intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

105
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay, trong xu thế hội nhập - quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá đang diễn ra nhanh chóng, các doanh nghiệp không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình trong phạm vi một quốc gia, mà họ luôn tìm cách hướng ra thị trường nước ngoài vì những lợi ích do hoạt động xuất khẩu mang lại. Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động xuất khẩu như mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá, đa dạng hoá hoạt...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ
  2. CHƯƠNG I: Lý luận chung về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh c ủa hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ I.cạnh tranh: Hiện nay, trong xu thế hội nhập - quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá đang diễn ra nhanh chóng, các doanh nghiệp không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình trong phạm vi một quốc gia, mà họ luôn tìm cách hướng ra thị trường nước ngoài vì những lợi ích do hoạt động xuất khẩu mang lại. Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động xuất khẩu như mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc ổn định lợi nhuận. Vì vậy, sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản vào các nguồn lực ở nước ngoài, vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và quan trọng là khả năng cạnh tranh đối với các đối tác quốc tế trên thị trường. 1. Khái niệm. Khái niêm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch" (Chiến lược cạnh tranh của M.E.Porter, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật - 1995). Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được
  3. những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy có thể thấy rằng môi trường hoạt động của kinh tế thị trường chính là cạnh tranh tự do. Trên thị trường luôn diễn ra sự ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên để giành phần có lợi cho mình, bởi vì, động lực hoạt động của các thành viên tham gia thị trường là lợi nhuận. Lợi nhuận sẽ đưa các nhà kinh doanh đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần nhiều hàng hoá hơn và từ bỏ những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần ít hàng hoá. 2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh thể hiện một số vai trò chủ yếu sau: - Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu và khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mục tiêu trước nhất của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Mà lợi nhuận chỉ có được khi bán được hàng hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này lại phụ thuộc vào người tiêu dùng. Người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm mà họ thích nhất, họ cho là có chất lượng tốt nhất, có kiểu dáng đẹp nhất, có giá trị phù hợp nhất... Do đó, buộc các nhà sản xuất phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng ngày một tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, của thị trường. Đồng thời, các nhà sản xuất phải luôn tìm cách bán sản phẩm của mình với giá thấp nhất có thể. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng cũng như hạ thấp giá thành sản phẩm, các nhà sản xuất cũng không ngừng phải đổi mới công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, giá thành thấp hơn. Như vậy, cạnh tranh sẽ dẫn đến kết quả là làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng tăng, phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. - Cạnh tranh làm cho nhu cầu của người tiêu dùng luôn được thoả mãn. Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng đ ược coi là "thượng đế", các nhà sản xuất sẽ luôn tìm cách làm ra những sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Chính vì vậy mà bất cứ ý muốn nào
  4. của người tiêu dùng cũng đều được các nhà sản xuất quan tâm và thoả mãn miễn là người tiêu dùng sẵn sàng trả tiền để có được sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mình. - Có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội. ở nước ta trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây, cạnh tranh ở thị trường được hiểu theo nghĩa tiêu cực. Suốt một thời gian dài, chúng ta cạnh tranh thị trường là không tốt, là “cá lớn nuốt cá bé”. Thực ra, cạnh tranh trên thị trường là cơ chế hai đầu. Một mặt, cạnh tranh sẽ loại bỏ khỏi thị trường các doanh nghiệp yếu kém, có chi phí sản xuất cao, mặt khác khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp và tạo môi trường tốt cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả phát triển. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí các nguồn lực của xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Điều này đã tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm chi phí tối ưu hoá đầu vào trong sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh như là một "vũ đài" mà ở đó chỉ tồn tại người chiến thắng. Do đó, cạnh tranh sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, bởi lẽ, các doanh nghiệp nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển thì phải không ngừng phấn đấu vươn lên. Có thể nói rằng cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ kỹ thuật, là động lực cho nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh không chỉ có toàn các ưu điểm, nó còn có những khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Trong quá trình cạnh tranh, hiển nhiên là các doanh nghiệp phải quan tâm tr ước tiên đến quyền lợi của bản thân mình, không chú ý đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Từ đó, dẫn đến những vấn đề xã hội nh ư nạn thất nghiệp, tiền công rẻ mạt, môi trường sinh thái bị hủy hoại... Cạnh tranh, một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó cũng dẫn tới tình trạng phân hoá ghê gớm, kẻ thắng người bại, dễ dàng đưa tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền trên thị trường. Do đó, cần phải có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, có hiệu quả. 3. Các loại hình cạnh tranh:
  5. Dựa trên các tiêu thức phân loại khác nhau, người ta có thể chia cạnh tranh thành các loại hình khác nhau sau: 3.1. Dựa vào chủ thể thị trường. Cạnh tranh được chia làm 3 loại: - Cạnh tranh giữa người bán và người mua - Cạnh tranh giữa người mua với nhau - Cạnh tranh giữa người bán với nhau 3.1.1. Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ - bán đắt. Trên thị trường người bán luôn luôn mong muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất nhưng người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất. Sự cạnh tranh được thực hiện trong quá trình “mặc cả” với giá chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua. 3.1.2. Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Là sự cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó mà nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn và giá cả của các loại hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua đ ược những hàng hoá mà họ cần và những người bán tiếp tục nâng giá hàng lên. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính họ. 3.1.3. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng và thị trường. Đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn giành giật lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh là việc t ăng doanh số tiêu thụ và tăng tỷ lệ thị phần. Cùng với nó là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Để có thể đứng vững và
  6. phát triển, các doanh nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp khác nhau tạo thế mạnh cho mình vượt lện trên đối thủ. 3.2. Dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường (trạng thái thị trường). Cạnh tranh được chia làm 3 loại: - Cạnh tranh hoàn hảo - Cạnh tranh không hoàn hảo - Cạnh tranh độc quyền 3.2.1. Cạnh tranh hoàn hảo: Là trạng thái cạnh tranh khi có nhiều đối thủ đưa ra bán những hàng hoá tương tự nhau, trong đó không có một người bán hay một người mua nào có vai trò lớn trong toàn bộ thị trường. Khi đó trên thị trường có rất nhiều người mua và người bán với những hiểu biết đầy đủ về thị trường. Mỗi người mua hay người bán đều có mối liên hệ rất nhỏ với toàn thể thị trường, hành động của họ không có khả năng tác động đến giá cả cũng như cung cầu trên thị trường. Hay nói cách khác, cả người mua và người bán đều là những người chấp nhận giá, giá cả tự do thay đổi theo điều kiện thay đổi của cung và cầu, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính Nhà nước. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả thị trường sẽ tiến dần đến mức chi phí sản xuất. 3.2.2. Cạnh tranh không hoàn hảo: Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, mức độ cạnh tranh rất khốc liệt và các hình thức cạnh tranh cũng rất đ a dạng. Người bán tranh giành khách hàng với nhau bằng uy tín, quảng cáo, khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng, phương thức bán hàng... và cuối cùng thường dẫn đến cuộc chiến về giá cả. Đây là hình thức cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay 3.2.3. Cạnh tranh độc quyền:
  7. Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ có một hay một số ít người bán một loại sản phẩm đồng nhất hoặc một hay một số ít người mua một loại sản phẩm. Họ có thể kiểm soát hầu như toàn bộ số lượng sản phẩm bán ra hay mua vào. Thị trường này có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh nên được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Tại đây, chỉ xảy ra sự cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện để ra nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường này không có sự cạnh tranh về giá cả mà các nhà độc quyền có toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Những doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo giá cả của nhà độc quyền. Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại cho phát triển sản xuất và làm hại cho người tiêu dùng. Vì vậy một số nước có luật chốn g đ ộc quyền nhằm chống lại sự liên minh độc quyền giữa các nhà kinh doanh. Ngoài ra cạnh tranh còn được phân chia thành nhiều loại khác nhau với các tiêu thức khác nhau như cạnh tranh trong ngành; cạnh tranh trong nội bộ ngành; dựa vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp mà chia thành mạnh, trung bình hay yếu trong mối quan hệ so sánh với các doanh nghiệp khác; dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường mà chia thành cạnh tranh mức độ cao, trung bình, thấp... 4. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu: Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể lẩn tránh được sự cạnh tranh vì như vậy là cầm chắc sự phá sản. Thay vào đó doanh nghiệp cần sẵn sàng chấp nhận sự cạnh tranh, chủ động đón trước cạnh tranh và sử dụng các công cụ cạnh tranh một cách linh hoạt, hữu hiệu. Các công cụ cạnh tranh là tập hợp các yếu tố, các chính sách, các kế hoạch, các chiến lược, các hành động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm tạo ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. Mỗi
  8. công cụ cạnh tranh không nên sử dụng độc lập mà nên có sự kết hợp hay hỗ trợ các công cụ khác. Có như vậy hiệu quả của công cụ mới phát huy tối đa sức mạnh của nó. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu: 4.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm. Nếu doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm là công cụ cạnh tranh thì phải tập trung toàn bộ chiến lược về sản phẩm làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với thị tr ường. Nghiên cứu sản phẩm về thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi sản phẩm đ ược coi là lời giải đáp của doanh nghiệp cho một nhu cầu đã được tìm thấy trên thị trường và là một lời hứu hẹn đối với người mua, người mua thường quan niệm: sản phẩm hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu cầu của mình. Như vậy để đáp ứng nhu cầu thị tr ường ngày càng biến động nhanh chóng theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn, cao cấp hơn và độc đáo hơn, doanh nghiệp có thể chọn theo các hướng:  Đa dạng hoá sản phẩm: Đa dạng hoá sản phẩm thực chất là mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm tạo nên một cơ cấu có hiệu quả của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm theo hai hướng sau - Đa dạng hoá đ ồng tâm: Là hướng phát triển đa dạng hoá sản phẩm trên nền của sản phẩm chuyên môn hoá, xoay quanh sản phẩm chuyên môn hoá. Doanh nghiệp có thể dựa vào năng lực sản xuất hiện có như vốn, công nghệ, con người và nhu cầu thị trường để thực hiện chiến lược đa dạng hoá đồng tâm. - Đa dạng hoá kết khối: Là hình thức phát triển đa dạng các lĩnh vực kinh doanh có các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật khác nhau trong một doanh nghiệp. Chiến lược này phù hợp với các công ty có quy mô lớn, các tập đoàn đa quốc gia.  Khác biệt hoá sản phẩm:
  9. Khác biệt hoá sản phẩm là tạo ra các đặc điểm riêng độc đáo được thừa nhận trong toàn ngành có thể là các đặc tính riêng của sản phẩm, sự điển hình về thiết kế hay danh tiếng sản phẩm hay sự khác biệt về công nghệ sản xuất. Cạnh tranh bằng sản phẩm có hai yếu tố cạnh tranh quan trọng là chất lượng và giá cả: 4.1.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm. Chữ tín của sản phẩm quyết định chữ tín của doanh nghiệp và tạo lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh. Do đó để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm thoả mãn đến mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Để lấy chất lượng làm công cụ cạnh tranh thì mức độ thoả mãn của người tiêu dùng sau khi tiêu dùng ngày càng tăng lên. Theo quan điểm triết học của C.Mác: “Chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó”. Theo tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO): “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong mu ốn”. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là "biện pháp nghèo nàn nhất" vì nó làm giảm lợi nhuận thu được. Trong khi đó, cùng một loại sản phẩm như nhau nhưng sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn lại được người tiêu dùng sẵn sàng chấp nhận, đôi khi cả với giá cao hơn. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống được nâng cao, các tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng được áp dụng vào đời sống thì chất lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Một khi chất lượng không đảm bảo, doanh nghiệp sẽ bị khách hàng từ bỏ, mất thị trường và nhanh chóng đi tới chỗ suy yếu và phá sản. Nếu một doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có chất lượng cao thì sẽ đem lại những thiết thực như sau:
  10. Một là: Do chất lượng sản phẩm cao nên tốc độ tiêu thụ nhanh, tạo được ấn tượng tốt về nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, kích thích người tiêu dùng. Hai là: Sản phẩm có chất lượng cao sẽ tạo khả năng sinh lời do giảm được phế phẩm, tốc độ tiêu thụ nhanh, giảm thiểu thời gian kiểm tra. Ba là: Chất lượng sản phẩm cao góp phần cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bốn là: Do việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, bảo đảm sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp, bảo đảm giành thắng lợi trong cạnh tranh và thu hút thêm ngày càng nhiều khách hàng, góp phần phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay khi mà thu nhập của mỗi người dân được tăng lên thì chất lượng sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm còn thể hiện ở đặc tính của sản phẩm về nhãn hiệu, mẫu mã, bao bì và tính hữu dụng. Trong sự cạnh tranh gay gắt thì các yếu tố này càng trở nên quan trọng và có thể coi là một bộ phận công cụ cạnh tranh không kém phần lợi hại. Đối với mỗi doanh nghiệp, việc lựa chọn nhãn hiệu, ký hiệu phù hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nhãn hiệu, ký hiệu được coi là dấu vết của sản phẩm, gắn bó chặt chẽ với cuộc đời của doanh nghiệp. Nó thực sự mang lại cho doanh nghiệp một tư thế riêng và ngày càng đóng một vai rò quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Từ thực tế cho thấy tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong sản xuất kinh doanh, khống chế trong cạnh tranh thì đều là các doanh nghiệp có thái độ tích cực như nhau đối với chất lượng sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ là chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung thực trong quan hệ mua bán, đặc biệt là các doanh nghiệp luôn coi trọng việc nâng cao là một chiến lược cạnh tranh trên thị trường có phạm vi toàn cầu. 4.1.2. Cạnh tranh bằng giá cả sản phẩm.
  11. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp dự tính có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi sản phẩm trên thị trường. Hay nói cách khác, giá cả là số tiền người mua trả cho người bán về việc cung ứng một hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Giá cả có vai trò rất quan trọng, đối với doanh nghiệp nó là khâu cuối cùng, với người tiêu dùng nó là một yếu tố quyết định đến việc mua hay không mua hàng. Giá cả là dấu hiệu tin cậy phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả, doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường . Theo lý thuyết kinh tế thì giá cả được hình thành do sự gặp gỡ giữa cung và cầu. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì mỗi người tham gia thị trường đều là những người chấp nhận giá. Tuy nhiên, thông thường để giành phần thắng trong trận chiến thì các đối thủ cạnh tranh thường cố gắng đưa ra các mức giá thấp hơn so với đối phương nhằm tiêu thụ được nhiều hàng hoá dịch vụ. Trong cạnh tranh, giá cả được sử dụng làm một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu thông qua chính sách định giá bán, và khi đưa một chính sách ra thị tr ường doanh nghiệp cần căn cứ vào các mặt sau:  Lượng cầu đối với sản phẩm: Doanh nghiệp cần tính toán nhiều phương án giá, ứng với mỗi loại giá là một lượng cầu, từ đó chọn ra các phương án có nhiều lợi nhuận nhất dựa trên tính quy luật: giá cao thì ít người mua và ngược lại. Tuy nhiên điều này chỉ đúng với loại hàng hoá có nhu cầu bền.  Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm: Giá bán là tổng hợp giá thành và lợi nhuận mục tiêu. Tuy nhiên, không phải bao giờ giá bán cũng cao hơn giá thành, nhất là trong điều kiện cạnh tranh thị trường.  Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh và từ đó có cách định giá cho mỗi loại thị trường. Cạnh tranh về giá cả thể hiện qua các chính sách định giá. Doanh nghiệp có thể có 3 chính sách định giá sau:
  12. - Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường để thu hút người tiêu dùng về phía mình. Từ đó tăng được sản lượng tiêu thụ và do đó tăng lợi nhuận. Mặt khác, với giá như vậy, doanh nghiệp sẽ có khả năng chiếm lĩnh thị trường cũ và xâm nhập vào các thị trường mới. - Chính sách định giá ngang giá thị trường: Là định ra mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá thống trị trên thị trường, giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, đồng thời, nếu doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm hoặc đẩy mạnh công tác tiêu thụ thì vẫn thu được nhiều lợi nhuận hơn nhờ tiết kiệm được chi phí hoặc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ. - Chính sách định giá cao: Là chính sách định giá sản phẩm cao hơn giá thống trị trên thị trường, cao hơn giá trị của sản phẩm. Chính sách này chỉ áp dụng với doanh nghiệp có sản phẩm độc quyền hoặc các doanh nghiệp có chất lượng vượt trội so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Với mức giá cao hơn giá thị trường doanh nghiệp sẽ thu được khoản lợi nhuận siêu ngạch. - Chính sách giá phân biệt: Chính sách này được biểu hiện là cùng với một sản phẩm song lại bán ra với những mức giá khác nhau như: +, Phân biệt theo lượng mua: Người mua nhiều phải được ưu đãi hơn so với người mua ít. +, Phân biệt theo chất lượng sản phẩm: Giá bán sẽ phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm là loại nào (loại 1, loại 2,...). Nếu sản phẩm loại 1 tốt hơn loại 2 thì giá bán loại 1 sẽ cao hơn. +, Phân biệt theo phương thức thanh toán: Với những khách hàng trả tiền ngay được ưu đãi hơn so với nhưng khách hàng trả chậm. +, Phân biệt theo thời gian: Giá tại thời điểm này khác so với giá tại thời điểm khác. +, Phân biệt theo mùa: Giá bán áp dụng cho mùa nay không giống so với giá áp dụng cho các mùa khác. - Chính sách bán phá giá: Giá bán ra thấp hơn hẳn so với giá thị trường, thậm chí có thể thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm đánh bại đối thủ, loại đối thủ ra khỏi thị trường. Chính
  13. sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có thế mạnh về uy tín, tài chính... Chỉ nên áp dụng chính sách này trong một thời gian nhất định và có kết quả là có thể loại bỏ được một số đối thủ nhỏ nhưng khó đánh bại được đối thủ lớn. Tuy nhiên để cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ thì chúng ta không thể sử dụng chính sách này bởi Chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra luật chống bán phá giá. Cạnh tranh về giá cả thường được sử dụng khi doanh nghiệp tung một sản phẩm mới ra thị trường hay khi muốn xâm nhập vào thị trường mới, hoặc khi muốn thủ tiêu một đối thủ cạnh tranh khác. Cạnh tranh bằng giá cả sẽ đem lại ưu thế cho các doanh nghiệp có vốn và sản lượng lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác. Như vậy, qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền sản xuất hàng hoá thì tầm quan trọng của các công cụ cạnh tranh cũng thay đổi. Khi nhu cầu của người tiêu dùng ch ưa được thoả mãn và thu nhập thấp thì giá cả sản phẩm được coi là công cụ cạnh tranh quan trọng, nhưng sau đó khi đ ã được thoả mãn về giá cả thì lại xuất hiện ngững nhu cầu về chất lượng, phương thức cung ứng... Cạnh tranh bằng giá cả là một biện pháp quan trọng, nhưng không phải là quan trọng nhất. 4.2. Cạnh tranh bằng các biện pháp tiếp thị (marketing): Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Để tiêu thụ sản phẩm, công việc đầu tiên của doanh nghiệp là lựa chọn kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đ ích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng, để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn. Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt có nghĩa là xây dựng một nền móng vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp. Như vậy, tổ chức tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tổ chức tiêu thụ tốt có tác dụng giúp doanh nghiệp: tăng sản lượng tiêu thụ, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh; tạo uy tín của sản phẩm trên thị trường làm cho nhiều khách hàng biết đến và hiểu rõ tính năng, công dụng của nó; giúp doanh nghiệp
  14. tìm được nhiều bạn hàng mới, khai thác được nhiều thị trường; kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển. Bên cạnh việc tổ chức mạng l ưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi, các dịch vụ sau bán hàng. đây là một hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý và thu hút khách hàng. II. Sức cạnh tranh của hàng hoá: 1. Khái niệm. Sức cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là tất cả đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà s ản phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương trường cạnh tranh một cách lâu dài và có ý nghĩa. Sức cạnh tranh của hàng hoá đó là khả năng chiếm lĩnh thị trường của một mặt hàng, là khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được những điều kiện thuận lợi trong tiêu thụ hàng hoá của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá còn được thể hiện ở vị trí của mặt hàng đó trên thị trường, hay nói cách khác đó là sức mua đối với hàng hoá đó trên thị trường, là mức độ chấp nhận của người tiêu dùng. 2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá. 2.1. Sản lượng, doanh thu: Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá, trong đó sản lượng và doanh thu của sản phẩm là một chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Nếu sản lượng tiêu thụ hàng hoá tăng cao qua các năm tức là hàng hoá duy trì và giữ vững được thị phần. Cũng như doanh thu hàng năm cao với tốc độ tăng qua các năm tốt chứng tỏ giá cả hàng hoá được duy trì ổn định, hàng hoá đó đứng vững trong cạnh tranh, có sức cạnh tranh cao và được thị trường chấp nhận. Còn nếu khối lượng
  15. tiêu thụ lớn mà doanh thu không cao chứng tỏ giá cả hàng hoá có sự giảm sút và sức cạnh tranh của hàng hoá phần nào bị giảm đi. 2.2. Thị phần: Thị phần cũng là một trong những chỉ tiêu hay được dùng nhất để đánh giá cức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ (thường được tính trong một năm) là tỷ lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm được trong thời kỳ đó, và nó được tính theo công thức sau: Doanh thu của doanh nghiệp Thị phần của doanh nghiệp = ------------------------------------------- * 100% trong một thời kỳ Tổng doanh thu trên thị trường (cùng trong thời kỳ đó) Hay: Lượng bán của doanh nghiệp Thị phần của doanh nghiệp = ---------------------------------------- * 100% (trong một thời kỳ) Lượng tiêu thụ trên thị trường (cùng trong thời kỳ đó) Trên thị trường, nói chung thường thường có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một mặt hàng. Những hãng lớn thường có thị phần lớn và ngược lại. Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên vai trò, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Cũng như cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường đối với mặt hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh như thế nào. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức độ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp có được mở rộng ra trên thị trường hay không. Thị phần của doanh nghiệp lớn hơn chứng tỏ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được khách hàng ưa chuộng và đánh giá cao hơn, điều đó có nghĩa là nó có khả năng đáp ứng những nhu cầu của khách hàng cao hơn so với các đối
  16. thủ cạnh tranh. Những doanh nghiệp có thị phần lớn ở mặt hàng nào đó thường là những doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến để sản xuất mặt hàng đó nhằm đảm bảo sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả lại phù hợp, đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng. Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị tr ường mà lớn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh lớn, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó tốc độ tăng qua các năm cũng cho thấy khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng. Chỉ tiêu này khi sử dụng có một nhược điểm là khi tính toán chỉ tiêu khó đảm bảo tính chính xác, nhất là khi thị trường quá rộng lớn, không thể tính toán được doanh thu thực tế của các doanh nghiệp khác, nếu có thì cũng mất rất nhiều thời gian và chi phí. Do đó để đánh giá chính xác hơn, doanh nghiệp có thể tính theo chỉ tiêu thị phần so với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. 2.3. Thi phần so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất: Doanh thu của doanh nghiệp Thị phần so với đối thủ = ---------------------------------------------- * 100% cạnh tranh mạnh nhất Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất Nếu sử dụng ph ương pháp này, người ta có thể lựa chọn từ 2 đến 5 đối thủ mạnh nhất, tuỳ theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà có những lựa chọn khác nhau. Phương pháp này có ưu điểm là: Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính hơn nhiều so với chỉ tiêu thị phần, do đối thủ cạnh tranh thì thường có nhiều thông tin hơn và những thị phần mà đối thủ mạnh nhất chiếm giữ thường là khu vực thị trường có lợi nhuận cao hơn và rất có thể doanh nghiệp cần phải chiếm lĩnh thị trường này.
  17. Phương pháp này cũng có nhược điểm là chưa thật chính xác do khó lựa chọn được những đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, đặc biệt là khi kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đảm bảo cần chia ra nhiều lĩnh vực nhỏ để lựa chọn. 2.4. Nhãn hiệu thương mại. Ngày nay, uy tín của thương hiệu sản xuất càng trở nên quan trọng. Cùng một mức chất lượng, giá cả và mẫu mã như nhau, nhưng sản phẩm có thương hiệu uy tín được nhiều người biết đến có thể bán với giá cao hơn hàng chục lần. Không những thế nhãn hiệu thương mại của công ty càng có uy tín thì sẽ tạo cho người tiêu dùng lòng tin, độ tin cậy đối với hàng hoá. Khi tiêu dùng sản phẩm của công ty, người tiêu dùng sẽ không còn phải băn khoăn nhiều cũng như phải mất nhiều thời gian hơn để tìm hiểu về sản phẩm mình muốn mua. Như vậy, nhãn hiệu thương mại có thể coi như là một tài sản vô hình mà công ty đã tạo dựng đ ược trong một thời gian nhất định. 2.5. Hình ảnh của hàng hoá và quốc gia. Yếu tố hình ảnh quốc gia tạo nên sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với hàng hoá mà họ mua. Quốc gia nào tạo cho mình được một hình ảnh tốt đẹp, tạo được vị trí cao trên trường quốc tế (trong khu vực và trên thế giới) thì quốc gia đó sẽ có lợi thế hơn rất nhiều, hàng hoá của quốc gia đó bán ra không những dễ được thị trường chấp nhận hơn mà còn bán được với mức giá cao hơn. Đối với Việt Nam, đây là một hạn chế rất lớn, do Việt Nam chưa tạo d ựng được cho mình một "hình ảnh" cao trong khu vực và cả trên thế giới, do đó mà một số mặt hàng của Việt Nam muốn đem bán tại một thị trường nước ngoài nào đó thì phải qua các bước trung gian, tức là phải nhờ đến "hình ảnh quốc gia" của một nước thứ ba (mà nước này có vị thế cao hơn Việt Nam trên tr ường quốc tế). Điều này làm cho lợi nhuận bán hàng bị chia sẻ rất nhiều, đưa đến thua thiệt cho phía Việt Nam. 3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá: Trên thị trường, sức cạnh tranh của hàng hoá bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố, trong đó bao gồm cả các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp:
  18. 3.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Theo mô hình 5 khả năng của M.E.Porter có 5 nhân tố tác động chính đến sức cạnh tranh của hàng hoá trong cùng một ngành, bao gồm: 3.1.1. Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành. Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại diễn ra do một hoặc nhiều đối thủ cảm thấy bị chèn ép hoặc cảm thấy có cơ hội để cải thiện vị trí. Trong cuộc cạnh tranh đó các đối thủ sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng hoặc bảo hành... 3.1.2. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn ra nhập thị trường Những người mới bước vào kinh doanh ở một lĩnh vực, một ngành hoặc một thị trường sẽ mang theo năng lực sản xuất mới với mong muốn chiếm lĩnh một phần thị trường; sự xuất hiện của họ làm cho giá bán bị kéo xuống và kết quả là làm giảm mức lợi nhuận. Từ đó mà nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện đang kinh doanh trên thị trường. Hơn nữa những người mới sẽ có những cách tiếp cận mới có hiệu quả hơn đ ối với khách hàng. Tuy nhiên để bước vào kinh doanh ở thị trường mới, các công ty phải đủ khả năng vượt qua những cản trở nhất định. Theo quan điểm của M. Porter, các rào chắn ngăn cản sự xâm nhập của một công ty bao gồm : 1. Hiệu quả kinh tế do quy mô 2. Sự khác biệt hay ấn tượng về sản phẩm 3. Yêu cầu về vốn 4. Chi phí chuyển đổi 5. Kênh phân phối 6. Chính sách của Chính phủ 7. Sự phản ứng của các nhà cạnh tranh ... 3.1.3. Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế.
  19. Xét theo nghĩa rộng thì các hãng trong một ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế, nó bao gồm cả ở hiện tại và tương lai. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khi hai sản phẩm có công dụng gần tương tự nhau thì đương nhiên người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm nào có mức giá thấp hơn, tức là khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng vững chắc hơn. Sự sẵn có của sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp. 3.1.4. Sức ép của khách hàng: Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Người mua tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn, được dịch vụ nhiều hơn và còn làm cho các đối thủ cạnh trạnh chống lại nhau - tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận của ngành. Quyền lực của mỗi một nhóm khách hàng quan trọng của ngành phụ thuộc vào một loạt các đặc điểm về tình hình thị trường của nhóm và vào tầm quan trọng của các hàng hoá mua của ngành xét trong mỗi tương quan của toàn bộ hoạt động kinh doanh chung của nhóm. 3.1.5. Sức ép của người cung ứng: Những người cung ứng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Họ có thể khẳng định quyền lực của mình bằng cách đe doạ tăng hoặc giảm giá, chất lượng hàng hoá hay dịch vụ đã mua. Những người cung cấp có thế lực bằng cách đó chèn ép lợi nhuận của một ngành khi ngành đó không có khả năng bù đắp lại chi phí tăng lên trong mức giá của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
  20. - Nguồn cung cấp của doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung cấp. - Nếu nhà cung ứng có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng. 3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp. 3.2.1. Nguồn nhân lực: Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm: - Ban giám đốc doanh nghiệp. - Cán bộ quản trị ở cấp doanh nghiệp. - Cán bộ quản trị ở cấp trung gian, đốc công và công nhân.  Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những cán bộ quản trị cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn ngoài Ban giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp. Các thành viên Ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu, lợi nhuận,mà còn cả uy tín - lợi ích lâu dài của doanh nghiệp đó mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.  Đội ngũ cán bộ quản trị cấp trung gian, đốc công và công nhân: Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tiễn là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn nhân lực tổ chức và vật chất. Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2