng hoá theo yêu cầu của mình và sẵn sàng trả phí uỷ thác. Khách hàng mục tiêu của công ty có nhu cầu uỷ thác có thể được chia thành các loại: khách hàng không có giấy phép xuất nhập khẩu, khách hàng có giấy phép xuất nhập khẩu nhưng lại không am hiểu về thị trường nước ngoài ở mặt hàng nào đó. Hiện nay, số khách hàng uỷ thác của công ty lên đến 218 công ty. Trong đó, có 27 công ty ở nước ngoài uỷ thác cho công ty thu mua các sản phẩm là hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, bông vải sợi của các đối tác của các công ty này ở trong n ước. Khách hàng của công ty ở đây chủ yếu từ các nước EU, Mỹ, Bắc Âu, Nhật. Đối với khách hàng uỷ thác ở trong nước, các mặt hàng được uỷ thác nhập khẩu bao gồm hoá chất, dược liệu, bông vải sợi, thiết bị giáo dục, vật liệu xây dựng, điện máy. Các sản phẩm này được nhập từ rất nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Mỹ, các nước ở Bắc Âu… Về mối quan hệ giữa khách hàng uỷ thác với công ty, công ty thường có mối quan hệ lâu dài với những khách hàng uỷ thác xuất nhập khẩu thường xuyên các mặt hàng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ như bông vải sợi, hoá chất, điện máy đối với khách hàng trong nước, các sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ, hàng nông sản đối với khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên công ty cũng có những hợp đồng uỷ thác thực hiện cung cấp một lần như thiết bị giáo dục, vật liệu xây dựng.
  14. Về hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực này, hầu hết các công ty xuất nhập khẩu đều cung cấp dịch vụ uỷ thác xuất nhập khẩu. Việc cạnh tranh giữa các công ty thường tập trung vào việc đảm bảo thực hiện đúng những điều kiện trong hợp đồng, tránh những sai sót trong các hoạt động nghiệp vụ ngoại thương có thể dẫn đến những phiền phức cho khách hàng, đưa ra phí uỷ thác hợp lý và có thể cung cấp tín dụng thích đáng cho khách hàng; bên cạnh đó các công ty thường phải có chính sách chăm sóc khách hàng chu đáo thì mới có thể duy trì được khách hàng của mình. Đối với công ty VILEXIM, kinh doanh dịch vụ uỷ thác là hoạt động chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh thu; do vậy, công ty luôn dành sự quan tâm lớn đến hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực này. Việc cạnh tranh của công ty th ường tập trung vào những công ty cũng có hình thức kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của họ và cùng được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng cùng loại với công ty. Một số công ty cạnh tranh mà hiện nay công ty cần chú ý là công ty XNK Thăng Long, công ty XNK tổng hợp Nhất Phát, công ty Thương nghiệp XNK Tổng hợp Hà Châu, công ty PACKSIMEX, công ty TNHH Thương mại Hà Mạnh…. 1.3 Xuất khẩu lao động Hiện nay, công ty có một trung tâm xuất khẩu lao động (XKLĐ) ở 136 Lò Đúc, Hà Nội và một chi nhánh ở Hà Tây. Hai đơn vị này đều được công ty giao nhiệm vụ tổ chức các hoạt động xuất khẩu lao động trong nước sang nước ngoài nước ngoài làm việc, nhưng mỗi đơn vị đều có đối tượng phục vụ riêng, vì vậy sẽ có một số điểm khác nhau trong cách thức thu hút, tư vấn và đào tạo nghề cho các đối tượng có nhu cầu XKLĐ. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, hai đơn vị này đều có sự phối hợp với nhau khi cần thiết để hoàn thành công việc tốt hơn. Trung tâm XKLĐ có đối tượng khách hàng là những lao động đã qua qua đào tạo nghề, chủ yếu là lao động cơ khí kỹ thuật, dệt may và xây dựng. Các lao động loại này đều đang làm việc ở các cơ quan, công ty, các nhà máy, các cơ sở sản xuất trong nước. Để thu hút đối tượng khách hàng này, công ty cố gắng tiếp cận các đơn vị sản xuất để đánh giá nhu cầu xuất khẩu của người lao động. Khách hàng loại này thường có nhu cầu xuất khẩu với mong muốn có được mức thu nhập cao hơn nhằm tích cóp được một số vốn nhất định khi về nước, họ cũng muốn có điều kiện nâng cao hiểu biết, kinh nghiệm làm việc, nâng cao tay nghề của mình khi làm việc
  15. ở nước ngoài. Những dịch vụ mà công ty có thể cung cấp cho những khách hàng này thường là làm các thủ tục xuất khẩu, tư vấn về thị trường, về công ty nước ngoài, làm môi giới thoả thuận về các điều kiện, môi trường làm việc ở nước ngoài, cung cấp dịch vụ đào tạo ngoại ngữ. Chi nhánh ở Hà Tây có đối tượng xuất khẩu lao động là những người lao động phổ thông, thường chưa qua đào tạo nghề nghiệp. Đối tượng khách hàng này thường xuất thân từ các hộ nông dân. Họ có nhu cầu làm việc ở nước ngoài, vì ở trong nước không có khả năng tìm được việc mang lại một khoản thu nhập có thể đảm bảo cho cuộc sống của họ và gia đình họ. Vì đây là đối tượng không có nghề nghiệp, nên khi sau khi tuyển các đối tượng này, công ty thường phải dành một khoảng thời gian nhất định để tiến hành đào tạo nghề cho họ theo nhu cầu của thị trường nhập khẩu. Việc đào tạo các đối tượng này, công ty đưa ra các chương trình đào tạo ngoại ngữ, các chương trình giới thiệu về môi trường, điều kiện làm việc ở nước ngoài, mời các giảng viên ở các trường khác đào tạo hướng nghiệp; bên cạnh đó công ty tiến hành liên kết với các trường, các trung tâm dạy nghề trong khu vực hoạt động nhằm tận dụng các điều kiện về cơ sở vận chất trong việc đào tạo nghề. Để thu hút đối tượng khách hàng này, công ty thường phải liên hệ với các phòng Tổ chức Lao động Thương binh và Xã hội của các huyện, tỉnh xung quanh khu vực hoạt động của mình về nhu cầu xuất khẩu lao động của nhân dân trong địa bàn, đồng thời phối hợp với các nhà chức trách của địa phương trong việc tuyên truyền chương trình giải quyết việc làm ở nông thôn của Nhà nước để kích thích nhu cầu. Về hoạt động tìm kiếm thị trường nước ngoài cho xuất khẩu lao động, công ty thường tìm kiếm khách hàng thông qua sự giới thiệu của các bạn hàng khác, dò tìm các trang thông báo tuyển dụng của các công ty trên internet, qua sự giới thiệu của đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, và qua các trung tâm xúc tiến việc làm của Bộ Thương mại ở các nước. Các khách hàng ở nước ngoài có nhu cầu tuyển dụng lao động của công ty hiện nay chủ yếu là các công ty xây dựng, các công ty sản xuất công nghiệp như các công ty dệt may, chế biến thực phẩm…, các công ty du lịch khách sạn, các nhà máy sản xuất cơ khí. Thị trường xuất khẩu lao động chủ yếu hiện nay của công ty là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước Trung Đông, Malaysia. Đây cũng là những nước mà Việt Nam có số lượng xuất khẩu đông nhất so với các thị trường khác.
  16. Hiện nay nước ta có khoảng 152 doanh nghiệp tham xuất khẩu lao động, trong đó có 16 doanh nghiệp chuyên doanh, 133 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngành nghề được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động. Các doanh nghiệp này cạnh tranh chủ yếu trong khâu thu hút lao động có nhu cầu xuất khẩu lao động, trong đó các doanh nghiệp cạnh tranh về khả năng có được mức lương mong muốn, chính sách đào tạo nghề nghiệp, chính sách ưu đãi về vốn vay làm thủ tục xuất khẩu và các chi phí liên quan, làm thủ tục xuất khẩu nhanh chóng, gọn nhẹ, ít gây phiền phức cho khách hàng; và đảm bảo tư vấn có hiệu quả về ngành nghề, thị trường. Đối với hoạt động cạnh tranh với các đối thủ ở nước ngoài, mà chủ yếu là với những đối thủ ở những nước có số lượng lao động đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan…, công ty thường phải đảm bảo về chất lượng lao động có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc, đảm bảo khả năng không phá vỡ hợp đồng của người lao động giữa chừng. 2. Những hoạt động kinh doanh trong nước Bên cạnh các hoạt động phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu, công ty cũng có những hoạt động kinh doanh ở thị trường trong nước với vai trò như một công ty thương mại. Ở thị trường trong nước, hoạt động kinh doanh của công ty được thực hiện dưới hai hình thức là đại lý tiêu thụ hàng hoá và hình thức mua bán hàng hoá. 2.1 Đại lý tiêu thụ hàng hoá Trong hoạt động kinh doanh đại lý tiêu thụ hàng hoá, công ty nhân danh mình đứng ra tiêu thụ hàng hoá cho các công ty khác để hưởng thù lao. Trong quá trình làm đại lý tiêu thụ hàng hoá, mặc dù đứng trên danh nghĩa của mình để thực hiện các cuộc mua bán, nhưng công ty cũng phải tuân theo, thực hiện đúng những thoả thuận đã cam kết trong hợp đồng đại lý với các công ty giao đại lý. Những hàng hoá mà công ty nhận làm đại lý tiêu thụ cũng phải phù hợp với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó, khoản thù lao mà công ty được hưởng tuỳ theo hình thức đại lý mà công ty tham gia và mức thù lao này được quy định cụ thể trong hợp đồng đại lý với công ty giao đại lý. Hình thức tham gia đại lý tiêu thụ hàng hoá của công ty có hai loại là hình thức hoa hồng và đại lý bao tiêu. Hình thức hoa hồng là hình thức đại lý trong đó công ty thực hiện tiêu thụ hàng hoá theo giá bán do công ty giao đại lý ấn định sẵn,
  17. nghĩa là công ty sẽ không có quyền thay đổi giá đơn vị của sản phẩm bán ra. Mức hoa hồng hay thù lao mà công ty hưởng được tính trên tỷ lệ phần trăm mà đã được thoả thuận trong hợp đồng trên giá bán hàng hoá. Đối với hình thức đại lý bao tiêu, công ty thực hiện tiêu thụ trọn vẹn một khối lượng hàng hoá theo giá do công ty giao đại lý ấn định, nghĩa là công ty mua vào với giá bán buôn của công ty giao đại lý, còn giá bán lẻ sẽ do công ty tự quyết định theo nhu cầu của thị trường. Như vậy, mức thù lao mà công ty được hưởng là một khoản chênh lệch giữa giá mua vào do công ty giao đại lý ấn định với giá thực tế mà công ty bán ra. Những hàng hoá mà công ty đảm nhận việc tiêu thụ cho các công ty khác chủ yếu là các hàng vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất cho các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp như vật liệu xây dựng, hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu, các loại thiết bị máy móc…Việc cung ứng hàng hoá này cho công ty thường là do những nhà máy sản xuất lớn trong nước như nhà máy xi măng Bỉm Sơn, nhà máy thép Thái Nguyên, công ty sản xuất phân bón Sông Ranh… Mối quan hệ giữa công ty với những nhà cung ứng này thường là mối quan hệ lâu dài, uy tín và dựa trên những ưu đãi và những điều kiện thuận mà các bên tạo ra cho nhau trong quá trình kinh doanh. Khách hàng mục tiêu của công ty trong lĩnh vực hoạt động tiêu thụ này cũng là khách hàng mục tiêu của các công ty giao đại lý hay cung ứng. Đối tượng khách hàng chủ yếu ở đây là những hợp tác xã, các công ty hoạt động trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, các nhà thầu xây dựng, các cửa hàng bán lẻ khác. Đặc điểm của những khách hàng này là những đối tượng có nhu cầu tiêu dùng hay mua hàng với khối lượng lớn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp theo của họ. Do vậy, mối quan hệ giữa khách hàng với công ty có thể là mối quan hệ lâu dài, cũng có thể là việc thực hiện bán hàng một lần hoặc trong một thời gian ngắn. Thông thường, để tiếp cận đối tượng khách hàng này, công ty tập trung chủ yếu vào việc bán hàng cá nhân và dựa trên uy tín có sẵn của công ty trong việc cung ứng hàng hoá cho khách hàng. 2.2 Hình thức mua bán hàng hoá “Mua bán hàng hoá là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và nhận tiền; người mua
  18. có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thoả thuận của hai bên” (Điều 46, mục II, Luật Thương mại). Như vậy, hoạt động kinh doanh của công ty dưới hình thức mua bán hàng hoá là mọi hoạt động công ty trực tiếp đứng ra thương lượng, trao đổi hàng hoá với người mua nếu công ty bán hàng hoặc với người bán nếu công ty đi mua hàng. Việc mua bán hàng hoá sẽ dựa trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng mua bán hàng hoá có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Nội dung của hợp đồng thường có các nội dung chủ yếu sau: tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm thời gian giao hàng… Quá trình thực hiện cuộc mua bán bắt đầu bằng việc chào hàng của bên đề nghị giao kết hợp đồng, có thể là công ty hoặc là khách hàng. Chào hàng bao gồm chào hàng bán và chào hàng mua. Chào hàng bán là việc công ty hoặc khách hàng gửi thư chào hàng ghi rõ những loại hàng hoá mà mình muốn bán đến đối tượng khách hàng mục tiêu. Chào hàng mua là việc công ty hoặc khách hàng gửi thư ghi rõ những loại hàng hoá mà mình muốn mua từ phía đối tác. Sau việc chào hàng, nếu công ty hoặc khách hàng chấp nhận chào hàng thì sẽ thông báo với đối tác đề nghị kí hợp đồng, nếu muốn kí hợp đồng nhưng không đồng ý với tất cả những điều khoản trong đơn chào hàng thì hai bên tiến hành thương lượng sửa đổi, bổ sung những nội dung chủ yếu khác, nếu không muốn kí hợp đồng thì đơn chào hàng tự động hết hiệu lực khi hết thời hạn qui định. Sau việc chấp nhận kí hợp đồng, quá trình thực hiện hợp đồng được thực hiện theo đúng những điều kiện đã thoả thuận trong hợp. Sau khi hàng hoá đã được trao cho bên mua và bên bán nhận được tiền thì hợp đồng hết hiệu lực. Với hoạt động kinh doanh trong nước dưới hình thức mua bán hàng hoá, công ty kinh doanh rất nhiều chủng loại hàng hoá như hàng lương thực thực phẩm, hàng thủy sản, các loại vật liệu xây dựng, hoá chất, phân bón, hàng tiêu dùng…Trong các hợp đồng mua bán, công ty chủ yếu kí kết mua bán những lô hay gói hàng có giá trị lớn theo hình thức bán sỉ chứ không bán lẻ đơn vị hàng hoá. Đối tượng khách hàng của công ty ở đây chủ yếu là các cửa hàng bán lẻ, các cơ sở sản xuất, các hợp tác xã, các nhà thầu xây dựng thường mua hàng với khối lượng lớn. Mối quan hệ của công ty với khách hàng có thể là mối quan hệ cung ứng một lần hoặc là khách hàng thường xuyên của công ty. Về đối tác cung ứng, đối tác cung ứng sản phẩm cho công thường là những nhà sản xuất lớn trong nước, các tổ chức
  19. bán sỉ lớn. Mối quan hệ của công ty với các nhà cung cấp này thường là mối quan hệ lâu dài, truyền thống. Chương II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY VILEXIM I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY VILEXIM 1. Môi trường hoạt động kinh doanh của Công ty “Môi trường hoạt động kinh doanh hay môi trường marketing của công ty là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực lượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động hoặc các quyết định của bộ phận marketing trong doanh nghiệp, đến khả năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng”. Môi trường marketing của công ty bao gồm môi trường marketing vi mô và môi trường marketing vĩ mô. “Môi trường vi mô bao gồm các yếu tố liên quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng của doanh nghiệp khi phục vụ khách hàng” như các nhân tố nội tại của công ty, thị
  20. trường khách hàng, người cạnh tranh…Tất cả những yếu tố thuộc môi trường vi mô này đã được giới thiệu ở chương I, phần tổng quan về công ty. Trong phần này chỉ xem xét đến môi trường marketing vĩ mô, đó là “môi trường tập hợp các yếu tố, các lực lượng mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộ môi trường marketing vi mô và tới các quyết định marketing của công ty”. Khác với các yếu tố thuộc môi trường vi mô nằm trong vòng kiểm soát, điều chỉnh của công ty, các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô là tập hợp tất cả những yếu tố mà công ty không thể kiểm soát và thay đổi được. Các yếu tố này bao gồm các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và nhân khẩu, môi trường công nghệ và tự nhiên, môi trường chính trị và luật pháp, môi trường văn hoá xã hội. 1.1 Môi trường nhân khẩu Hiện nay, qui mô dân số của nước ta trên 80 triệu người với tốc tăng 2,3% mỗi năm. Với qui mô và tốc độ này, nước ta là một trong những nước có dân số cao nhất thế giới. Dân cư đông đã dẫn đến nhu cầu tiêu dùng của nhân dân ta rất lớn. Một đòi hỏi khách quan là nền sản xuất của nước ta sẽ phải tiếp tục được mở rộng để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Chính vì điều này, trong những năm trở lại đây, số lượng các xí nghiệp, nhà máy, các cơ sở sản xuất sản xuất nguyên vật liệu phục vụ cho các quá trình sản xuất tiếp theo và hàng hoá tiêu dùng cho nhân dân, các doanh nghiệp thương mại hỗ trợ cho việc lưu thông, đưa hàng hoá đến tận tay người tiêu dùng của nhân dân đã tăng lên rất nhiều. Khối lượng hàng hoá theo đó cũng tăng lên rất lớn, đáp ứng được phần nào nhu cầu tiêu dùng cho nhân dân, cho sản xuất và cho xuất khẩu. Đặc biệt, nhờ có chính sách luôn luôn chú trọng phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta, nên khâu lương thực thực không chỉ đáp ứng được nhu cầu ở trong nước mà còn phát triển xuất khẩu ra nước ngoài. Điển hình là nước ta là nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu cà phê. Mặc dùng vậy, những loại hàng hoá xa xỉ, có tính thẩm mỹ cao, những loại hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao thì vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trong nước. Một khía cạnh của nhân khẩu học là cơ cấu tuổi của dân số, nước ta thuộc được xếp vào loại những nước có cơ cấu dân số trẻ trên thế giới. Vì vậy, nhu cầu các mặt hàng phục vụ cho giới trẻ như thiết bị, các đồ dùng dạy học, các loại sản phẩm thời trang, các thiết bị giúp giải trí … tăng lên rất mạnh. Mặt khác, hiện dân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2