intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ AN TOÀN CỦA CÁC KHOẢN TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:41

83
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

. Bảo đảm tiền vay là việc bảo về quyền lợi của người cho vay dưa trên cơ sở thế chấp cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thư ba. Các ngân hàng và các định chế tài chính khác coi bảo đảm tiền vay là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Nếu cho vay kinh doanh thì nguồn thu nợ thứ nhất là từ doanh thu thực tế (cho vay ngắn hạn) hoặc khấu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ AN TOÀN CỦA CÁC KHOẢN TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN

  1. Luận văn MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ AN TOÀN CỦA CÁC KHOẢN TÍN DỤNG CÓ BẢO ĐẢM CỦA DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
  2. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY 1.1. KHÁI NIỆM BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY. 1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay. Bảo đảm tiền vay là việc bảo về quyền lợi của người cho vay dưa trên cơ sở thế chấp cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thư ba. Các ngân hàng và các định chế tài chính khác coi bảo đảm tiền vay là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Nếu cho vay kinh doanh thì nguồn thu nợ thứ nhất là từ doanh thu thực tế (cho vay ngắn hạn) hoặc khấu hao và lợi nhuận (cho vay trung và dài hạn). Còn trong cho vay tiêu dùng thì nguồn thu nợ thứ nhất là các khoản thu nhập các nhân như tiền lương, lợi tức từ cổ phiếu, trái phiếu. Tất cả các nguồn thu nợ thứ nhất đều được thể hiện dưới dạng lưu chuyển tiền tệ của người đi vay. Thực tế trong môi trường kinh doanh đầy biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt thì có thể có nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không được thực hiện, nếu không có nguồn bổ sung tất yếu thì TCTD sẽ gặp rủi ro. Chính vì thế, các ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có bảo đảm cần thiết đó chính là bảo đảm tiền vay. 1.1.2. Biện pháp bảo đảm tiền vay. Theo Thông tư 06/NHNN1 thì có hai biện pháp bảo đảm tiền vay: 1.1.2.1. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Theo loại hình cho vay này, thì khách hàng không cần phải có bảo đảm bằng tài sản cho món vay của mình, khách hàng thường là khác truuyền thống có quan hệ tín dụng lành mạnh có uy tín với ngân hàng. Theo loại hình cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thì lại được chia thành 3 loại như sau: a) Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản do TCTD lựa chọn. Theo phương thức này, ngân hàng chỉ áp dụng với những khách hàng lớn có uy tín và quan hệ lâu năm với ngân hàng. Khách hàng có nguồn thu ổn
  3. định lưu chuyển tiền tệ thuần dương thì các ngân hàng ít khi yêu cầu khách hàng thuộc nhóm này có bảo đảm tiền vay. Hiện nay những Tổng công ty 90, 91 các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi thì ít hoặc hiếm khi đưa ra biện pháp bảo đảm tiền vay khi tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng vì họ có dòng tiền thường xuyên ra và vào ngân hàng với số lượng lớn. Ngân hàng không yêu cầu các cơ quan này có bảo đảm tiền vay vì việc thu hút khách hàng nhóm này là chiến lược của các ngân hàng. b) Cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. Khi có chỉ định của Chính phủ hay nói theo cách khác đối với những món vay được Chính phủ bảo lãnh thì mức độ an toàn là rất cao nên NH thường cho vay mà không yêu cầu có tài sản bảo đảm. Chính phủ là cơ quan quản lý của ngân hàng Trung ương mà ngân hàng Trung ương lại là cơ quan quản lý của NHTM vì thế những món vay có Chính phủ bảo đảm là rất an toàn hơn thế nữa nó thể hiện quan hệ cấp trên đối với cấp dưới. c) Cho vay cá nhân hộ gia đình nghèo có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể. Loại hình cho vay này áp dụng phổ biến trong lĩnh vực cho vay hộ nông dân. Trong phạm vi chuyên đề tốt nghiệp này chúng ta không đề cập đến loại hình cho vay này. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được áp dụng không rộng rãi trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam do đó chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này mà chỉ điểm qua các loại hình cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà tập trung vào cho vay có bảo đảm bằng tài sản. 1.1.2.2. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Đối với loại hình cho vay này khách hàng cần có tài sản thuộc sở hữu của chính mình để cầm cố thế chấp tại ngân hàng hoặc có thể được bảo lãnh bằng tài sản từ bên thứ 3 hoặc cũng có thể sử dụng tài sản từ tiền vay để bảo đảm cho món vay của mình. Nói chung bất kỳ tài sản hay quyền về tài sản được giao dịch mà có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ thì đều được làm bảo đảm. Tuy nhiên dưới góc
  4. độ người cho vay tổ chức tín dụng sẽ xét cho vay những món vay mà bảo đảm phải có ba đặc trưng. * Giá trị bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm. Nghĩa vụ được bảo đảm gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ trường hợp các bên thoả thuận lãi và các chi phí không thuộc phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bảo đảm tín dụng không chỉ mang ý nghĩa là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng mà nó còn có ý nghĩa thúc giục người đi vay phải trả nợ đúng hạn nếu không tài sản của họ sẽ bị phát mại đồng nghĩa với việc họ sẽ mất tài sản. Nếu như giá trị của bảo đảm nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm người đi vay sẽ có động cơ không trả nợ. Đặc trưng này được thể hiện rất rõ thông qua mức cho vay của tổ chức tín dụng với một khách hàng có bảo đảm. Mức cho vay mà tổ chức tín dụng xác định thường chỉ đạt tới 70% giá trị của bảo đảm. Chẳng hạn như nếu giá trị quyền sử dụng đất là 100 triệu thì mức cho vay không vượt quá 70 triệu. * Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ. Đặc trưng này thể hiện tính lỏng của tài sản, mức độ chuyển tài sản thành tiền là nhanh hay chậm, dễ dàng hay không dễ dàng. Nhìn chung mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Người cho vay khó chấp nhận tài sản khó bán. Tài sản có mức độ thanh khoản trung bình có thể được chấp nhận nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. * Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên và xử lý tài sản. Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau: tài sản sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bảo lãnh, được pháp luật cho phép giao dịch và có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng - chủ thể cho vay - được quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn. a) Cho vay bảo đảm bằng cầm cố thế chấp tài sản của khách hàng. a.1. Cho vay cầm cố tài sản của khách hàng. Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho bên thứ 3 giữ. Những tài sản nếu không có đăng ký quyền sở hữu thì những tài sản đó phải chuyển cho bên cho vay giữ. Thông thường ngân hàng thường cầm cố
  5. hàng hoá, giấy tờ có giá vì chúng dễ dàng chuyển thành tiền mặt để thanh toán đủ nợ gốc lãi và lãi quá hạn cho ngân hàng. Đối với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản có thể giao cho bên cho vay hoặc thoả thuận để bên đi vay sử dụng tài sản nhưng giấy tờ đăng ký quyền sở hữu do ngân hàng hoặc bên thứ ba giữ. Tài sản cầm cố là các giấy tờ có giá trị, kim loại quý, đá quý thì ngân hàng cần phải thận trọng vì có thể bị giả mạo. Ngân hàng cần xem xét tính hợp pháp của cơ sở cấp giấy tờ đó. Cho vay cầm cố tài sản là loại hình cho vay thủ tục đơn giản và ít rủi ro. Ngân hàng hiện nay thường chuộng loại hình thức cho vay này đặc biệt là cầm cố bằng giấy tờ có giá. a.2. Cho vay có bảo đảm bằng thế chấp tài sản của khách hàng. Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ với bên cho vay. Theo quy định của Luật dân sự và Luật đất đai thì có hai loại thế chấp: thế chấp bất động sản và thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. * Thế chấp bất động sản. Bất động sản là tài sản không di dời được (nhà ở, cơ sở sản xuất kinh doanh). Ngoài ra còn có cả hoa lợi lợi tức, khoản tiền bảo hiểm phát sinh từ bất động sản thế chấp. * Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện giao đất hoặc cho thuê đất đối với các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế sử dụng ổn định lâu dài. a.3. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên bảo lãnh. Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản là bên bảo lãnh phải có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản được thực hiện theo biện pháp cầm cố hoặc thế chấp tài sản. Thực chất đây là hình thức bảo đảm kép nhằm đề phòng khi người bảo lãnh không thực hiện được đúng nghĩa vụ thì ngân hàng có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh. a.4. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Hình thức bảo đảm này thường là thế chấp tài sản. Khách hàng được xét cho vay phải là khách hàng có uy tín, thời hạn của khoản vay thường là trung dài hạn. Thông thường chỉ những doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực sự có uy tín mới được xét cho vay theo hình thức này.
  6. 1.2. NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM TIỀN VAY, THỦ TỤC HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM. 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay. Tổ chức tín dụng là người được ra yêu cầu bảo đảm tiền vay đối với khách hàng. Và khi thực hiện cho vay một món vay, tổ chức tín dụng đưa ra bốn nguyên tắc bảo đảm tiền vay sau: Thứ nhất, tổ chức tín dụng quyết định cho vay có bảo đảm hay không có bảo đảm do đó tổ chức tín dụng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tổ chức tín dụng dựa trên quan hệ của mình với khách hàng để xem xét yêu cầu của mình với khách hàng để xem xét có yêu cầu bảo đảm hay không. Nếu tổ chức tín dụng tự thấy khách hàng có uy tín lâu năm, có quan hệ tín dụng lành mạnh thì có thể cấp tín dụng mà không yêu cầu bảo đảm. tổ chức tín dụng hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi cho vay không có bảo đảm của mình. Nếu có rủi ro thì tổ chức tín dụng phải hoàn toàn tự cân đối để giảm thiểu ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của mình và của toàn hệ thống. Thứ hai, là khi cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà bên đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc có dấu hiệu vi phạm hợp đồng tín dụng thì tổ chức tín dụng yêu cầu khách hàng phải có biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu nợ trước hạn. Sau khi phát tiền vay, tổ chức tín dụng tiến hành giám sát tín dụng. Giám sát tín dụng là đánh giá mức độ chấp hành hợp đồng tín dụng của khách hàng. Trong quá trình giám sát, tổ chức tín dụng mà thấy bất kỳ dấu hiệu rủi ro nào thì phải có biện pháp nhắc nhở hoặc sử dụng biện pháp mạnh (như nêu trên) để đảm bảo khoản tín dụng đó an toàn có chất lượng. Thứ ba, là tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh khoản cho khoản nợ (gốc + lãi). Tổ chức tín dụng không phải hỏi ý kiến của chủ tài sản vì tổ chức tín dụng được phép làm như thế là do điều khoản đó đã được ghi trong hợp đồng bảo đảm và được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng và được Chính phủ cho phép xử lý theo NĐ178.
  7. Thứ tư, sau khi đã xử lý bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. Điều này xảy ra khi số tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo chưa đủ để thanh toán nợ vay. Trong trường hợp này tổ chức tín dụng vẫn có quyền truy đòi người đi vay số còn thiếu hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. 1.2.2. Thủ tục hợp đồng bảo đảm. 1.2.2.1. Hợp đồng bảo đảm. Kèm theo với hợp đồng tín dụng thì có một hợp đồng rất quan trọng đó là hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm xét về nguyên tắc thì phải lập thành hợp đồng riêng, nhưng cũng có trường hợp không cần phải lập thành một hợp đồng riêng mà chỉ ghi chung vào hợp đồng tín dụng. Chẳng hạn ở hệ thống Ngân hàng công thương thì việc cầm cố tài sản là giấy tờ có giá thì giám đốc chi nhánh có thể xem xét không cần lập hợp đồng cầm cố riêng mà có thể ghi chung vào hợp đồng tín dụng (Công văn 1472/CV - NHCT5) Tuy nhiên đối với trường hợp thế chấp (thế chấp giá trị quyền sử dụng đất) và bảo lãnh thì bắt buộc phải lập hợp đồng bảo lãnh riêng, thành văn bản riêng. 1.2.2.2. Việc công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc công chứng hay không công chứng tài sản bảo đảm là do các bên thoả thuận với nhau. Việc giao dịch bảo đảm có phải đăng ký hay không được quy định tại nghị định 08/NĐ-CP. Thông thường các loại hình cho vay bằng hình thức cầm cố chứng khoán ít khi đòi hỏi phải có đăng ký, vì bản thân chứng khoán ghi danh, không ghi danh đều có tên số tiền và được ghi trong hợp đồng tín dụng. Tuy vậy, nhưng trường hợp sau đây pháp luật quy định bắt buộc phải đăng ký tài sản bảo đảm đó là: các tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản bảo đảm giao cho bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ (Nghị định 08/2000/NĐ-Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm).
  8. Trong hệ thống Ngân hàng công thương thì theo tinh thần Công văn 1219/NHCT5 thì Ngân hàng công thương giao cho các chi nhánh xem xét thoả thuận với khách hàng có chứng thực tài sản hay không. Đối với tài sản là giá trị quyền sử dụng đất thì việc đăng ký giao dịch được thực hiện tại Sở Địa chính nhà đất tỉnh hoặc thành phố nơi ngân hàng có giao dịch với khách hàng. 1.2.2.3. Việc chuyển giao tài sản bảo đảm. Đối với tài sản cầm cố là chứng khoán, giấy tờ có giá thì sau khi hợp đồng tín dụng được đăng ký thì các chứng từ đó sẽ chuyển cho ngân hàng bảo quản. Bên đi vay được ngân hàng giải ngân. Đối với tài sản cầm cố là máy móc thiết bị không gắn liền với nhà xưởng đất đai (động sản) mà lại cũng không có chứng nhận quyền sở hữu thì theo Thông tư liên tịch 12/2000/TTLT-NGNN-BTP-BTC-TCĐC quy định: nếu tổ chức tín dụng nhận cầm cố thì doanh nghiệp phải có giấy chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền quản lý sử dụng đối với các doanh nghiệp và phải giao cho tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy tờ này. Khi cơ quan đăng ký quốc gia thành lập sẽ tiến hành việc đăng ký giao dịch theo quy định của Chính phủ. Các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản với tài sản là hợp đồng mua bán cho tặng tài sản, hợp đồng theo quy định của Bộ Tài chính, chứng từ nộp tiền, văn bản giao tài sản, biên bản nghiệm thu công trình và các giấy tờ khác kèm theo. Đối với tài sản thế chấp không phải là giá trị quyền sử dụng đất thì tổ chức tín dụng thực hiện như đối với tài sản cầm cố. Còn đối với tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất thì tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tránh trường hợp khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp cho nhiều món vay tại nhiều tổ chức tín dụng mà tổng giá trị tài sản lại nhỏ hơn tổng giá trị nghĩa vụ.(Hiện nay theo Nghị định 178 thì một tài sản chỉ được thế chấp tại một TCTD) 1.2.2.4 Định giá tài sản bảo đảm. Về nguyên tắc, việc định giá tài sản bảo đảm phải theo giá thị trường. Nếu định giá cao hơn thị trường có thể dẫn đến khi phát mãi tài sản (hoặc chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng) trong trường hợp khách hàng không trả
  9. nợ, Ngân hàng không thu hồi đủ nợ gốc lãi và chi phí khác. Nếu định giá thấp hơn giá thị trường sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh của ngân hàng. Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm phải được thực hiện tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm, việc xác định này chỉ làm cơ sở để xác định mức cho vay của tổ chức tín dụng chứ không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Việc xác định phải được lập thành văn bản kèm theo hợp đồng bảo đảm. Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất là vấn đề rất phức tạp. Đó là do trong điều kiện Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý nhưng pháp luật cho phép người sử dụng đất do Nhà nước giao hoặc cho thuê được quyền thế chấp. Do đó, khi nhận bảo đảm ngân hàng phải xác định giá trị quyền sử dụng đất và giá trị của hợp đồng thuê đất. Hiện nay giá trị quyền sử dụng đất có 2 loại giá khác nhau đó là giá thị trường và giá theo quy định của Nhà nước. Khi xác định giá trị tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng cần xem xét trên cơ sở giá thị trường có sự tham khảo mức giá quy đinh của Nhà nước. Hai loại giá này thường không khớp nhau, mức giá thị trường thường cao hơn mức giá do Nhà nước quy định rất nhiều. Đây chính là điểm bất cập khi xét cấp tín dụng cho món vay có bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất. Đối với đất do Nhà nước cho thuê, giá trị quyền sử dụng đất được xác định trên cơ sở tiền thuê đã trả cho Nhà nước sau khi trừ đi tiền thuê đã trả cho thời gian đã sử dụng và cộng thêm tiền đền bù thiệt hại khi được Nhà nước cho thuê đất nếu có. Đối với tài sản bảo đảm không phải giá trị quyền sử dụng đất thì các bên có thể thoả thuận về giá trị của tài sản hoặc thuê tổ chức tư vấn có chuyên môn xác định giá trị trên cơ sở giá trị thị trường tại thời điểm xác định có tham khảo giá quy định của Nhà nước giá trị còn lại trên sổ sách và các yếu tố khác về giá. Việc định giá tài sản bảo đảm là vấn đề phức tạp. Vì vậy để định giá chính xác phải tổ chức theo hướng chuyên môn hoá về nghiệp vụ định giá tài sản bảo đảm.
  10. Đối với món vay lớn thì chi nhánh ngân hàng phải thành lập tổ thẩm định. Theo hệ thống ngân hàng công thương thì đối với một mốn vay lớn bắt buộc phải lập tổ thẩm định tài sản bảo đảm bao gồm những thành viên sau:  1 đồng chí trong ban giám đốc chi nhánh.  1 đồng chí trưởng hoặc phó phòng kinh doanh.  2 cán bộ phòng kinh doanh. Trong trường hợp mức cho vay hơn 100 triệu thì chi nhánh xem xét quyết định lập hay không lập tổ thẩm định tài sản bảo đảm phù hợp với thực tế tại chi nhánh như việc xác lập phải lập thành văn bản. (Công văn 1219 và 1472/CV-NHCT5) Sở dĩ phải quy định như trên vì nếu địa bàn của ngân hàng khác nhau sẽ ảnh hưởng đến chất lượng khoản tín dụng. Chẳng hạn ở địa bàn thành phố thì món vay < 100 triệu ta không cần phải phải lập tổ thẩm định nhưng nếu ngân hàng và khách hàng ở địa bàn nông thôn thì món vay gần 100 triệu phải thành lập tổ thẩm định tài sản bảo đảm. 1.3. XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM. 1.3.1. Trường hợp khách hàng phải trả nợ đúng hạn và đầy đủ. Đối với ngân hàng với tư cách là chủ nợ việc xử lý tài sản bảo đảm phải đảm bảo thoả mãn tốt nhất hai yêu cầu sau: - Số tiền thanh toán là giá bán sau khi đã trừ hết chi phí phải ở mức giá bán sát giá thị trường ở thời điểm tốt nhất với chi phí thấp nhất. - Thời gian xử lý tài sản: Cần phải xử lý nhanh tài sản nếu sử lý chậm sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng vì hai lý do sau:  Ngân hàng không thu được lãi tiền vay trong khi vẫn phải trả lãi tiền gửi do vốn bị đóng băng  Kéo dài thời gian gây tốn kém chi phí và giảm giá trị tự nhiên của tài sản. Hợp đồng bảo đảm không có thời hạn riêng mà thời hạn của nó phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng. Điều này nghĩa là khi người đi vay thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ được đảm bảo bằng tài sản thì thời hạn thế chấp chấm dứt.
  11. Sau khi người đi vay trả hết nợ (vốn gốc + lãi) ngân hàng sẽ trả lại giấy chứng nhận sở hữu tài sản thế chấp cho người vay và lập giấy xác nhận giải toả tài sản bảo đảm gửi đến cơ quan đơn vị có liên quan. 1.3.2. Trường hợp khách hàng không trả được nợ khi đến hạn. Trong trường hợp này ngân hàng xem xét liệu tình hình tài chính của khách hàng có thể được cải thiện theo hướng tốt hay không. Nếu được, thì các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm chưa cần phải áp dụng, ngân hàng tổ chức tư vấn lập giải pháp ngăn ngừa khoản nợ xấu, và tiếp tục theo dõi. Nếu như biện pháp này được thực hiện và thành công thì ngân hàng vừa giúp cho khách hàng và cũng là giúp cho mình. Ngân hàng không phải bao giờ cũng thành công trong việc giúp khách hàng vì như thế ngân hàng chịu thiệt vì vốn bị đóng băng. Một trong những giải pháp mà ngân hàng áp dụng đó là tiến hành xử lý bảo đảm tiền vay. 1.3.2.1. Xử lý tài sản cầm cố. a. Xử lý tài sản tài chính và các quyền về tài sản. Tài sản tài chính là các giấy tờ có giá, tiền gửi hoặc tiền ký quỹ tại các tổ chức tín dụng, các quyền về tài sản như các khoản phải thu trong thương mại, nhận thầu xây dựng. Thông thường tài sản tài chính do ngân hàng nắm giữ, khi buộc phải xử lý thì ngân hàng dựa vào những thoả thuận trong hợp đồng tín dụng để xử lý tài sản tài chính đó để thu nợ cho ngân hàng. Đối với tài sản tài chính, ngân hàng có thể xử lý theo một số cách sau: a.1. Ký hậu bỏ trống các giấy tờ có giá trị bằng tiền. Điều này được áp dụng với những loại giấy tờ có giá có thể ký hiệu được khi nhận cầm cố ngân hàng yêu cầu khách hàng ký hiệu bỏ trống tên người thụ hưởng. Khách hàng mà không trả được nợ, ngân hàng sẽ tự động điền tên mình vào chỗ tên người thụ hưởng để được quyền nhận số tiền từ tài sản này. Nếu tài sản tài chính có thể bán trên thị trường tiền tệ thì ngân hàng sẽ bán để thu hồi nợ. a.2. Cam kết uỷ quyền cho ngân hàng được quyền xử lý để thu hồi nợ. Cách này được áp dụng đối với các loại tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền ký quỹ và các loại khác. Đến hạn cam kết nếu khách hàng chưa trả được nợ thì ngân hàng tiến hành thu hoặc trích từ nguồn tiền này để trả nợ.
  12. Đây là cách được các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng rộng rãi và yêu thích. Đối với khách hàng có tiền gửi kỳ hạn nhưng chưa đến hạn rút tiền mà có nhu cầu chi tiêu lại không muốn mất khoản tiền lãi thì đây là phương thức cấp tín dụng được ưa chuộng (cả ngân hàng và khách hàng). a.3. Yêu cầu toà án xử lý để truy đòi nợ trong trường hợp có dấu hiệu tranh chấp hoặc lừa đảo. b. Xử lý tài sản vật chất. Trường hợp tài sản cầm cố không cần đăng ký sở hữu hoặc lưu hành (hàng hoá, vật liệu, đồ dùng gia đình) thì theo luật pháp quy định nếu không có thoả thuận trong trường hợp cầm cố, hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ cầm giữ tài sản và khi đến hạn đã cam kết mà khách hàng không trả nợ xong nợ, ngân hàng có quyền xử lý tài sản cầm cố theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của Thông tư liên tịch số 03. Trường hợp tài sản cầm cố phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký lưu hành thì được xử lý như tài sản thế chấp nêu dưới đây. 1.3.2.2. Xử lý tài sản thế chấp. Việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện theo nguyên tắc đồng thoả thuận hoặc theo phán quyết của toà án. Hai bên có thể thoả thuận trong hợp đồng cách thức xử lý tài sản thế chấp. Chẳng hạn, trong hợp đồng thế chấp có thể ghi điều khoản khi bên đi vay không trả được nợ thì tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu của bên cho vay hoặc hai bên có thể thỏa thuận ngay khi xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên trên thực tế thường xảy ra những bất đồng về giá giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Trong trường hợp này, theo Nghị định 178 tổ chức tín dụng được quyền quyết định giá bán tài sản để thu hồi nợ. Trước khi tổ chức tín dụng quyết định giá xử lý tài sản thế chấp, tổ chức tín dụng thuê công ty tư vấn, tổ chức chuyên chuyên môn xác định, tham khảo giá thực tế tại địa phương, tại thời điểm thanh lý, tham khảo giá quy định của Nhà nước và các yếu tố khác về giá. Nếu tài sản có tranh chấp và khởi kiện thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quyết định của toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc xử lý tài sản thế chấp có thể được thực hiện qua một số cách sau: - Trực tiếp bán tài sản thế chấp cho người mua (trừ trường hợp tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất). - Ngân hàng nhận tài sản thế chấp thay thế cho nghĩa vụ trả nợ.
  13. - Bán tài sản thế chấp thông qua tổ chjức dịch vụ bán đấu giá như trung tâm bán đấu giá và doanh nghiệp bán đấu giá. - Yêu cầu toà án cho phép phát mại tài sản thế chấp để trả nợ vay ngân hàng. 1.4. RỦI RO BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ HÌNH THỨC BẢO ĐẢM NGÂN HÀNG ƯA CHUỘNG. 1.4.1. Rủi ro bảo đảm tiền vay. Khi tổ chức tín dụng yêu cầu người được vay phải có bảo đảm để hạn chế ngăn ngừa rủi ro tín dụng nhưng chính những bảo đảm tín dụng ấy cũng tiềm ẩn rủi ro. 1.4.1.1. Rủi ro với tài sản cầm cố. Đối với tài sản cầm cố là tài sản không có đăng ký quyền sở hữu, ngân hàng rất khó quản lý chúng vì thực tế kho của ngân hàng có diện tích có hạn mà các khoản vay lại nhiều. Do đó, ngân hàng thường quản lý tại kho của khách hàng hoặc thuê kho của bên thứ ba. Trong trường hợp này, mặc dù ngân hàng là người duy nhất giữ chìa khoá kho hàng hoá và bảng niêm phong kho mang tên ngày hàng nhưng ngân hàng vẫn không chắc chắn được về chất lượng tài sản cũng như an toàn tài sản. Hơn nữa, phí thuê kho lại cao, do đó, mặc dù là phương thức tương đối an toàn, nhưng chỉ nên áp dụng với hàng hoá mới mua hoặc nhập khẩu được thị trường chấp nhận. Đối với tài sản tài chính và quyền tài sản thì các ngân hàng nên lưu ý đây là giấy tờ có giá và cẩn trọng với giấy tờ chứng chỉ có giá khống. 1.4.1.2. Rủi ro tài sản thế chấp. Đối với tài sản thế chấp là tài sản bất động sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị. Mặc dù những tài sản đều do ngân hàng nắm giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu những vẫn không an toàn. Giá trị tài sản bị hao mòn hữu hình và vô hình, thị trường tiêu thụ loại tài sản này không rộng rãi như thị trường hàng hoá nguyên vật liệu trong cầm cố. Đối với tài sản cầm cố là giá trị quyền sử dụng đất thì rủi ro nằm ở cả phía thị trường và Nhà nước. Khi thị trường tiền tệ không đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư thì họ sẽ chuyển sang lĩnh vực đất đai, điều này làm cho giá cả đất biến động nên việc định giá tài sản của ngân hàng có khả năng không chính xác hoặc giá cao hơn giá thị
  14. trường, ảnh hưởng đến an toàn của khoản tín dụng, hoặc thấp hơn giá trị thị trường ảnh hưởng đến mức cho vay của ngân hàng, do đó chiến lược khách hàng bị ảnh hưởng. Hoặc khi có quy hoạch của Chính phủ thì tài sản thế chấp lúc mang đi thế chấp thì là tài sản hợp pháp nhưng do có quy hoạch thì tài sản đó lại trở thành tài sản bất hợp pháp. Điều này gây thiệt hại lớn cho ngân hàng vì người đi vay sẽ có động cơ không trả nợ và tài sản lại không thể xử lý để thu hồi nợ. 1.4.1.3. Rủi ro của hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh. Đối với trường hợp bảo lãnh đối vật thì mức độ rủi ro tương tự như các hình thức bảo đảm bằng tài sản. Đối với trường hợp bảo lãnh đối nhân thì rủi ro xảy ra khi người bảo lãnh chết, pháp nhân bảo lãnh chấp dứt hoạt động hoặc bên bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ cam kết. Theo quy định của luật dân sự, trong thế chấp hoặc cầm cố nếu bên thế chấp cầm cố chấm dứt (cá nhân chết hoặc pháp nhân chấm dứt hoạt động) thì việc thế chấp cầm cố vẫn có hiệu lực đối với bên chủ nợ. Trái lại trong bảo lãnh nếu bên bảo lãnh chấm dứt thì chấm dứt việc bảo lãnh. Đây là một vấn đề mà ngân hàng cần phải quan tâm. 1.4.2. Các hình thức bảo đảm được ngân hàng ưa chuộng. 1.4.2.1. Cầm cố giấy tờ có giá do các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam phát hành và chứng khoán Chính phủ. Các ngân hàng yêu thích hình thức bảo đảm này vì nó dễ dàng thẩm định, dễ dàng thu hồi nợ khi khách hàng không trả được. Việc ra quyết định cho vay vì thế mà cũng dễ dàng hơn. Các giấy tờ có giá này có sự đảm bảo chắc chắn là sẽ được thanh toán và nó chỉ lỏng hơn tiền mặt một chút. Ngân hàng vì thế rất ưa thích loại hình cho vay này. 1.4.2.2. Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Hầu hết các khoản vay có bảo đảm tại các ngân hàng được bảo đảm bằng hình thức thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Các ngân hàng thường áp dụng hình thức này một phần vì tài sản lớn của người dân với tài sản là rất cao. Do đó khi ngân hàng cấp tín dụng thì rất an tâm vào sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng.
  15. CHƯƠNG 2 QUY CHẾ ĐẢM BẢO TIỀN VAY VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN 2.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN 2.1.1. Sự hình thành ngân hàng công thương Thanh Xuân. Quận Thanh Xuân được thành lập từ đầu năm 1997 là địa bàn có thế mạnh về sản xuất công nghiệp, có tiềm năng để mở rộng thị trường tiền tệ tín dụng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn, cung ứng vốn tiền tệ dịch vụ. Thanh toán góp phần tạo môi trường giúp các doanh nghiệp, thành phần kinh tế trên địa bàn phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Ngày 08/03/1997 Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ra quyết định thành lập số 17/HĐQT-QĐ về việc thành lập Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 22/04/1997. Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân ra đời đánh giá sự phát triển không ngừng của cuộc đổi mới kinh tế đất nước nói chung, sự phát triển hoạt động kinh doanh, dịch vụ tiền tệ, thanh toán của hệ thống ngân hàng công thương nói riêng. Từ phòng một giao dịch chủ yếu huy động tiết kiệm và cho vay thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh được nâng cấp thành chi nhánh trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam với chức năng hoạt động đầy đủ của chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh đóng trên địa bàn quận Thanh Xuân. Ngay từ khi thành lập, chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã đối mặt với những thử thách lớn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng do "sinh sau đẻ muộn" các đơn vị tổ chức kinh
  16. tế đều đã quan hệ lâu đời và mật thiết với các tổ chức tín dụng lớn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mặt khác tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn do năng lực tài chính yếu, kỹ thuật công nghệ thiếu đồng bộ và lạc hậu, thiếu vốn đầu tư, công nợ lớn ở nhiều đơn vị nên có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh dịch vụ của Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân. Do cho nhánh mới thành lập nên cơ sở vật chất vẫn cón chật hẹp, lượng khách hàng đến giao dịch vẫn chưa nhiều, dư nợ cho vay còn thấp. Để khắc phục tình trạng trên Đảng uỷ, Ban giám đốc Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã xây dựng phương hướng kinh doanh và các biện pháp để triển khai nhiệm vụ kinh doanh của các năm sau đó, lấy mục tiêu "hiệu quả kinh doanh gắn với an toàn vốn" là tư tưởng chỉ đạo để động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh đề ra và của cấp trên giao cho Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân. 2.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng công thương Thanh Xuân. a) Về thuận lợi: Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân hoạt động trên địa bàn quân Thanh Xuân có thế mạnh sản xuất công nghiệp, có tiềm năng mở rộng thị trường. Được sự quan tâm của Ban lãnh đạo ngân hàng công thương Việt Nam đến tháng 3/1999 Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân hoàn toàn tách ra khỏi ngân hàng công thương Đống Đa trở thành chi nhánh trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam. Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã mở rộng hoạt động kinh doanh bằng nhiều hình thức như mở rộng thêm các quỹ tiết kiệm để huy động tăng nguồn vốn cho chi nhánh, mở rộng mạng lưới Marketing. Sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất, đổi mới phong cách làm việc văn minh lịch sự, tận tình với khách, đã gây được niềm tin cho khách hàng. b) Khó khăn: Tuy là quận có tiềm năng về công nghiệp nhưng là một Chi nhánh vừa mới thành lập nên gặp rất nhiều khó khăn, khách hàng ít và không có khách hàng truyền thống, đội ngũ cán bộ công nhân viên phần lớn là sinh viên vừa mới ra trường chưa có kinh nghiệm,phần còn lại là một số cán bộ từ ngân hàng khác chuyển về nên trình độ của cán bộ vẫn cón bất cập với nhau.
  17. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn như trên, nhưng trong những năm qua Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã khắc phục cơ bản những khó khăn tồn tại đó. Đảng uỷ cùng với Ban lãnh đạo luôn đi sâu, đi sát nắm bắt tình hình của các đơn vị có mở tài khoản tại ngân hàng, qua đó nắm được tình hình vay vốn của đơn vị. Mặc dù lãi cho vay và nhận tiền gửi trong những năm gần đây liên tục giảm, chênh lệch đầu vào và đầu ra ngày càng thu hẹp, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra quyết liệt. Nhưng với những biện pháp kinh doanh tích cực Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã quyết tâm thực hiện mục tiêu "ổn định, an toán, hiệu quả và phát triển". 2.1.3. Mô hình tổ chức của ngân hàng công thương Thanh Xuân. Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân gồm 139 cán bộ công nhân viên hiện làm tại các phòng ban dưới sự lãnh đạo của 01 Giám đốc và 02 Phó giám đốc. - Phòng Kinh doanh có chức năng huy đồng vốn của các đơn vị và tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể quốc doanh và ngoài quốc doanh sử dụng vốn cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế. - Phòng Quản lý tiền gửi dân sự hoạt động chủ yếu huy động tiền gửi trong dân sư. - Phòng Kế toán tài chính tổ chức thanh toán cho khách hàng giám sát tình hình vay, nợ thu hồi lãi hạch toán thu chi trong nội bộ ngân hàng, tiến hành dịch vụ ngân hàng khác. - Phòng Kho quỹ bảo quản tiền mặt và các tài khoản khác của ngân hàng và khách hàng. - Phòng Kiểm soát có trách nhiệm kiểm tra thực thi các chế độ thể lệ tại ngân hàng. - Tổ Điện toán trực thuộc phòng Kế toán: xử lý thông tin, truy cập thông tin và số liệu, quản lý máy vi tính. Các phòng ban được tổ chức theo hướng chuyên môn hoá nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn ngân hàng Mô hình tổ chức tại ngân hàng công thương Thanh Xuân Ban giám đốc Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng
  18. Được sự giúp đỡ của ngân hàng công thương Việt Nam, của các cấp chính quyền địa phương nên hoạt động của Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ 2.2. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH. Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đến nay, vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng. Khu vực này tạo ra một phần không nhỏ GDP thu hút và tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động. 2.2.1. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nền kinh tế nói chung. Kể từ khi đổi mới đến nay bộ mặt kinh tế xã hội của nước ta cũng từng bước được cải thiện. Chất lượng cuộc sống được nâng cao dần theo mức thu nhập cho nền kinh tế. Khu vực kinh tế này tạo việc làm cho nhiều lao động, thu được ngoại tệ về cho đất nước từ việc xuất khẩu hàng hoá, bán dịch vụ cho người nước ngoài. Khu vực kinh tế này cũng rất nhạy cảm với thị trường. Các nhà quản lý có thể nhìn sự phản ứng của khu vực kinh tế này với biến động tiềm ẩn trên thị trường để đưa ra chính sách biện pháp đối phó. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong đó có các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty cổ phần với cách quản lý điều hành mới có tác phong công nghiệp, chuyên môn hoá sâu sắc nên đã có ảnh hưởng tốt với các công ty của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã học hỏi được kinh nghiệm quản lý nghệ thuật Marketing và cách thức phân công điều hành công việc từ phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những điều học
  19. hỏi đó đã được áp dụng có sáng tạo phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam và đã có hiệu quả rõ rệt. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Khu vực công nghiệp và dịch vụ là hướng mà nền kinh tế Việt Nam vươn tới để Việt Nam trở thành nước công nghiệp năm 2020. Vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế thì to lớn nhưng ảnh hưởng mặt trái của nó với nền kinh tế là không nhỏ. Do đó nó cần phải được quan tâm để có sự phân biệt giữa doanh nghiệp làm ăn tốt với doanh nghiệp thua lỗ có dấu hiêụ lừa đảo. 2.2.2. Vai trò doanh nghiệp ngoài quốc doanh với ngành ngân hàng. Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh kéo theo sự gia tăng về nhu cầu vốn cho các phương án sản xuất kinh doanh khiến cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải tìm nguồn vốn tài trợ và họ trở thành khách hàng của ngân hàng, sử dụng dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Có thể thấy tỷ trọng dư nợ của khu vực này mấy năm gần đây chiếm tỷ trọng không nhỏ. Do đó, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng khẳng định vai trò của mình với nền kinh tế và cả với ngành ngân hàng. 2.3. CÁC HÌNH THỨC BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐƯỢC ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN. 2.3.1. Hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân. Loại hình cho vay này tuy Ngân hàng Công thương Thanh Xuân có áp dụng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại không đáp ứng được điều kiện ngặt nghèo đã được quy định. Do đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường không được vay vốn không bảo đảm. Những doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu hội đủ điều kiện trong Thông tư 06/200/TT-NHNN1 và doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán hàng năm kết quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra doanh nghiệp phải mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng công thương, tài sản của doanh nghiệp đã sử dụng hết
  20. để thế chấp cầm cố cho ngân hàng thì chi nhánh được cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Ngoài ra, Ngân hàng Công thương Thanh Xuân cũng xem xét cấp tín dụng không bảo đảm cho khách hàng nếu doanh nghiệp chứng minh phương án sản xuất kinh doanh của mình là khả thi và hội đủ điều kiện tại Thông tư 06. Vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào phương án sản xuất kinh doanh đó tối thiểu 30%. Lúc đó ngân hàng sẽ thực hiện biện pháp cầm quản cả kho hàng đối với toàn bộ lô hàng nếu khách hàng đồng ý thì ngân hàng sẽ tiến hành cho vay và giải ngân. Trường hợp đó nếu khách hàng đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng và ngân hàng xem xét quyết định cho vay không có đảm bảo bằng tài sản nhưng không vượt mức uỷ quyền phán quyết của Tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam. Ngân hàng xem xét cho vay không quá 10 tỷ với doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài và không quá 5 tỷ với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài nếu doanh nghiệp đó lỗ theo kế hoạch do mới đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa quá 3 năm, nhng nếu xét có khả năng thực hiện kế hoạch lỗ thì Ngân hàng công thương tranh luận xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản mà phù hợp với quy định khác tại mục 2 chương IV Nghị định 178. Trên thực tế, hiếm có doanh nghiệp ngoài quốc doanh đáp ứng được các điều kiện ngặt nghèo để được tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng mà không có tài sản bảo đảm. Còn với doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài thì lại có nguồn vốn dồi dào và được các ngân hàng nước họ phục vụ nên khi gặp những khó khăn trong lĩnh vực vay vốn tại các ngân hàng thương mại Việt Nam thì họ sẽ không thực hiện việc vay vốn tại ngân hàng thương mại Việt Nam mà sẽ vay vốn tại các ngân hàng nước ngoài.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2