intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nghiên cứu về các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

428
lượt xem
76
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hội đoàn Công giáo là một trong những hình thức tổ chức tập hợp quần chúng rộng rãi, đa dạng với các tên gọi khác nhau thu hút tín đồ ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ tham gia. Giáo dân ai cũng có thể gia nhập vào một hay nhiều hội đoàn thích hợp với mình tùy theo tâm, sinh lý lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp... Việc gia nhập các hội đoàn Công giáo vừa đáp ứng được nhu cầu sống đạo của mỗi tín đồ, vừa thể hiện được sự liên kết, gắn bó cao trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nghiên cứu về các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình

  1. LUẬN VĂN: Nghiên cứu về các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội đoàn Công giáo là một trong những hình thức tổ chức tập hợp quần chúng rộng rãi, đa dạng với các tên gọi khác nhau thu hút tín đồ ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ tham gia. Giáo dân ai cũng có thể gia nhập vào một hay nhiều hội đoàn thích hợp với mình tùy theo tâm, sinh lý lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp... Việc gia nhập các hội đoàn Công giáo vừa đáp ứng được nhu cầu sống đạo của mỗi tín đồ, vừa thể hiện được sự liên kết, gắn bó cao trong sinh hoạt tôn giáo, phù hợp với phong tục tập quán và nó cũng đáp ứng được với đặc điểm của lễ nghi Công giáo là phải được biểu hiện ra ngoài bằng các hình thức phụng tự khác nhau. Các hội đoàn Công giáo ra đời trên cơ sở những nhu cầu ấy. Nhưng hội đoàn là một vấn đề phức tạp trong công tác quản lý của Nhà n ước ta đối với đạo Công giáo; vì ngoài những hội đoàn phục vụ lễ nghi Công giáo, Giáo hội Công giáo còn thành lập nhiều loại hội đoàn với các mục đích khác nhau. Trong lịch sử, ngay từ những ngày đầu truyền giáo của các Thừa sai ở Việt Nam, các hình thức hội đoàn Công giáo sơ khởi đã được thành lập. Sau Công đồng Vatican II, Giáo hội Công giáo đã nâng cao vị trí, vai trò của người giáo dân trong Giáo hội, thúc đẩy họ trong các hoạt động truyền giáo, đặc biệt là truyền giáo tập thể. Việc liên kết giáo dân thành các hội đoàn để hoạt động tông đồ vừa để củng cố đức tin trong cộng đồng người có đạo, vừa để rao giảng Phúc Âm của Chúa Kitô ra dân ngoại, giúp cho thế lực của giáo hội bành trướng, để mở rộng nước Chúa ra toàn thế giới. Với ý nghĩa đó, hàng giáo sĩ Giáo hội Công giáo ở Việt Nam dù khuynh hướng và ý đồ có khác nhau nhưng đều có mục đích là phải phát triển các hội đoàn để củng cố Đức tin, củng cố giáo quyền và phát triển đạo. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hội đoàn Công giáo đã bị kẻ thù lợi dụng nghiêm trọng, nó được coi như một công cụ để chống phá Cách mạng.
  3. Hiện nay một số hội đoàn Nhà nước ta không cho phép thành lập vì các hội đoàn này không phải để phục vụ lễ nghi Công giáo, hoặc hoạt động thuần túy tôn giáo, mà liên quan đến vấn đề chính trị - xã hội, đặc biệt là việc khôi phục lại những hội đoàn chính trị phản động trước kia. Việc Giáo hội Công giáo quyết định thành lập các hội đoàn nói trên là trái với "Luật quy định quyền lập Hội" - ban hành theo Luật số 102/SL/L-004 ngày 20/5/1957 của Chính phủ; trái với điều 8 Nghị định của Chính phủ "Về các hoạt động tôn giáo" số 26/1991/NĐ/CP đã ban hành. Tuy không có tư cách pháp nhân nhưng các hội đoàn Công giáo liên quan đến chính trị xã hội vẫn hoạt động một cách công khai. Đoàn ngũ hóa giáo dân là mục tiêu của Giáo hội Công giáo và việc thành lập các hội đoàn Công giáo đã đáp ứng được mục tiêu đó. Thực chất đây là vấn đề tranh chấp quần chúng với các đoàn thể xã hội của Giáo hội Công giáo nhằm gắn chặt giáo dân với giáo quyền bằng luật buộc. Và như vậy, hội đoàn Công giáo dần đã trở thành một trong những yếu tố cấu thành nên cơ cấu hoàn chỉnh của giáo hội cơ sở. Vì vậy, việc nghiên cứu các hội đoàn Công giáo mang tính cấp thiết, để giúp chúng ta phân định được nhu cầu chính đáng trong việc sống đạo của giáo dân, chỉ ra được mặt tích cực của một số hội đoàn Công giáo, giúp cho đồng bào có đạo yên tâm sinh hoạt tôn giáo và tham gia tích cực vào việc xây dựng cuộc sống cộng đồng, tuân thủ pháp luật, gắn bó với dân tộc; đồng thời chỉ ra được thực chất của các hội đoàn hoạt động biểu hiện tỉnh chất chính trị xã hội, liên quan đến chính trị xã hội mà mục đích của nó là ngăn cản tín đồ Công giáo tham gia vào các tổ chức quần chúng xã hội, gây khó khăn cho công tác vận động quần chúng của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước đối với Giáo hội Công giáo, đặc biệt là giáo hội cơ sở. Việc phân định ấy có một ý nghĩa thực tiễn to lớn là giúp cho cấp ủy, chính quyền các cấp; đặc biệt là cấp ủy và chính quyền cơ sở ở xã, phường, có một cách nhìn đúng đắn, để có những chủ trương, giải pháp phù hợp đối với vấn đề hội đoàn Công giáo hiện nay.
  4. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có những công trình nghiên cứu trên các bình diện khác nhau về hội đoàn Công giáo của nhiều đoàn thể và tác giả như: Kết quả khảo sát, đánh giá hội đoàn Công giáo của Ban Dân vận Tỉnh ủy Thái Bình phục vụ cho việc tổng kết Nghị quyết 24/NQ/BCT của Bộ Chính trị khóa VI "Về công tác tôn giáo trong tình hình mới", 1996; Công tác vận động thanh niên của Trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - Hà Nội 1996, Dự thảo báo cáo bước đầu tìm hiểu vấn đề hội đoàn Công giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ 1996; thực trạng hội đoàn Thiên Chúa giáo và những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước" in trong tập Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Tác động của tôn giáo đối với tình hình an ninh trật tự" của Tổng cục An ninh - Viện Nghiên cứu chiến lược và khoa học Công an - Hà Nội 1999; Công trình của hai tác giả Quang Toàn và Nguyễn Hoài Những hoạt động của bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo trong thời kỳ kháng chiến (1945 - 1954), Nxb Khoa học - 1965 và Lịch sử Công an nhân dân Thái Bình (1945 - 1954) - Sở Văn hóa thông tin Thái Bình - Thái Bình 2000. Nhưng theo tác giả luận văn này, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề hội đoàn Công giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đồng bào Công giáo trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ ngày thành lập giáo phận (1936) đến nay. Việc nghiên cứu về các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình là cần thiết để nhận diện các tổ chức quần chúng của giáo dân nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục những mặt tiêu cực của các tổ chức này, để vừa giúp cho đồng bào Công giáo sống "tốt đạo, đẹp đời", "kính Chúa yêu nước", cũng vừa để ngăn chặn những hành vi lợi dụng tôn giáo làm phương hại đến tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội, góp phần chống lại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực phản động để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta.
  5. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Mục đích: Phân loại và làm rõ bản chất của các loại hội đoàn Công giáo trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Từ đó đề xuất chủ trương, giải pháp và những kiến nghị nhằm để quản lý tốt hơn các hội đoàn Công giáo trong tỉnh. Nhiệm vụ: - Làm rõ sự ra đời, phát triển và vai trò của các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình đặc biệt trong giai đoạn 1945 - 1954. Đồng thời, làm rõ ý nghĩa tôn giáo và xã hội của tổ chức này. - Chỉ ra được các hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của hội đoàn Công giáo. - Đề xuất giải pháp và kiến nghị đối với vấn đề hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu, khảo sát và điều tra nghiên cứu các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo; có kế thừa, chọn lọc một số công trình nghiên cứu của nhiều tác giả có liên quan đến nội dung của luận văn. Tác giả của luận văn vận dụng phương pháp lôgic lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê và phỏng vấn thực tế tại cơ sở. Ngoài ra, còn sử dụng một số kết quả của các tài liệu nghiên cứu từ phương pháp điều tra xã hội học. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
  6. - Góp phần làm rõ thêm cách nhìn nhận đánh giá về hội đoàn Công giáo ở Thái Bình. - Đề xuất những kiến nghị, giải pháp về vấn đề hội đoàn Công giáo. 6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo liên quan đến hội đoàn Công giáo. - Làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu về vấn đề hội đoàn Công giáo (đặc biệt là trong phạm vi tỉnh Thái Bình). - Làm tài liệu tham khảo cho các lớp tập huấn cán bộ cơ sở làm công tác tôn giáo trong địa bàn tỉnh Thái Bình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn gồm 2 chương 6 tiết.
  7. Chương 1 Sự ra đời và phát triển của các Hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình 1.1. Khái niệm và phân loại hội đoàn công giáo 1.1.1. Khái niệm về hội đoàn Công giáo Việc duy danh định nghĩa về hội đoàn Công giáo tất nhiên là cần thiết và như là điều kiện tiên quyết giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những tổ chức mang tính quần chúng của giáo dân trong cơ cấu tổ chức của Giáo hội Công giáo. Song, ngay trong các văn bản của Giáo hội Công giáo, khái niệm này cũng không đồng nhất về cách gọi. hội đoàn Công giáo có một quá trình biến đổi về cách gọi theo thời gian mà Giáo hội Công giáo sử dụng. Trong cuốn Điển ngữ Đức tin Công giáo của Linh mục Hồng Phúc 1996 ghi là: Danh từ hội đoàn có thể hiểu về hai tổ chức trong giáo hội: 1) Hội đoàn đạo đức: Hội đoàn quy tụ các thành phần, như thanh niên thiếu nữ, các người lập gia đình, cha mẹ, để giúp nhau sống đạo đức hay bác ái. Họ là giáo dân, không có lời khấn hứa. 2) Tu hội hay dòng tu. Tập thể các tu sĩ nam nữ có lời khấn thường. Hoặc cộng đoàn tu sĩ sống chung, chỉ có lời cam đoan hay lời hứa, thường gọi là tu hội đời [22, tr. 325]. Trong Bộ giáo luật (GL 1986), ở điều 298 sau khi phân biệt sự khác nhau giữa các Hội dòng tận hiến, các Tu đoàn tông đồ của những tu sĩ, giáo sĩ (sống tập thể trong các tu viện, có quy chế độc lập hay tương đối độc lập) ra thì các tổ chức của giáo sĩ hay giáo dân hoặc gồm cả giáo sĩ, giáo dân chung nhau hoạt động được gọi là Hiệp hội" [33, tr. 95]. Trong Công đồng Vatican II, ở Chương IV: Các phương thức hoạt động tông đồ - Phần nhập đề ghi là: "Giáo dân có thể thực hiện việc tông đồ từng người hoặc liên kết thành cộng đoàn hay gọi là hội đoàn" [34, tr. 549].
  8. Như vậy, khái niệm về hội đoàn mà Linh mục Hồng Phúc nêu lên trong Tự điển Đức tin Công giáo (1996) chỉ đề cập đến các Hiệp hội của giáo dân chuyên chăm lo về phần tu đức, bác ái chứ không đề cập đến loại Hiệp hội tông đồ giáo dân, và phân định rất rõ các hội đoàn của giáo dân và tu sĩ; giáo dân không tham gia vào các tu hội hay dòng tu đó là lẽ cố nhiên, nhưng lại chỉ rõ: tu sĩ, giáo sĩ không tham gia vào các hội đoàn của giáo dân. Điều này khác với điều đã nêu trong giáo luật là giáo sĩ có thể tham gia vào các Hiệp hội của giáo dân; dù họ chỉ là thành viên trong các Hiệp hội này. Qua ba văn bản trên, ta thấy có hai cách gọi thống nhất về khái niệm hội đoàn; một cách gọi khái niệm này là hiệp hội, và cũng có những cách phân chia khác nhau. Song dù với cách gọi và phân chia như thế nào đi nữa thì khái niệm hội đoàn Công giáo cũng dùng để chỉ các tổ chức của giáo dân (có thể có tu sĩ, giáo sĩ tham gia) được thành lập để phục vụ cho những nhu cầu trần thế của Giáo hội Công giáo. Các sinh hoạt tôn giáo có một đặc điểm là mang tính cộng đồng cao. Đặc điểm này được thể hiện rõ nét hơn, sâu đậm hơn và liên tục hơn trong các nghi lễ phụng vụ của đạo Công giáo. Kinh Tân ước ghi rõ, việc "Cầu nguyện chung" đem lại những ân sủng to lớn mà người giáo dân có được "Nếu có hai người trong anh em hợp ý với nhau mà xin bất cứ sự gì, thì cha ta ở trên trời sẽ ban cho họ", "Vì ở đâu có hai hoặc ba người hội họp nhân danh Ta, thì ta ở giữa họ [12, tr. 62]. Nhờ cầu nguyện, thông qua cầu nguyện, và đặc biệt nhờ vào việc cầu nguyện tập thể, người giáo dân tin là sẽ được trực tiếp thông công với Thiên Chúa của họ, họ phó thác đời sống của mình trong lời cầu xin để Thiên Chúa thương xót và ban ơn cho họ; cũng nhờ cầu nguyện, đức tin, đức cậy, đức mến được biểu lộ, được tỏ rõ, được củng cố. Bởi vì cầu nguyện là một hình thức phụng tự trong nghi lễ Công giáo "cho người tín hữu sống trung thành với điều họ đã lĩnh nhận nhờ đức tin" [34, tr. 72]. Chúng ta có thể coi đây là một hình thức tông đồ đối nội - là hoạt động trong các cộng đồng giáo dân nhằm củng cố đức tin, tránh khô nhạt đạo "rời bỏ Chúa Kitô", Một đặc điểm nổi bật nữa của lễ nghi Công giáo là các hình thức phụng tự phải được biểu hiện ra ngoài: "Phụng vụ cũng bày tỏ cho những kẻ bên ngoài thấy giáo hội
  9. như một dấu chỉ nêu cao trước mặt các nước ngõ hầu con cái Thiên Chúa đang tản mác được quy tụ nên một" [34, tr. 66]. Ngoài việc đề cao các lễ nghi phụng tự ra, Giáo hội Công giáo còn chỉ rõ: "Phụng vụ không phải là hoạt động duy nhất của giáo hội" [34, tr. 70], bởi vì việc cầu nguyện dù của cá nhân hay tập thể cũng chỉ là biểu hiện của người đã chịu phép rửa tội, là việc củng cố đức tin của người có đạo; còn một sứ mệnh lớn lao nữa mà mỗi một tín đồ Công giáo phải thực hiện đó là việc truyền đạo (truyền bá Phúc Âm). Theo họ thì con người cần được mời gọi để tin và hoán cải trước khi có thể đến tham gia phụng vụ: "Làm sao kêu đấng họ không tin? Làm sao tin đấng họ không được nghe? Làm sao nghe được nếu không có người rao giảng? Làm sao rao giảng nếu không được sai đi?" [34, tr. 70-71]. Do vậy khi đã chịu phép rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo "Mọi người giáo dân, dù thuộc thành phần nào đi nữa, dù không có cơ hội hay khả năng để cộng tác trong các hội đoàn đều được kêu gọi và hơn nữa phải làm việc tông đồ cá nhân" [34, tr. 550], giáo hội cũng chỉ rõ việc tông đồ cá nhân có môi trường hoạt động đặc biệt trong những miền người Công giáo ít ỏi và tản mác thì hiệu quả sẽ rất thấp. Như vậy, mỗi một tín đồ Công giáo đều phải thực hiện hai nhiệm vụ: 1- Tham dự các lễ nghi phụng tự. 2- Tham gia vào hoạt động truyền giáo. Việc tham dự các lễ nghi mang tính tập thể sẽ nảy sinh ra một nhu cầu, đó là sự liên kết thành những nhóm, những hội mang tính quần chúng trong phụng vụ cũng như trong hoạt động truyền giáo, và với một ý thức cộng đồng sâu đậm của người Việt Nam: "một cây làm chẳng nên non" thì việc hình thành các hội, nhóm sẽ là điều tất yếu xảy ra trong sinh hoạt tôn giáo của người giáo dân. Hội đoàn Công giáo ở Việt Nam ra đời trên cơ sở đó, để vừa đáp ứng được đặc điểm lễ nghi Công giáo, vừa thỏa mãn được nhu cầu truyền giáo và cũng vừa phù hợp với tâm thức cố kết cộng đồng của người Việt trong các sinh hoạt tôn giáo của giáo dân.
  10. Từ Hội được sử dụng ngay từ thời Alexandre de Rhodes, khi vị thừa sai này lập ra "Hội thầy giảng" đầu thế kỷ XVII (1929?) để tập hợp những người bản xứ giúp các giáo sĩ phương Tây trong việc "truyền bá Phúc Âm", và làm các việc thay cho các vị thừa sai trong những "hoàn cảnh đặc biệt". Alexandre de Rhodes viết: "Khi tôi ngồi tòa thì các thầy giảng làm phận sự dạy người tân tòng" [23, tr. 78]. Để trở thành thầy giảng và gia nhập "Hội thầy giảng" thì phải tuyên khấn các điều sau đây: "Suốt đời thờ phụng giáo hội, không lập gia đình và vâng lời các cha dòng đến giảng Phúc Âm" [23, tr. 78]. Hội thầy giảng được thành lập ra để hoạt động tông đồ tập thể, và hiệu quả của việc tông đồ tập thể này được Alexandre de Rhodes đánh giá rất cao: "Các thầy giảng đã giúp tôi cách rất lạ lùng để vun trồng vườn nho tốt đẹp ấy và phát triển đạo thánh của chúng ta. Sau Thiên Chúa họ đã làm hết mọi việc trong sự tiến triển giáo hội ở đây. Tôi thấy chỉ mình tôi là Linh mục biết giảng được, vì cha theo tôi không nói được tiếng bản xứ, cho nên tôi đã lo liệu tìm kiếm những người giáo hữu chưa kết bạn, sốt sắng và đạo đức, để giúp tôi khuyên giục người ta trở lại" [21, tr. 10]. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện hình thức tập hợp các thầy giảng thành một tổ chức dưới sự chỉ đạo của giáo quyền và tuyên hứa những điều buộc theo giáo quyền để truyền đạo tập thể - tức là hoạt động tông đồ tập thể bằng hình thức hội đoàn của các tu sĩ người bản xứ. Kế tiếp việc làm của Alexandre de Rhodes, các thừa sai dòng Tên cũng thành lập ra một hội đoàn khác: đó là "Đạo binh nhi đồng" - Đây là loại hình hội đoàn của giáo dân lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam được thành lập dưới sự hướng dẫn của giáo quyền. Đến đầu thế kỷ XX xuất hiện thêm một số hội đoàn như "Nghĩa binh thánh thể" (1915), "Hướng đạo Công giáo" (1916), "Hội bác ái Vinh Sơn Phaolô" (1933) [25, tr. 344]. Riêng ở địa phận Bùi Chu, vào năm 1923 đã xuất hiện các hội đoàn Công giáo thuộc phong trào Công giáo tiến hành. Như vậy từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX các hội đoàn Công giáo ở Việt Nam đã hình thành và phát triển. Đến giai đoạn 1914 - 1939, thời kỳ đương nhiệm của Giáo hoàng Pio XI, một phong trào hội đoàn mới được tổ chức chặt chẽ với tên gọi là Công giáo tiến hành.
  11. Phong trào này được phát động với quy mô toàn cầu. Lý giải việc phát động phong trào Công giáo tiến hành, Giáo hoàng Pio XI nêu rõ: "Hoàn cảnh vạch rõ cho chúng ta con đường phải tiến bước cũng như những thời kỳ đầu trong lịch sử giáo hội, ngày nay chúng ta phải đối phó với một thế giới hầu như đã chìm đắm trong làn sóng vô đạo. Có những lớp người đã từ bỏ Chúa Kitô" [21, tr. 72]. Công giáo tiến hành: "Theo nghĩa đen, tiếng actiô catholien dịch là hành động Công giáo thì đúng, vì chỉ tất cả các hoạt động theo nguyên tắc Công giáo của người Công giáo, như đọc kinh, xem lễ, thăm viếng kẻ liệt, giúp đỡ người nghèo v.v..., còn theo nghĩa hẹp thì Công giáo tiến hành còn phải nhằm mục đích truyền giáo, là làm cho nước Chúa lan rộng trên thế gian và thấm nhập vào mọi tâm hồn" [21, tr. 28]. Giáo hoàng Pio XI định nghĩa về Công giáo tiến hành như sau: "Công giáo tiến hành là sự tham dự của giáo dân vào việc tông đồ của hàng giáo phẩm" [21, tr. 62]. Thời kỳ Giáo hoàng Pio XII định nghĩa Công giáo tiến hành vẫn được giữ nguyên, nhưng được làm rõ thêm với phần bổ sung sau đây: "Tất cả các giáo hữu đã chịu phép rửa tội phải làm tông đồ, còn các chiến sĩ Công giáo tiến hành lại là những tông đồ đặc biệt vì họ cộng tác chặt chẽ với Đức Giám mục và Linh mục trong việc tông đồ" [21, tr. 23]. Như vậy, hội đoàn Công giáo không đồng nhất với Công giáo tiến hành, chỉ những hội đoàn Công giáo mang tính chất truyền giáo mới tham gia Công giáo tiến hành; hay nói rõ hơn, những hội đoàn Công giáo được thành lập với mục đích phát triển đạo ra "dân ngoại", bất kể quy mô tổ chức như thế nào: với quy mô quốc tế, quốc gia, giáo phận hay giáo xứ dưới sự chỉ đạo của hàng giáo phẩm thì được gọi là Công giáo tiến hành. Hội đoàn Công giáo dù là những tổ chức của giáo dân, nhiều khi được thành lập một cách tự phát do nhu cầu sống đạo - cũng có thể hoạt động theo mùa vụ; hoặc được thành lập một cách tự giác do lệnh của giáo quyền với việc tổ chức chặt chẽ và phương thức hoạt động cụ thể, tất cả cũng đều phải được giáo quyền công nhận; và những hội đoàn do hàng giáo phẩm có thẩm quyền cấp nào thành lập thì việc giải tán nó là do cấp có thẩm quyền đó quyết định. "Các hội đoàn Công giáo phải đảm bảo được bốn đặc tính sau đây:
  12. 1) Mục đích rao giảng Phúc Âm và thánh hóa mọi người. 2) Phải cộng tác với hàng giáo phẩm nhưng vẫn chịu trách nhiệm riêng. 3) Hoạt động của các hội đoàn phải có tính cộng đoàn. 4) Hoạt động của giáo dân phải tùy thuộc vào hướng dẫn của hàng giáo phẩm" [34, tr. 533]. Mục đích của giáo hội khi thành lập các hội đoàn Công giáo có thể nói gọn trong một câu: Đó là sự truyền giáo. Khi quyết định phát động phong trào Công giáo tiến hành, Giáo hoàng Pio XI đã nói rõ mục đích này: "Giữa các hội đoàn và Công giáo tiến hành sẽ có sự điều hòa thân mật, sự phối trí chặt chẽ thông cảm lẫn nhau... Công giáo tiến hành được tổ chức khôn khéo như thế sẽ biến thành đạo binh hòa bình, sẽ giao phong những "trận thánh chiến" bảo vệ và tiến triển nước Chúa Kitô" [21, tr. 70]. Công đồng Vantican II trong "Sắc lệnh truyền giáo" cũng đề cao, nhấn mạnh và đi sâu vào tính chất cốt yếu của giáo hội là truyền giáo do ý thức của Chúa Kitô là muốn cho mọi người được rỗi. Sắc lệnh nghiên cứu việc truyền giáo phải đem đến kết quả là thành lập các giáo đoàn mới, vạch ra những nét chính của hoạt động truyền giáo và sự công tác của toàn thể giáo hội. Và Công đồng cũng chỉ ra mục tiêu rất cụ thể sau: "Với bổn phận phải bành trướng khắp thế giới, giáo hội đi sâu vào lịch sử nhân loại. Tuy nhiên giáo hội đồng thời cũng vượt thời gian và biên giới các dân tộc" [34, tr. 160]. Với bổn phận như thế, giáo hội La Mã thông qua việc bành trướng này để thâu lượm tất cả: "Người ở Roma biết dân ấn Độ là chi thể mình... Giáo hội cổ võ và thu dụng tất cả những gì tốt lành nơi tài sản, nguồn lực và phong hóa của các dân tộc, và khi thu dụng, giáo hội tinh luyện, kiện toàn và thăng hóa chúng. Thực vậy, giáo hội nhớ rằng mình phải kết hợp với vị vua là đấng đã lãnh nhận các dân nước làm gia nghiệp của mình, và các dân nước mang đến thành đô Người của lễ và tặng vật" [34, tr. 166]. Ngày nay giáo hội đã nhìn nhận, đánh giá cao vai trò tông đồ của giáo dân: "Việc tông đồ này càng trở nên khẩn trương hơn vì sự biệt lập trên nhiều phương diện của cuộc sống con người như thường thấy, càng gia tăng, đôi khi gây nên một sự tách biệt với trật
  13. tự luân lý và tôn giáo, cũng như tạo ra một sự nguy hiểm trầm trọng cho đời sống Kitô giáo. Hơn nữa trong những miền thiếu linh mục, hay các ngài không được tự do thi hành chức vụ thì giáo hội khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác" [34, tr. 258]. Chính vì những lý do ấy, vai trò của người giáo dân được đề cao: "họ được tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn và vương giả của đức Kitô" [33, tr. 204], và vì thế, họ có một bổn phận là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc Âm cứu độ, họ có điều kiện "canh tân" trật tự trần thế hơn so với hàng giáo phẩm, vì lực lượng của họ hùng hậu và sống giữa thế gian. Tất cả những điều trên đây được các nhà thần học Kitô và những người lãnh đạo giáo hội nêu lên để nói lên tầm quan trọng của việc tông đồ giáo dân trong thế giới hiện đại, đó là căn nguyên, là cội nguồn thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt những hội đoàn Công giáo. Và như vậy, chúng ta có thể hiểu hội đoàn Công giáo là hình thức liên kết giáo dân trong một tổ chức được hình thành một cách tự phát hay tự giác theo một quy chế nhất định, phải được sự công nhận của giáo quyền, mọi hoạt động của nó phải tuân thủ những điều buộc mà giáo quyền quy định, phải có mối liên hệ với hàng giáo phẩm để thực hiện mục đích tông đồ tập thể của giáo dân. 1.1.2. Phân loại hội đoàn Công giáo Phân loại theo giáo luật: Bộ giáo luật Công giáo (GL 1986), sau khi thừa nhận quyền lập các Hiệp hội của giáo dân, đã phân chia các loại Hiệp hội này ra làm hai loại căn cứ vào các nguyên tắc tổ chức của nó. 1) Hiệp hội công: là hiệp hội do nhà chức trách có thẩm quyền của giáo hội thành lập ra, giáo dân có thể tự nguyện tham gia vào tổ chức Hiệp hội để trở thành hội viên của Hiệp hội. Các Hiệp hội công thường có một quy mô lớn, vì giáo luật (GL - 1986) ở điều 312 ghi rõ: Nhà chức trách có thẩm quyền của giáo hội là: - Tòa thánh với các Hiệp hội quốc tế.
  14. - Hội đồng Giám mục với các Hiệp hội quốc gia - Giám mục giáo phận với các Hiệp hội trong giáo phận" [7, tr. 99]. Các Giám quản không có thẩm quyền của nhà chức trách để ra quyết định thành lập các Hiệp hội giáo dân, bởi vì Giám quản không phải là Giám mục bản quyền cai quản địa phận mà chỉ là người được giao phó cai quản phần đất với tư cách là đại diện của Tòa thánh mà thôi. 2) Hiệp hội tư: là Hiệp hội do giáo dân thành lập ra qua một hiệp đồng tư riêng giữa họ với nhau, họ điều khiển và quản trị các Hiệp hội của mình theo các quy định của nội quy được giáo quyền phê chuẩn. Sau khi được sự phê chuẩn của giáo quyền thì Hiệp hội tư có đủ tư cách pháp nhân được định rõ trong Giáo luật ở điều 332: "Một Hiệp hội tư có thể thủ đắc tư cách pháp nhân do một nghị định minh quyết của giáo quyền..." [33. tr. 103]. Các Hiệp hội tư có thể tự giải tán hoặc có thể bị giải tán theo quyết định của giáo quyền một khi không còn lợi ích, hoặc giữ lại những phương thế đã lỗi thời. Tuy nhiên giáo hội cũng khuyên giáo dân nên ghi tên vào những Hiệp hội nào đã được nhà chức trách có thẩm quyền trong giáo hội thành lập, ban khen hoặc giới thiệu. Cách phân chia của Giáo luật là căn cứ hình thức tổ chức của các Hiệp hội, Công đồng Vatican II lại căn cứ vào mục đích hoạt động của các hội đoàn để phân định: "Có nhiều hội đoàn tông đồ khác nhau. Có những hội đoàn nhằm mục đích tông đồ phổ quát của giáo hội. Có những hội đoàn nhằm mục đích loan báo Phúc Âm và thánh hóa bằng phương thức chuyên biệt. Có những hội đoàn nhằm mục đích Kitô hóa trật tự trần thế. Có những hội đoàn nhằm làm chứng cho Chúa Kitô đặc biệt bằng việc từ thiện bác ái... Các hội đoàn chỉ có giá trị tông đồ nhờ ở chỗ phù hợp với các mục tiêu của giáo hội, ở từng hội viên hay cả hội đoàn có tinh thần Phúc Âm và làm chứng cho Chúa Kitô" [34, tr. 533]. Các hội đoàn Công giáo được thành lập là để thực hiện mục đích tông đồ giáo dân. Hoạt động tông đồ tập thể của giáo dân có thể phân ra làm hai loại sau:
  15. 1) Hoạt động tông đồ đối nội: là những hoạt động nhằm thực hiện việc củng cố đức tin trong nội bộ những cộng đoàn giáo dân, để ngăn trở việc khô nhạt đạo, bỏ đạo, tức là từ bỏ Chúa Kitô. Ngoài ra, để phục vụ cho việc phụng tự tập thể hay chiêm niệm, việc thành lập các hội đoàn phục vụ lễ nghi, cầu nguyện để đào sâu mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, để tăng lòng sùng kính, để sốt sắng hơn trong việc sống đạo; những hội đoàn như: Dòng Ba Đaminh, Hội gia đình phạt tạ, Tràng hạt Mân Côi, Hội áo Đức Mẹ, còn Ca đoàn, Hội trống, Hội trắc, Hội kèn, Phường bát âm... được tổ chức là để phục vụ lễ nghi Công giáo, hiệp lễ cùng với hàng giáo sĩ trong các thánh lễ ở nhà thờ, và còn có những hội đoàn làm các công việc từ thiện bác ái trong các cộng đồng giáo dân và đối với cả "dân ngoại" nữa. 2) Tông đồ đối ngoại: Những hội đoàn này được thành lập để hoạt động truyền giáo ra dân ngoại, thực hiện sứ mệnh bành trướng của giáo hội, giúp cho giáo hội chu toàn sứ mệnh đối với trần gian theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu Kitô. ở Việt Nam các hội đoàn Công giáo ra đời từ rất sớm (thế kỷ XVII) nhưng chưa trở thành một phong trào. Đầu thế kỷ XX, khi Giáo hoàng Pio XI phát động phong trào Công giáo tiến hành, thì các hội đoàn Công giáo ở Việt Nam phát triển rất nhanh và: "Cũng thấy chớm nở ngành chuyên biệt, có lẽ Thanh lao công (Thanh niên lao động Công giáo) được công khai xuất hiện trước hết, trên đất Bảy mẫu thành Nam (Nam Định)? Ngày lễ Chúa Giêsu năm 1936 (23/11) hơn 5 ngàn thanh niên lao động Công giáo đã lớn tiếng hoan hô Chúa Giêsu hiển trị và thề hứa trung thành làm tông đồ cho nước Chúa" [21, tr. 26]. Năm 1945, các "Liên đoàn Công giáo" được thành lập, và các tổ chức này đã công khai chống lại Việt Minh, chống lại Chính phủ kháng chiến. Đây là hội đoàn Công giáo liên quan đến chính trị phản động. Ngày 5-11-1957, Bộ Truyền giáo Vatican trao cho Giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách tổ chức Công giáo tiến hành tại Việt Nam, trụ sở của tổ chức này đặt tại Sài Gòn ngày 11-8-1957 [21, tr. 27].
  16. Như vậy chỉ có những hội đoàn này mang tính chất truyền giáo mới tham gia Công giáo tiến hành, còn những hội đoàn khác nhằm mục đích huấn luyện đường tu đức hoặc thực hiện bác ái, phục vụ lễ nghi Công giáo thì không thuộc phong trào này. Điều này giúp ta phân định rõ: hội đoàn Công giáo không phải là Công giáo tiến hành, mà Công giáo tiến hành chỉ là những Hội đoàn đặc biệt của hội đoàn Công giáo mà thôi. Giáo hội Công giáo phân loại các hội đoàn khi thì căn cứ vào hình thức tổ chức, khi thì căn cứ vào mục đích hoạt động, nhưng nhìn chung cách phân chia nào cũng chỉ mang tính tương đối. Vì thật ra, các hội đoàn Công giáo được thành lập là để củng cố đức tin và phát triển đạo, tức là để thực hiện tông đồ giáo dân: tông đồ đối nội cũng như đối ngoại. Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam, quá trình truyền giáo luôn gắn liền với chính trị, giáo hội luôn cấu kết với thế lực thực dân xâm lược, cho nên việc hình thành và phát triển của các hội đoàn Công giáo rất phức tạp. Buổi đầu, các hội đoàn Công giáo ở Việt Nam được thành lập không phải vì mục đích chính trị mà nó chỉ mang tính chất tôn giáo thuần túy như Hội thầy giảng của Alexandre de Rhodes hay Hội "Đạo binh nhi đồng" của các thừa sai dòng Tên lập ra hồi đầu thế kỷ XVII. Nhưng đến đầu thế kỷ XX, đặc biệt dưới thời Giáo hoàng Pio XI (1914 - 1939) và PioXII (1939 - 1958) thì các hội đoàn Công giáo ở Việt Nam đã phát triển tăng nhanh về số lượng. Nhưng vì mục đích chính trị, một số người lãnh đạo trong giáo hội Công giáo lúc bấy giờ đã hướng hoạt động của một số hội đoàn chống phá cách mạng, phản bội dân tộc. Năm 1954, Hiệp định Gieneve được ký kết, sau cuộc di cư ồ ạt của giáo sĩ và giáo dân miền Bắc vào Nam, thì ở miền Bắc, các hội đoàn gắn với chính trị phản động tan rã, các hội đoàn khác gần như tê liệt không hoạt động trừ số ít các hội đoàn phục vụ lễ nghi và cầu nguyện. Nhưng ở miền Nam, các hội đoàn Công giáo vẫn tồn tại và phát triển với mục đích rõ ràng là nhằm biến Công giáo thành quốc đạo. Nhưng dù ở miền Bắc hay miền Nam, thì Giáo hội Công giáo vẫn là một thể thống nhất trên cơ sở đặc tính "duy nhất" của giáo hội La Mã, các hội đoàn vì thế vẫn tồn tại âm thầm hoặc công khai với mục
  17. đích không thay đổi của nó là nhằm củng cố đức tin và phát triển đạo; tuy mức độ biểu hiện ở hai miền Nam Bắc có khác nhau. Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, nhân dân ta được hưởng một cuộc sống hòa bình, các giáo đoàn miền Nam và miền Bắc được nối lại mối quan hệ bị chia cắt lâu nay do hoàn cảnh chiến tranh (1954 - 1975). Năm 1980, Đại hội Giám mục Việt Nam lần đầu tiên họp tại Thủ đô Hà Nội ra Thư chung khẳng định đường hướng phục vụ: "Sống Phúc Âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào" [17]. Công giáo và dân tộc bắt đầu có điểm tương đồng trên cơ sở xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Với chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, đồng bào Công giáo đã yên tâm, tin tưởng trong việc sống đạo, sống đời, đồng bào hiểu rõ hơn ai hết: Nước có vinh đạo mới sáng, các nếp sinh hoạt tôn giáo truyền thống xưa được khôi phục và phát triển - trong đó có vấn đề hội đoàn. Chính việc khôi phục và phát triển các hội đoàn Công giáo đã phát sinh những vấn đề phức tạp; các hội đoàn phục vụ lễ nghi, cầu nguyện phát triển bình thường, nhưng việc khôi phục lại các hội đoàn có tiền sử chống phá cách mạng với các danh xưng khác nhau hoạt động một cách công khai, bất hợp pháp không có tư cách pháp nhân trái với quy định việc thành lập Hội của Nhà nước ta, gây ra nhiều khó khăn trong công tác vận động quần chúng của Đảng và công tác quản lý các hoạt động tôn giáo của Nhà nước. Việc phân loại các hội đoàn Công giáo để phân định các hội đoàn Công giáo có biểu hiện phi tôn giáo gắn với chính trị phản động và những hội đoàn phục vụ lễ nghi Công giáo, hoạt động từ thiện, bác ái, cầu nguyện là một việc làm cần thiết để giúp cho đồng bào Công giáo có quyền sống đạo, thực hiện được đức công bình bác ái của Chúa Kitô, đồng thời cũng để ngăn chặn việc lợi dụng tôn giáo làm mất ổn định chính trị xã hội, làm phương hại đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta.
  18. Dựa trên những nguyên tắc đó chúng tôi phân chia các loại hội đoàn Công giáo như sau: 1) Các loại hội đoàn thuần túy tôn giáo. 1) Các loại hội đoàn liên quan đến chính trị - xã hội. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của các Hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình 1.2.1. Vài nét về lịch sử Giáo phận Thái Bình Đạo Công giáo được các giáo sĩ dòng Đa Minh (Domonico) Tây Ban Nha truyền vào Thái Bình từ đầu thế kỷ XVII (1633) [32, tr. 10]. Trước năm 1936, Địa hạt Thái Bình thuộc Địa phận Trung (gồm Thái Bình và Bùi Chu), đến 9/3/1936, Giáo hoàng Pio XI ra sắc chỉ Praecipnas Inter Apostocas tách địa hạt Thái Bình ra khỏi Địa phận Bùi Chu để thành lập ra Địa phận Thái Bình. Sắc chỉ nêu rõ: "Nay quyết định chia Giáo phận Bùi Chu, lấy một phần lãnh thổ gồm tỉnh Thái Bình và Hưng Yên để thành lập giáo phận mới, mang tên thị xã đầu tỉnh Thái Bình, gọi là Giáo phận Thái Bình. Giáo phận mới này, chiếu theo văn thư đây, ta ủy thác cho dòng thuyết giáo mà các vị thừa sai đã dày công mở đạo ở Bùi Chu lâu đời bền bỉ, tạo nên sự hưng thịnh ngày nay..." [25, tr. 175]. Theo tài liệu của Giáo hội Công giáo, vào năm 1936 Địa phận Thái Bình rộng 2.220,7 km2 (gồm tỉnh Thái Bình và Hưng Yên) 1.700.000 dân, 130.000 giáo dân (8%), 73 linh mục dòng, triều; 250 thầy giảng, 300 nữ tu, 380 nhà thờ lớn nhỏ được chia thành 9 hạt gồm 49 xứ [29]. Giáo phận Thái Bình được đặt dưới sự coi sóc của Đại diện Tông tòa Joan Casado Obispo (người Tây Ban Nha, có tên Việt là Thuận). Linh mục Thuận được tấn phong giám mục ngày 2/8/1936 tại nhà thờ chính tòa Thái Bình. Khi nhận nhiệm sở, Giám mục Thuận bắt đầu tiến hành xây dựng cơ sở vật chất của giáo phận gồm: Tòa Giám mục (đặt tại thị xã Thái Bình), Tiểu chủng viện Mỹ Đức, khu nhà dòng Đa Minh (dòng Nam), lập Đa Minh ấn quán... Trong dịp đi chầu Giáo Hoàng, Giám mục Thuận về thăm lại cố hương và mắc bệnh chết ngày 22/1/1941 tại Tây Ban Nha. Sau khi Giám mục Thuận chết, linh mục Santos Ubierna (cũng là người Tây Ban Nha có tên Việt
  19. là Ninh) trở thành người kế vị. Linh mục Ninh được tấn phong Giám mục ngày 21/9/1942 tại Thái Bình. Năm 1954, Giám mục Ninh đưa hầu hết số linh mục, nam nữ tu sĩ cùng nửa số giáo dân Địa phận Thái Bình di cư vào Nam. Vì cuộc di cư này, nhiều cơ sở của giáo hội không thể hoạt động, không được coi sóc vì thiếu nhân sự. Từ 1954 Giáo phận Thái Bình chia làm hai khu vực: 1) Khu vực Giáo phận Thái Bình (giáo đoàn miền Bắc của giáo phận, còn được gọi là "giáo phận Mẹ") được đặt dưới sự quản lý của Linh mục Tổng tá Đinh Đức Trụ với chức danh Giám quản Tông tòa từ 1954 đến 1960. Tháng 6 năm 1960 Linh mục Trụ được tấn phong lên hàng giám mục và trở thành vị giám mục người Việt đầu tiên cai quản Địa phận Thái Bình. 2) Khu vực miền Nam của Giáo phận Thái Bình di cư (giáo đoàn miền Nam) do Giám mục Ninh cai quản. Trụ sở của giáo đoàn miền Nam Giáo phận Thái Bình "đặt tại đường Nguyễn Văn Lạc, Thị Nghè" [21, tr. 436]. Ngày 15/4/1955 Giám mục Ninh chết, từ đó giáo đoàn miền Nam của địa phận có các linh mục sau đây được đặt làm đại diện: Vũ Bội Quỳnh, Cao Xuân Tuế, Trần Ngọc Trác, Phạm Chí Thiện, Trần Lê Vinh, Nguyễn Thanh Bình và "Mọi liên kết giữa các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo dân gốc Thái Bình (tản mạn khắp miền Nam) đều do Ban Đại diện điều hành" [32, tr. 234]. Giai đoạn từ 1954 đến 1975, hai khu vực Bắc và Nam của Địa phận Thái Bình bị chia cắt do hoàn cảnh chiến tranh nhưng giáo đoàn phía Nam "vẫn luôn hướng về đất mẹ Thái Bình" bằng những mối liên hệ theo cách riêng "Thời kỳ này, qua các lá thư, bưu thiếp hai miền Nam Bắc vẫn cố gắng liên lạc, để cảm thông và nâng đỡ nhau trong kinh nguyện và hy sinh" [32, tr. 14]. Từ ngày thành lập, Địa phận Thái Bình được đặt dưới sự coi sóc của các Giám mục và Hồng y sau: 1) Giám mục Thuận (1936 - 1941). 2) Giám mục Ninh (1942 - 1954, không tính thời gian di cư theo giáo đoàn miền Nam).
  20. 3) Giám mục Đinh Đức Trụ (1954 - 1960, linh mục Giám quản, 1960 - 1982 Giám mục Chính tòa). 4) Giám mục Đinh Bỉnh (1982 - 1989). 5) Hồng y Trịnh Văn Căn Giám quản tông tòa (1989 - 1990) 6) Giám mục Nguyễn Văn Sang (từ 1990 đến nay). - Con số thống kê hiện nay của Giáo phận: Diện tích: 2.220,7 km2 Dân số chung: 2.800.000 người Dân số Công giáo: 120.000 người [38, tr. 241]. Đơn vị hành chính đạo có: 68 giáo xứ Giáo sĩ: 1 Giám mục, 31 linh mục. Riêng trên địa bàn tỉnh Thái Bình có: gần 10.000 giáo dân (95.853) chiếm 5,6% dân số toàn tỉnh. Cơ sở thờ tự: 318 nhà thờ (48 xứ, 269 họ lẻ), 13 nhà phước, 207 nhà phòng, 2 nhà thương [29]. 1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của các hội đoàn Công giáo ở tỉnh Thái Bình Bối cảnh chung về đời sống đạo của người Công giáo Thái Bình trước năm 1945 Đời sống của người Công giáo Thái Bình được đặt trong một bối cảnh chung bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử của đất nước; đặc biệt, nó có sự biến động lớn kể từ khi các phong trào đấu tranh yêu nước giành độc lập dân tộc của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Theo tác giả Đỗ Quang Hưng thì: "Vì nhiều lý do khác nhau trong quá khứ, đạo Thiên Chúa được xem như một thế lực không dành nhiều tình cảm lắm cho sự nghiệp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0