intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:52

411
lượt xem
60
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

 Mục tiêu nghiên cứu của luận văn "Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân" là trên cơ sở làm rõ lý luận, thực tiễn định hướng phương pháp tự học cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị tai học viện Hải Quân hiện nay, đề xuất các giải pháp tự học cho đội ngũ này, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội trong thời kỳ mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân

  1. ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV  ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN  HẢI QUÂN  3
  2. Mở đầu  1. Tính cấp thiết của đề tài Tự  học là hình thức học tập không thể  thiếu được của sinh viên đang  học tập tại các trường đại học. Tổ  chức hoạt động tự  học một cách hợp lý,  khoa học, có chất lượng, hiệu quả  không chỉ  là trách nhiệm của sự  nghiệp   giáo dục và đào tạo của các trường đại học mà đây còn là trách nhiệm to lớn  của cá nhân từng người học. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích,  xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự  học hợp lý là cần   thiết. Song điều quan trọng là sinh viên phải có hệ  thống kỹ  năng tự  học,   điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ  năng nghề nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát  huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản   phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức và có tay nghề  thì việc rèn  luyện hệ  thống kỹ  năng tự  học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải  được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế  nhà trường. Như  vậy, để  hoạt  động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh viên phải có tri  thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong   để sinh viên biến động cơ  tự  học thành kết quả  cụ  thể  và làm cho sinh viên   tự  tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích  cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ. Với đặc thù là học viên đào tạo cán bộ chính trị tại Học viện Hải Quân,  với  nhiều nội  dung môn học khác nhau, trong quá trình học tập các môn  KHXH&NV chiếm thời lượng rất lớn trong nội dung chương trình đào tạo.  Việc học tốt các môn KHXH&NV giúp cho học viên hình thành thế giới quan   phương pháp luận duy vật biện chứng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức  cách mạng, cùng với việc rèn luyện tay nghề CTĐ, CTCT, đây là điều không  thể   thiếu   đối   với   một   người   cán   bộ   chính   trị.   Để   học   tốt   các   môn  KHXH&NV thì việc tự học đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên hiện   4
  3. nay việc tự học của học viên còn nhiều bất cập, hầu hết khi tiếp xúc với các  môn KHXH&NV học viên còn khá lúng túng trong việc tìm ra phương pháp   học tập hợp lý. Vì vậy tác giả chọn vấn đề : Nâng cao chất lượng tự học các   môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  học viện Hải   Quân làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Để  góp phần nâng cao chất lượng GD – ĐT trong các Học viện, nhà  trường, trong thời gian qua đã có những bài viết, những nội dung nghiên cứu  về  nâng cao chất lượng tự học của học viên, sinh viên nhưng chưa có đề  tài  nào nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với  học viên đào tạo cán bộ chính trị ở học viện Hải Quân”. Vì vậy tác giả chọn   đề   tài   đi   nghiên   cứu,   luận   giải   về   nâng   cao   chất   lượng   tự   học   các   môn   KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở học viện Hải Quân. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu:  Trên cơ  sở  làm rõ lý luận, thực tiễn định hướng phương pháp tự  học   cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị tai học viện Hải Quân hiện nay,   đề xuất các giải pháp tự học cho đội ngũ này, góp phần nâng cao chất lượng   đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ nghiên cứu:  ­ Làm rõ lý luận nâng cao chất lượng tự  học của đối tượng học viên   đào tạo cán bộ chính trị ­ Đánh giá thực trạng của việc tự  học các môn KHXH&NV của học   viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân hiện nay. ­ Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng tự học các  môn KHXH & NV cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị trong thời kỳ  mới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5
  4. Đề  tài ch ỉ  tập trung nghiên cứu việ c nâng cao ch ất l ượ ng t ự  h ọc  các môn  KHXH&NV  củ a h ọc viên đào tạ o cán bộ  chính tr ị   ở  Họ c vi ện   Hả i Quân 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ­ Cơ sở lý luận Đề  tài dựa trên cơ  sở  lý luận chủ  nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan  điểm của Đảng cộng sản Việt nam về giáo dục đào tạo, lý luận phương pháp  tự học hiện đại ­ Phương pháp nghiên cứu Đề  tài sử  dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân  tích, tổng hợp, so sánh, lôgic, khảo sát thực tiễn để nghiên cứu 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng tự  học của học viên trong quá trình học tập các môn khoa học xã hội – nhân văn  và tài liệu tham khảo cho giáo viên cũng như tất cả bạn đọc quan tâm 7. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm : Phần mở đầu, kết luận, 2 chương, danh mục tài liệu tham   khảo và phụ lục  6
  5. Chương 1 Cơ  sở  lý luận và thực tiễn việc nâng cao chất lượng tự  học các   môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở  học viện Hải Quân. 1.1. Cơ sở lý luận việc nâng cao chất lượng tự học và đặc điểm tự  học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ  chính trị ở Học viện Hải Quân. 1.1.1. Cơ sở lý luận. Trong GD – ĐT dạy và học có mối quan hệ  biện chứng, tác động qua  lại với nhau, trong đó người dạy giữ  vai trò hết sức quan trọng trong việc  truyền thụ  nội dung kiến thức và phương pháp học tập cho người học; đề  xuất yêu cầu nhiệm vụ học tập; chỉ đạo, tổ chức, điều khiển người học thực   hiện tốt  các  yêu cầu, nhiệm vụ  học  tập; nắm thông tin ngược  một cách  thường  xuyên thông qua các  hình thức,  phương  pháp dạy học và các  sản  phẩm của người học; tiếp tục đề xuất những yêu cầu, nhiệm vụ học tập mới   trên cơ  sở  xử  lý các thông tin ngược; phân tích đánh giá kết quả  học tập và  giảng dạy. Dưới tác động sư  phạm của người dạy, người học là khách thể,  tiếp thu một cách có ý thức những tác động đó, để tiến hành hoạt động nhận  thức của mình. Song quá trình nhận thức là một quá trình phản ánh thế  giới   khách quan vào trong đầu óc mỗi người một cách chủ  động, sáng tạo, người   7
  6. học là chủ thể nhận thức, tự giác, tích cực, độc lập, tiến hành các hoạt động   nhận thức của mình, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ  học tập. Người học  phải: tự  ý thức các yêu cầu, nhiệm vụ  học tập một cách đầy đủ  chính xác;  phát hiện các mâu thuẫn nhận thức và tự  lực giải quyết nó, dưới sự  chỉ  đạo   của người dạy; tự phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình học  tập của bản thân thông qua các sản phẩm học tập của mình; tự  đề  xuất  những yêu cầu học tập mới đối với bản thân trên cơ  sở  xử  lý các thông tin  ngược bên trong; tự  phân tích, tự  đánh giá kết quả  học tập. Từ  sự  phân tích  vai trò và những hành động cơ  bản của người dạy và người học như  trên,  chúng ta càng thấy sự gắn bó tương hỗ giữa hai mặt hoạt động này, trong đó  người học có vai trò hết sức quan trọng trong việc tự học, tự nghiên cứu của   mình.  Học là quá trình tự  biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách  chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh. Dạy là việc giúp  cho người học tự  mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ  năng và hình thành  hoặc biến đổi những tình cảm, thái độ. Đó là quan niệm tổng quát về dạy và  học theo cách tiếp cận thông tin, từ  đó người dạy có vai trò giúp cho người   học chọn, nhập và xử  lý thông tin để  biến thành tri thức chứ  không phải là  nguồn truyền thông tin cho người học. Việc học phụ thuộc vào mối quan hệ  giảng viên – học viên, vai trò của giảng viên và học viên biến động qua mối   quan hệ này. Một mặt, giảng viên có thể đơn thuần là người truyền đạt kiến  thức; sinh viên hoàn toàn phụ  thuộc vào điều mà người giảng bài nói hoặc  làm, họ  là “người tiếp nhận” hơn là “người học”. Mặt khác, giảng viên có   thể  đóng vai trò hướng dẫn, hoặc người tạo điều kiện thuận lợi, sinh viên  được giúp đỡ để chủ động lập kế họach học tập của mình. Trong giai đoạn hiện nay với việc đổi mới nội dung, phương pháp GD  – ĐT, lấy người  học làm trung tâm, người dạy chỉ   đóng vai trò là người  hướng dẫn và tổ chức cho học viên tự mình chủ động tiếp cận với giáo trình  8
  7. tài liệu, vì vậy việc tự học, tự tìm kiếm tri thức của người học lại càng có vai   trò quyết định trong nâng cao chất lượng GD – ĐT. Xuất phát từ  lý luận về  nhận thức của chủ  nghĩa Mác – Lênin, dưới   ánh sáng lý luận đó, việc lĩnh hội các kiến thức, kỹ xảo được xem là một quá  trình phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của người học. Đó là quá  trình vận động của tư  duy, là sự  giải quyết mâu thuẫn nội tại, từ  chỗ  chưa  hiểu biết đến chỗ  hiểu biết, từ  chỗ  hiểu biết chưa đầy đủ  chưa chính xác  đến đầy đủ  và chính xác hơn, từ  chỗ  chưa có kỹ  năng đến có kỹ  năng giải   quyết những vấn đề  thực tiễn đặt ra. Sự phản ánh hiện thực khách quan vào   trong ý thức của con người không phải là một hành động tức thời, giản đơn,  thụ  động, máy móc mà là một quá trình phức tạp của sự  hoạt động tích cực   sáng tạo. Về  cơ  bản, hoạt động học tập diễn ra theo quy luật nhận thức   chung, mà tự học nằm trong quá trình học tập. Quá trình nhận thức của người  học về cơ bản được quy định bởi quy luật nhận thức chung, quy luật đó được  Lênin khái quát “Từ  trực quan sinh động đến tư  duy trừu tượng, từ  tư  duy   trừu tượng đến thực tiễn …”1 Điều đó có nghĩa là quá trình đi từ  nhận thức  cảm tính đến lý tính và quay trở về thực tiễn. Người học thu thập các tài liệu  cảm tính từ  những tác động của người dạy và phương tiện trực quan dạy   học. Trên cơ  sở  các tài liệu cảm tính đó, người học sử  dụng các thao tác tư  duy để xử lý chế biến, nghiền ngẫm thông tin học tập, gạt bỏ những cái vụn  vặt, ngẫu nhiên bên ngoài, nắm lấy cái bản chất, quy luật của sự  vật, hiện   tượng, nghĩa là nắm được cái khái niệm, định nghĩa, quy luật. Và cuối cùng  học tập là sự  vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng đã tiếp thu được vào  giải quyết các nhiệm vụ lý luận và thực tiễn đặt ra. Trong quá trình học tập,   người học không những chỉ  lĩnh hội các kiến thức đã được khoa học khám  phá mà còn tìm ra những tri thức mới. Vì vậy hoạt động nhận thức của người   học được diễn ra trong  điều kiện: có người dạy chỉ  đạo, có tài liệu, các  phương tiện kỹ thuật dạy học, khả năng tự học của cá nhân người học, trong  9
  8. đó khả  năng tự  học của người học là một trong những yếu tố  quan trọng   trong quá trình nhận thức. Trong các giáo trình, tài liệu, có nhiều tác giả  đã đưa ra các định nghĩa   khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản: ­ Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự  học. Tự  học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử  trong   thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ  cải tiến  kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại,  biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo  của chủ thể. ­ Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ  biên, coi “Tự  học là việc   hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” ­  Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử  dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để  chiếm lĩnh một lĩnh vực   khoa học nhất định  ­ Theo Giáo sư  Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư  Hà Thị  Đức trong cuốn  “Lý luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ  bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững  hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc   ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui  định.  ­ Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của  mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ  kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự  tiến bộ của xã hội”  ­ Theo Giáo sư  – Tiến sỹ  Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự  học – là tự  mình   động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ  (quan sát, so sánh, phân tích,  tổng hợp...) và có khi cả  cơ  bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm   chất của mình, rồi cả  động cơ, tình cảm, cả  nhân sinh quan, thế  giới quan  10
  9. (như  tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ,   kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành  thuận lợi..vv...) để  chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại,   biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”2. Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể đi đến định nghĩa về tự  học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập   tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động   của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định. Như vậy tự học là hình thức học tập độc lập của người học nhằm lĩnh  hội, củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng. Tự  học có những  đặc điểm nổi bật sau đây: Là một hình thức tổ chức dạy học mang tính chất   cá nhân; người học tự tổ chức quá trình nhận thức của mình, thể hiện tính tự  giác, tích cực độc lập, sáng tạo của bản thân; người dạy giữ  vai trò chỉ  đạo,  định hướng,  song không trực tiếp can thiệp vào quá trình tự  lĩnh hội của  người học; tự học giúp cho người học củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ  thống  hóa, khái quát hóa kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, tư duy độc lập, sáng tạo, vận   dụng vào giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn. Các hình thức tự học:  Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau: * Hình thức 1: Cá nhân tự  mày mò theo sở  thích và hứng thú độc lập   không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của  quá trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học  mới, đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được  dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng  thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ  tự  học này  người học không thầy, không sách mà chỉ  cọ  sát với thực tiễn vẫn có thể  tổ  chức có hiệu quả hoạt động của mình. * Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh. 11
  10. Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức: Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy: Trường hợp này người học tự  học để  hiểu, để  thấm các kiến thức   trong sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích  mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời. Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:    Mặc dù thầy  ở  xa nhưng vẫn có các mối quan hệ  trao đổi thông tin  giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ  hay hiện đại  dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,... * Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày,   sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên  Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố  hỗ  trợ, chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để  trò tự  chiếm lĩnh tri thức. Trò   với vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng   tạo tham gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối  quan hệ  giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng  chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.  Trong quá trình tự học  ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy,  nhưng dưới sự  hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính  tích cực, tự giác, chủ  động tự  sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ  và kỹ  năng của bản thân để  hoàn những yêu cầu do giáo viên đề  ra. Tự  học của   người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên,  được giáo viên định hướng về  nội dung, phương pháp tự  học để  người học   thực hiện. Như vậy  ở  hình thức tự  học thứ  ba này quá trình tự  học của sinh   viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều  yếu tố, trong đó có yếu tố  tổ  chức và quản lý quá trình dạy học của giảng   viên và quá trình tự học của học viên. Trong GD – ĐT cán bộ  chính trị  nói chung và cán bộ  chính trị   ở  Học  viện Hải Quân nói riêng phần lớn thời gian và khối lượng kiến thức học tập,   12
  11. nâng   cao   tay   nghề   của   người   cán   bộ   chính   trị   tập   trung   vào   các   môn  KHXH&NV. Việc học tập, lĩnh hội kiến thức các môn KHXH&NV có vai trò  ý nghĩa hết sức quan trọng, là tiền đề  để  cho người cán bộ  chính trị  có thế  giới quan, phương pháp luận khoa học trong việc nhận thức, đánh giá thực   tiễn. Các môn KHXH&NV rất đa dạng như: triết học, kinh tế ­ chính trị học,   chủ  nghĩa xã hội khoa học, lịch sử, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn học,   nghệ   thuật,   tâm   lý   giáo   dục   học,   lôgic   học   …   có   thể   nói   rằng   các   môn  KHXH&NV là hệ thống những tri thức về xã hội và về  con người. Nếu tách  bạch ra thì khoa học xã hội nghiên cứu về  xã hội, còn khoa học nhân văn  nghiên cứu về  con người. Có những khoa học nghiên cứu xã hội như  một   chính thể  phát triển qua thời gian: đó là sử  học (cổ, trung, cận, hiện đại) và  những khoa liên quan như  khảo cổ  học, dân tộc học. Có những khoa học   nghiên cứu xã hội như một cấu trúc gồm nhiều yếu tố  hợp thành (cơ  sở  hạ  tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội) cũng như  những mặt khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, luật pháp, đạo  đức, tôn giáo, văn học, nghệ  thuật tâm lí... đó là khoa học xã hội hiểu theo   nghĩa hẹp. Nếu lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, coi con người, tính  người là trung tâm như hàm nghĩa của khái niệm khoa học nhân văn thì chưa   đủ, bởi con người là chủ  thể  của ý thức, của tư  duy. Vì vậy khoa học nhân  văn còn gồm cả  những khoa học triết học, trong đó có triết học (nghiên cứu   về thế giới quan, về lí luận nhận thức), lôgic học (nghiên cứu về tư duy trừu   tượng) … Từ  vấn đề  trên ta thấy việc tự học các môn KHXH&NV là hoạt động  nhận thức, có mục đích của cá nhân, la t ̀ ự  minh đông nao, suy nghi, s ̀ ̣ ̃ ̃ ử  dung ̣   cac năng l ́ ực tri tuê đ ́ ̣ ể  chiếm lĩnh các tri thức về  xã hội và con người, biến  các lĩnh vực đó trở  thành sở  hữu của mình. Tự  học các môn KHXH&NV là   việc tiếp thu một cách có tổ chức các tri thức về xã hội và con người, dựa vào   công tác tự học một cách có hệ thống. 13
  12. Trong quá trình tự  học các môn KHXH&NV thì chất lượng giữ  vai trò  quyết định. Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa,  được xem từ nhiều bình diện khác nhau, đây là một thuật ngữ được sử  dụng  rộng rãi trong đời sống xã hội. Triết học Mác­Lênin chỉ  rõ: mọi sự  vật, hiện   tượng của hoạt  động xã hội bao giờ  cũng là sự  thống nhất giữa chất và   lượng. Mọi quan hệ  qua lại giữa chất và lượng của sự  vật, hiện tượng quy   định sự  tồn tại, phát triển của chính bản thân sự  vật. Quan niệm chung nhất   theo từ  điển Tiếng việt  “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị  của   một con người, một sự vật, sự việc”3. Nghĩa là khi phân tích đánh giá bất kỳ  một sự vật, hiện tượng nào hay hoạt động của cá nhân hoặc tập thể đều phải  gắn với yếu tố, thuộc tính quy định sự  tồn tại, phát triển tạo nên giá trị  đích  thực của hiện tượng, hoạt động đó, không được tuyệt đối hoá hoặc tách rời  các yếu tố, thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng hoạt động cụ thể, đòi hỏi phải   có phương pháp xem xét, đánh giá cụ  thể, không thể  áp dụng một phương  pháp chung cho mọi sự vật, hiện tượng; đặc biệt là đối với con người và hoạt  động thực tiễn của con người trong lĩnh vực hoạt động xã hội. Vì vậy Đánh  giá chất lượng người ta căn cứ vào giá trị, giá trị xã hội và do xã hội quy định.  Biểu hiện tập trung chất lượng tự  học là  ở  nhân cách của người học   viên; tức là mức độ  chuyển biến nhận thức, sự  tích luỹ  thêm kinh nghiệm   thực tiễn của mỗi học viên trong học tập, rèn luyện phù hợp với chức trách,   nhiệm vụ  được giao. Trên bình diện chung nhất có thể  hiểu chất lượng tự  học các môn KHXH&NV là hiệu quả  chuyển biến nhận thức của cá nhân  người học trong quá trình tự giác, tự động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực  trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người. Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên   đào tạo cán bộ ở Học viện Hải Quân. Tiêu chí là điều được quy định dùng làm chuẩn để  phân loại đánh giá.   Theo đó, tiêu chí được thể hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước  đo để dựa vào đó so sánh, đánh giá kết quả tự học các môn KHXH&NV của   14
  13. học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân. Các chỉ số, thông số,  chỉ tiêu càng chính xác, cụ thể bao nhiêu thì việc đánh giá chất lượng tự học   các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  Học viện Hải  Quân càng chính xác bấy nhiêu. Với cách tiếp cận đó, khi đánh giá chất lượng  tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện  Hải Quân cần dựa vào trên các nhóm tiêu chí sau: Một là, kết quả  nhận thức về  nội dung các môn KHXH&NV, đây là   tiêu chí rất quan trọng bởi vì trong quá trình tự học các môn KHXH&NV biểu   hiện của kết quả  nhận thức nội dung các môn KHXH&NV thông qua việc  người học đã xác định được tầm quan trọng của các môn KHXH&NV hay   chưa, đã nắm vững bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu,   biết liên hệ, vận dụng, lý luận vào thực tiễn như thế nào… thông qua những  kết quả  đó mà đánh giá được chất lượng tự  học các môn KHXH&NV của   người học Hai là, chất lượng tự học các môn KHXH&NV được đánh giá bằng kết  quả học tập thông qua kiểm tra, thi kết thúc môn. Trong quá trình tự học các  môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân,   để biết được khả  năng tiếp thu kiến thức của bản thân đến đâu, thì kết quả  kiểm tra đánh giá của giảng viên phản ánh thực chất chất lượng học tập của   người học. Ba là, thể hiện qua chất lượng tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài,  chất lượng thảo luận xêmina. Trong các giờ  thảo luận hay xêmina việc học  viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài như thế nào, có sôi nổi hay không,  có giải quyết được lý luận và thực tiễn hay không … điều đó đánh giá được  việc chuẩn bị bài của học viên tốt hay không tốt, đánh giá được chất lượng tự  học của học viên ở mức nào. Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn CTĐ, CTCT ở  đơn vị. Chúng ta  biết rằng chất lượng tự  học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán  bộ  chính trị   ở  Học viện Hải Quân có tốt hay không được đánh giá bằng rất   15
  14. nhiều tiêu chí trong đó có hoạt động thực tiễn ở đơn vị, đặc biệt là hoạt động  CTĐ, CTCT là một tiêu chí quan trọng, thông qua hoạt động này có thể  đánh  giá được việc vận dụng những kiến thức KHXH&NV vào trong thực tiễn   hoạt động CTĐ, CTCT   của người học đến đâu, từ  đó đánh giá được chất  lượng tự  học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  Học viện Hải Quân. 1.1.2. Đặc điểm về  việc tự  học các môn khoa học xã hội và nhân   văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện Hải Quân. Các môn KHXH&NV bao gồm: triết học, kinh tế  chính trị  học, chủ  nghĩa xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học, pháp luật, văn học, nghệ  thuật… nghiên cứu sự  vận động, biến đổi và phát triển của tự  nhiên, xã hội  và con người, vì vậy việc tự  học các môn khoa học này có những đặc điểm   riêng, Hơn thế  nữa khi học các môn khoa học này là nền tảng cho các môn  khoa học khác và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề của bản thân   một cách khách quan hơn. Về đặc điểm các môn KHXH&NV xét một cách tổng thể nó mang tính   phổ biến, bởi lẽ KHXH&NV là khoa học nghiên cứu về xã hội, con người và   cộng đồng người. Xưa nay, phàm làm bất kỳ việc gì thì cũng phải động chạm  đến những hiểu biết về xã hội, con người và cộng đồng người, cho nên kiến  thức KHXH&NV hiện hữu  ở  khắp mọi nơi và cần đến  ở  khắp mọi nơi.   Trong phạm vi một quốc gia, một công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và  công nghệ thì giỏi lắm cũng chỉ có vài trăm người đọc (in được vài trăm bản)  còn một công trình nghiên cứu KHXH&NV thường có tới vài nghìn, thậm chí  vài   vạn   người   đọc.   Vì   vậy   việc   tiếp   cận   những   môn   này   không   phải   là  chuyện khó khăn, việc tự  học và tự  nghiên cứu các môn này có sự  khó, dễ  khác nhau tùy thuộc vào sự tiếp cận và khả năng của từng người.  Nghiên cứu các môn KHXH&NV liên quan mật thiết đến lĩnh vực chính  trị  xã hội, đạo đức nhân cách, tư  tưởng, văn hóa của dân tộc cho nên đây là  16
  15. một lĩnh vực rất quan trọng. Chúng ta đều biết, những sai lầm về kinh tế, kỹ  thuật để  lại hậu quả lớn, nhưng vẫn có thể  khắc phục được trong một thời  gian nhất định. Thế  nhưng những sai lầm thuộc về    lĩnh vực chính trị, tư  tưởng, văn hóa, giáo dục… sẽ  để  lại hậu quả  vô cùng nghiêm trọng và lâu  dài, có khi mất đến hàng chục, hàng trăm năm mới khắc phục được. Vì vậy  người học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học Viện Hải Quân phải nhận thức  được đặc điểm, tầm quan trọng của KHXH&NV, từ đó có phương pháp học  tập, nghiên cứu, củng cố vững chắc kiến thức về KHXH&NV làm điều kiện  cho công tác sau này đạt hiệu quả cao. Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như  bất cứ môn học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tuỳ theo cách cảm   nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở  nên   dễ  đối với người này cũng như  sẽ  trở  nên khó đối với người khác. Khi học   các môn KHXH&NV cũng vậy, đều là những môn học đòi hỏi người học  phải chịu khó đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững bản chất   vấn đề, bởi vì học các môn này khá trừu tượng, nhiều thuật ngữ khó, có tính   lý luận, tính khái quát cao; luôn quan hệ  mật thiết với thực tiễn xã hội; luôn  có sự  thống nhất cao giữa tính khoa học và tính tư  tưởng; luôn mang tính  chiến đấu… khi nghiên cứu nếu người học không có phương pháp tự học tốt  và không biết cách tiếp cận thì sẽ khiến cho người học bị ngập vào trong các  khái niệm, phạm trù, quy luật… vì vậy người học phải tự  tìm cho mình  phương pháp nghiên cứu các môn này một cách hiệu quả nhất.   Với   những   đặc   điểm   riêng   như   trên   vì   thế   để   học   tốt   các   môn  KHXH&NV nói riêng và các môn học khác nói chung thì trước hết tinh thần   tự học, tự nghiên cứu, miệt mài, chăm chỉ là rất quan trọng. Trước khi lên lớp  người học tự  nghiên cứu, tham khảo tài liệu trước, ghi và đánh dấu những  nội dung khó hiểu hoặc vướng mắc để trên lớp cùng trao đổi với bạn bè hoặc  giảng viên. Trên lớp tập trung chú ý nghe giảng tranh thủ  ghi tốc ký những  nội dung, các ví dụ, dẫn chứng của giảng viên để làm cơ sở cho việc nghiên  17
  16. cứu, trao đổi, thảo luận. Sau mỗi buổi học, luôn chủ động trao đổi những nội  dung còn vướng mắc với giảng viên, hoặc bạn bè, tranh thủ  tìm hiểu, tham  khảo những kiến thức trên thư  viện, lên mạng Internet tìm thêm tài liệu để  đào sâu nghiên cứu, mở rộng các vấn đề mà bài giảng đề cập kết hợp với tài   liệu, sách giáo khoa trong giờ tự học... Đối với các môn KHXH&NV, nếu biết  tự học tập, tự nghiên cứu thì ai cũng có thể học giỏi. 1.1.3. Đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị. Thứ nhất: Với đối tượng là quân nhân chuyên nghiệp (đã có bằng trung  cấp về  chuyên môn kỹ  thuật), thi tuyển theo qui chế  của nhà trường.  Ưu  điểm của đối tượng này có kiến thức về chuyên môn kỹ thuật bậc trung cấp,   các tố chất cần thiết để phát triển thành cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ  qua thời kỳ đào tạo trung cấp và quá trình hoạt động thực tiễn quân sự ở các   đơn vị, đối tượng này 100% là Đảng viên có nhận thức và động cơ tốt khi thi   vào trường, trong học tập có ý thức tự  giác cao, có những kinh nghiệm nhất   định trong thực tiễn  ở trong môi trường quân đội cho nên việc vận dụng các   kiến thức KHXH&NV vào thực tiễn có sự thuận lợi. Tuy nhiên với đối tượng  này còn bộc lộ nhiều điểm yếu trong quá trình tự học, tự nghiên cứu các môn  KHXH&NV. Thứ hai: đối tượng là cán bộ trung đội trưởng, có bằng cử nhân quân sự  cấp phân đội, được tuyển chọn về đào tạo cán bộ chính trị, đặc điểm của đối   tượng này là, đã được trang bị  khối lượng kiến thức về  cử nhân quân sự  cơ  bản, có động cơ phấn đấu, những phẩm chất cần thiết để phát triển và hoàn  thành nhiệm vụ của người cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua rèn luyện  trong thời kỳ  đào tạo cử  nhân quân sự  và thực tiễn quản lý chỉ  huy đơn vị.   Đối tượng này, đã hoàn thành mục tiêu về  học vấn và mục tiêu về  chức vụ  chỉ huy cấp phân đội theo qui định của bộ quốc phòng, có những kinh nghiệm  quản lý chỉ huy, nên thuận lợi cho việc đào tạo chức vụ chính trị viên, có kinh  nghiệm trong học đại học, có kinh nghiệm nhất định trong tự  học, tự  nghiên   cứu. Có thể  nói đây là đối tượng phù hợp để  tạo ra chất lượng và hiệu quả  18
  17. đáp ứng yêu cầu đào tạo chính trị viên hiện nay. Tuy nhiên đối tượng này chất   lượng tự  học các môn KHXH&NV cũng có những hạn chế  nhất định đó là:  những đối tượng này trước kia hầu hết đều học về  kiến thức quân sự  hoặc   kiến thức về khoa học tự nhiên là chính, cho nên khi vào trường tiếp xúc với   các môn KHXH&NV đa phần còn nhiều lúng túng, chưa có cách tiếp cận khoa  học, chưa có phương pháp học tập hiệu quả.  Như vậy, đối tượng đầu vào cho đào tạo chính trị viên ở Học Viện Hải   Quân hiện nay gồm nhiều nguồn, mỗi nguồn lại có những đặc điểm riêng chi  phối đến quá trình đào tạo nói chung, chất lượng tự học các môn KHXH&NV  nói riêng. Qua các đối tượng trên ta thấy: Việc nâng cao chất lượng tự  học   các môn KHXH&NV có những thuận lợi và khó khăn nhất định, cần phải có   những giải pháp tích cực và mang tính đồng bộ. 1.2. Thực trạng chất lượng tự  học các môn khoa học xã hội và  nhân văn của học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  học viện Hải Quân  hiện nay. 1.2.1. Những kết quả  đã đạt được trong quá trình tự  học các môn   KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  Học viện Hải Quân   trong thời gian qua. Đối với học viên Xuất phát từ đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ  chính trị  ở  Học viện   Hải Quân đa phần là những quân nhân có kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt   động quân sự, được tuyển chọn hoặc qua tuyển sinh có chất lượng đầu vào  khá tốt, có nhận thức chính trị  cao vì vậy đa phần học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  Học viện Hải Quân đã nhận thức tốt nhiệm vụ  học tập và rèn  luyện tại trường, có động cơ phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành người   cán bộ chính trị. Trong quá trình học tập học viên đào tạo cán bộ  chính trị   ở  Học viện  Hải Quân đã cơ  bản có nhận thức tốt về  vị  trí, vai trò của việc tự  học, tự  19
  18. nghiên cứu; thấy được việc tự  học, tự  nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính  độc lập cao, đặc biệt là đối với các môn KHXH&NV, qua đó giúp bản thân  củng cố, mở  rộng, đào sâu, hệ  thống hóa kiến thức, đồng thời người học   bước đầu cũng đã rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập,   sáng tạo, vận dụng và giải quyết được những vấn đề  thực tiễn đặt ra một  cách khoa học. Đã chủ động tìm hiểu những đặc điểm, yêu cầu của môn học   nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập, qua đó rút ra   những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy  đủ về vật chất, tâm lí, thể lực cho quá trình học tập. Việc xây dựng kế hoạch  nghiên cứu của cá nhân cơ bản đã có tính khoa học và đã được triển khai thực   hiện khá nghiêm túc, phát huy vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến   quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Học viên bước đầu đã biết độc lập tiếp xúc tài liệu trước khi nghe  giảng và xử lý thông tin sau khi nghe giảng viên giảng bài. Đã tự giác, nỗ lực   tự  học, tự  rèn, xây dựng động cơ  học tập, rèn luyện đúng đắn, nắm vững  mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ GD–ĐT, tích cực, chủ động, tìm tòi, lựa chọn  cho mình một phương pháp học tập hợp lý, thường xuyên rút kinh nghiệm,   cải tiến phương pháp tự học của mình cho phù hợp với từng môn học. Đa số học viên đã tận dụng được thời gian trong việc tự học, chịu khó  tìm tòi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu, trên thư  viện cũng như  trên mạng   internet. Theo kết quả  điều tra đối với học viên đào tạo cán bộ  chính trị:   Trong giờ tự học, đồng chí có nghiên cứu giáo trình, tài liệu trên thư viện hay   trên các website không? có 80% trả lời thường xuyên, 18% thỉnh thoảng, 2% ít  khi, 0% chưa khi nào. Với kết quả này cho thấy việc tự nghiên cứu giáo trình,  tài liệu của học viên rất tích cực, tự giác.  Phần đông học viên đã nắm được những kiến thức cơ  bản về  chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, pháp luật của Nhà nước và các  kiến thức KHXH&NV; biết liên hệ, vận dụng có hiệu quả  những kiến thức  đã được học vào thực tiễn và công tác của mình. Tỷ lệ học viên đạt kết quả  20
  19. học tập khá cao. Qua khảo sát thực tế kết quả kiểm tra, thi kết thúc các môn   KHXH&NV thì có 100% đạt yêu cầu, trong đó có 50% ­ 60% khá giỏi. Về đội ngũ giảng viên Trong GD – ĐT luôn được Đảng  ủy, Ban Giám đốc Học viện, các cơ  quan chức năng, các khoa giảng viên đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới toàn   diện về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi  dưỡng quá trình tự  học, tự rèn luyện của học viên. Thường xuyên quán triệt   mục tiêu, yêu cầu đào tạo cho học viên. Xây dựng động cơ, thái độ, trách  nhiệm, ý thức tự giác học tập, rèn luyện, khắc phục khó khăn, đoàn kết giúp  đỡ lẫn nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tích cực bồi dưỡng phương pháp, kinh  nghiệm học tập, tập bài, luyện tập và thường  xuyên rút kinh nghiệm về  phương pháp tự  học, đánh giá tinh thần, thái độ, trách nhiệm học tập của   người học một cách khách quan, do đó đa số học viên có thái độ học tập đúng  đắn, xây dựng ý trí quyết tâm cao, tích cực học tập, rèn luyện, tổ  chức mạn  đàm, thảo luận tìm ra những phương pháp học tập thích hợp hiệu quả  với  từng môn học. Học viên đã nắm được kiến thức và khả  năng vận dụng các  kiến thức vào trong quá trình học tập, công tác nỗ  lực hoàn thành tốt nhiệm  vụ theo mục tiêu yêu cầu đào tạo đề ra. Bước đầu đã phát huy được tính độc lập, tự  chủ  của học viên, chú ý  đến việc hướng dẫn học viên tự  học, tự  nghiên cứu, phát huy tính dân chủ  công khai trong quá trình dạy học, tạo điều kiện để học viên tự điều chỉnh để  nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện thái độ  và phương pháp học tập, tự  nghiên cứu một cách sáng tạo. Đã kết hợp sử  dụng các phương pháp giảng   dạy phù hợp theo từng môn học. Giảng viên chỉ  giảng tập trung vào những   nội dung cơ bản, gắn với thực tiễn xã hội của từng môn học, từng ngành học  …định hướng cho học viên tự nghiên cứu giáo trình, các tài liệu tham khảo và  tự cập nhật, bổ sung các thông tin liên quan. Ngoài ra trong những năm qua, đội ngũ giảng viên Khoa KHXH&NV đã  không ngừng trau dồi trình độ  kiến thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tích  21
  20. cực nghiên cứu học tập để nâng cao trình độ mọi mặt đủ sức hoàn thành mọi  nhiệm vụ huấn luyện được giao. Nhiều giảng viên đã đạt học vị tiến sỹ, thạc   sỹ, có năng lực thực sự trong công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đủ  khả năng đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giảng dạy  ở bậc đại học và sau đại học,  đây là cơ  sở, là tiềm lực đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ  giảng dạy   các môn KHXH&NV cho các đối tượng học viên đáp  ứng yêu cầu đào tạo   chính trị viên của nhà trường Về tổ chức quản lý học viên Việc quản lý, duy trì kỷ  luật kết hợp với quản lý chất lượng tự  học  của học viên ở Học Viện Hải Quân đã làm cho quá trình đào tạo trở lên khép  kín từ khâu trang bị kiến thức đến khâu tổ chức cuộc sống. Hệ thống nơi ăn,  ở  tập trung tuân theo chế  độ, điều lệnh, điều lệ  của Quân Đội, có hệ  thống  chỉ  huy, hệ  thống Đảng, các tổ  chức quần chúng đã giúp cho việc quản lý  chặt chẽ không chỉ chất lượng tự học mà cả chất lượng hoạt động thưc tiễn,  không chỉ  năng lực mà cả  phẩm chất chính trị  tư  tưởng. Cũng thông qua đó   mà làm cho mọi học viên trong một tập thể có cùng chung nhiều ý tưởng, có   sự gắn bó, đoàn kết với nhau trên tình yêu thương đồng chí, đồng đội, luôn có  tinh thần giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ  trong học tập, qua đây tạo ra được môi  trường giáo dục tốt, tạo ra không khí thi đua sôi nổi giữa các cá nhân với nhau   trong việc tự học nắm bắt kiến thức.  Hệ thống chỉ huy các cấp trong Học Viện Hải Quân được tổ chức một   cách khá chặt chẽ, đã nắm bắt, định hướng một cách kịp thời tư tưởng, hành  động của học viên, duy trì nghiêm túc các chế  độ  trong ngày, đảm bảo cho  học viên có thể  phát huy khả  năng của cá nhân trong việc tự  học, tự  nghiên   cứu của mình, đã quản lý tốt thời gian, chất lượng học tập của học viên trong  các giờ tự ôn, tạo điều kiện thuận lợi nhất môi trường học tập cho học viên.   Vì vậy chất lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên được nâng cao. Cán bộ quản lý đã tổ chức bồi dưỡng, giúp đỡ cho học viên về phương   pháp tự học, hàng tháng đã có những buổi sinh hoạt chuyên đề  nâng cao chất   22
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2