intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp ĐiệnCông ty Điện Lực 1

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

94
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng vững và ngày một phát triển. Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan tâm chính của...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp ĐiệnCông ty Điện Lực 1

  1. LUẬN VĂN: Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện- Công ty Điện Lực 1
  2. Lời Mở đầu Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng vững và ngày một phát triển. Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan tâm chính của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Trong thời gian qua, điện lực là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, có vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Thêm vào đó, tính phức tạp của công việc và sản phẩm xây lắp điện, vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả và quản lý các chi phí đầu vào càng phức tạp, làm thế nào để tránh lãng phí, để tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế lại càng trở nên cấp bách hơn. Cùng với các doanh nghiệp trong cả nước Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện lực 1 thuộc Tổng công ty Điện lực đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong công ty nói riêng và trong ngành điện nói chung bằng cách nâng cao trình độ, phương pháp quản lý các công trình đồng thời hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín chất lượng và khả năng thắng thầu các công trình. Đề tài: "Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện- Công ty Điện Lực 1" Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 phần: Phần I: Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường Phần II: Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Phần III: Những biện pháp cơ bản nhằm phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện
  3. Phần i Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và LÂU DàI củA CáC DOANH NGHIệP hoạT Động trong cơ chế thị trường I. Khái niệm và các phương pháp phân loại chi phí trong giá thành 1. Khái niệm giá thành và các cách phân loại chi phí trong gía thành a. Khái niệm giá thành Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ. Để tiến hành các hoạt động sản xuất, doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản: - Tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những TSCĐ khác. - Đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu... - Sức lao động của con người. Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng tài sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định, tương ứng với việc sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu... là những chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, t ương ứng với việc sử dụng lao động là chi phí tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên điều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống, còn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá. Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến hoạt động sản xuất ra sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý, các hoạt động mang tính chất sự nghiệp... chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất.
  4. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ: Hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả những chi phí của doanh nghiệp về sử dụng tư liệu sản xuất, trả lương, phụ cấp ngoài lương và những chi phí phục vụ khác để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quá trình sản xuất ở một doanh nghiệp, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản xuất, mặt khác kết quả sản xuất doanh nghiệp thu được những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội. Những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành gọi chung là thành phẩm cần phải tính được gía thành tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật t ư lao động tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện, nhằm đạt được mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ gía thành. Gía thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.  Quan hệ giữa chi phí sản xuất với gía thành. Chi phí sản xuất và gía thành là 2 khái niệm riêng biệt có những mặt khác nhau: - Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn gía thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành. - Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ tr ước nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này nhưng chưa thực tế phát sinh. Ngược lại giá thành sản phẩm lại chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ. - Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng còn giá
  5. thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ tr ước chuyển sang Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và gía thành có mối quan hệ rất mật thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ là cơ sở để tính gía thành của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành, sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến gía thành sản phẩm hạ hoặc cao. Quản lý gía thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. Để làm rõ hơn bản chất của chi phí ta hãy xem xét nó trong mối quan hệ với giá trị và giá cả hàng hoá.  Quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá trị. Về kết cấu cả chi phí và giá trị đều bao gồm ba bộ phận C - V và m. Tuy nhiên chi phí và giá trị có sự khác nhau cả về lượng lẫn chất. Trước hết, chi phí là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong kỳ kinh doanh. Còn giá trị hàng hoá là lượng lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm, trong đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Chi phí là một đại lượng cụ thể còn giá trị mang tính trừu tượng. Mặt khác, chi phí chủ yếu bao gồm hai bộ phận đầu của giá trị sản phẩm. Các Mác viết : "Về mặt số lượng, chi phí sản xuất TBCN của hàng hoá khác với giá trị của hàng hoá vì rằng nếu V= K + m thì K = V - m. Hao phí về lao động trong chi phí chỉ là một phần của toàn bộ lượng lao động kết tinh trong giá trị hàng hoá. Điều đó có nghĩa là giữa giá trị và chi phí còn một khoản chênh lệch - đó chính là phần giá trị thặng dư do lao động mới sáng tạo ra cho xã hội.  Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá cả. Giữa chi phí và giá cả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp. Các- Mác viết : "Giới hạn thấp nhất của giá bán hàng hoá là do chi phí sản xuất của nó quy định". Hơn nữa chi phí lại bị ảnh hưởng của sự thay đổi về giá cả thị trường. Giá cả của sản phẩm này thay đổi kéo theo sự biến động về giá của các sản phẩm khác. Và như vậy gián tiếp nó sẽ ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá
  6. cả và chi phí, Các - Mác đã chỉ ra mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng như sau: "Giá cả của hàng hoá được xây dựng trên chi phí. Ngoài ra chi phí sản xuất chính là giá mua mà bản thân nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá, nghĩa là giá mua do chính ngay quy trình sản xuất hàng hoá quyết định" Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả do quan hệ cung - cầu quyết định. Vì vậy, chi phí chỉ cung cấp thông tin để nhà quản trị ra quyết định đúng đắn, linh hoạt và kịp thời. b. ý nghĩa kinh tế của chỉ tiêu gía thành Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động... trong sản xuất, cũng như trong các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ gía thành. Nó thể hiện được trình độ tiến bộ của kỹ thuật - công nghệ sản xuất, trình độ tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ý nghĩa của chỉ tiêu gía thành sản phẩm được thể hiện trên các mặt sau đây: - Giá thành sản phẩm là thức đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm cơ sở để tính giá cả tiêu thụ và xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm, tính lơi nhuận của doanh nghiệp và do đó nó là căn cứ xác định các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp đưa ra các phương án sản xuất, các quyết định đúng đắn về chính sách sản phẩm, các biện pháp tổ chức sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao. - Giá thành sản phẩm là cơ sở chính sách để kiểm soát tình hình, chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra những nguyên nhân dẫn đến chi phí phát sinh không hợp lý để loại trừ. Mặt khác, các doanh nghiệp thấy rõ sự cần thiết và khả năng của doanh nghiệp trong việc giảm từng loại chi phí để có hướng đầu tư tích cực, hạ thấp tối thiểu mức chi phí trong từng khoản mục cấu thành giá thành sản phẩm. - Giá thành sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu khác, nó vừa là mục tiêu, vừa là kết quả của việc thực hiện các chỉ tiêu khác như: tăng năng suất lao động,
  7. giảm định mức tiêu hao nguyên vât liệu,nhiên liệu, năng lượng, chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản trị. - Giá thành sản phẩm là một công cụ sắc bén trong việc hạch toán kinh doanh, tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, chỉ tiêu giá thành sản phẩm đòi hỏi phải được tính toán chính xác. Những chi phí đưa vào gía thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong gía thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Chính vì vậy trong công tác quản lý doanh nghiệp, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, những quản lý doanh nghiệp nắm vững được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng hoạt động, từng loại sản phẩm cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân tích, đánh giá tình hình kế hoạch của doanh nghiệp, để có các quyết định quản lý thích hợp. c. Các cách phân loại chi phí trong gía thành. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau, để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất, có thể tiến hành phân loại chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm theo các tiêu thức khác nhau.  Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí và theo công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất - Trước hết, theo nội dung kinh tế của chi phí, chi phí sản xuất được phân thành tám yếu tố chi phí sản xuất. Những yếu tố này được sử dụng khi lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu
  8. vốn định mức. Phân loại theo nội dung kinh tế giữ được tính nguyên vẹn của từng yếu tố chi phí, mỗi yếu tố đều là chi phí ban đầu do doanh nghiệp chi ra và không phân tích được nữa. Mối yếu tố đều bao gồm mọi khoản chi có cùng nội dung và tác dụng kinh tế giống nhau, không kể nó được chi ra ở đâu và quan hệ của nó với quá trình sản xuất như thế nào. - Căn cứ vào công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất người ta chia các chi phí thành những khoản mục nhất định. Các khoản này được dùng trong việc xác định giá thành đơn vị sản phẩm cũng như giá thành sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra, cách phân loại này còn cho thấy ảnh hưởng của từng khoản mục đến kết cấu và sự thay đổi của giá thành. Qua đó nó cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Những yếu tố chi phí sản xuất và những khoản mục chi phí để tính gía thành đối chiếu với nhau và được sắp xếp theo bảng sau: Bảng 1: Nội dung của yếu tố chi phí sản xuất và khoản mục tính gía thành sản phẩm Yếu tố chi phí sản xuất Khoản mục tính gía thành 1. Nguyên vật liệu chính mua 1. Nguyên vật liệu chính ngoài 2. Vật liệu phụ 2. Vật liệu phụ mua ngoài 3. Nhiên liệu dùng vào sản xuất 3. Nhiên liệu mua ngoài 4. Năng lượng dùng vào sản xuất 4. Năng lượng mua ngoài 5. Tiền lương của CNSX 5. Tiền lương CNVC 6. BHXH của CNSX 6. Bảo hiểm xã hội CNVC 7. Khấu hao TSCĐ dùng vào sản 7. Khấu hao TSCĐ xuất 8. Các chi phí khác bằng tiền 8. Chi phí phân xưởng 9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 10. Thiệt hại về ngừng SX và SP hỏng 11. Chi phí ngoài sản xuất
  9.  Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành, người ta chia ra: Chi phí trực tiếp và chi phí gián - Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất ra từng loại sản phẩm và được tính trực tiếp vào giá thành của đơn vị sản phẩm hay loại sản phẩm. Chi phí trực tiếp bao gồm: + Tiền lương và bảo hiểm xã hội của sản xuất. + Nguyên vật liệu chính, phụ dùng vào sản xuất. + Nguyên liệu, động lực dùng vào sản xuất. + Công cụ lao động nhỏ dùng vào sản xuất. + Chi phí trực tiếp khác bằng tiền. - Chi phí gián tiếp là những chi phí có quan hệ đến hoạt động chung của phân xưởng, của doanh nghiệp và được tính vào giá thành một cách gián tiếp bằng phương pháp phân bổ: Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng giống như chi phí trực tiếp, nhưng những khoản này được chỉ ra cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp hoặc các bộ phận khác của doanh nghiệp. Cách phân loại này không cứng nhắc, cố định mà tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp công nghiệp. Phân loại theo cách này có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm và sản lượng hàng hoá.  Phân loại chi phí căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí và tình hình tăng giảm sản lượng hàng hoá, người ta chia ra: Chi phí biến đổi (biến phí) và chi phí cố định (định phí) - Chi phí biến đổi là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này như là chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Trong chi phí biến đổi người ta còn chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỷ lệ (là chi phí biến đổi cùng hướng và cùng mức độ với sự biến đổi của sản lượng sản phẩm làm ra) và chi phí biến đổi không cùng tỷ lệ (là những chi phí có thể tăng nhanh hơn kết quả sản xuất hoặc cũng có thể chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất) - Chi phí cố định là những chi phí về nguyên tắc không thay đổi theo sản lượng sản phẩm trong giới hạn đầu tư. Đó là những khoản chi mà doanh nghiệp phải ứng chịu
  10. trong mỗi đơn vị thời gian cho các đầu vào cố định. Nói một cách khác, chi phí cố định là những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không sản xuất sản phẩm, nó hoàn toàn không chịu sự tác động của bất kỳ sự biến đổi nào của việc thay đổi sản lượng sản phẩm trong một giới hạn quy mô nhất định. Ví dụ: Khấu hao TSCĐ, chi phí lãi vay ngân hàng (trung và dài hạn), chi phí bảo hiểm, tiền thuê đất đai, tiền lương của những người quản lý... Thông thường chi phí trực tiếp là chi phí biến đổi, còn một số bộ phận trong chi phí gián tiếp thuộc chi phí cố định. Nhờ cách phân loại này người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lý của chi phí sản xuất chi ra. Mặt khác đó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng sản phẩm tối thiểu và xây dựng một chính sách giá cả hợp lý linh hoạt đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Ngoài việc phân loại chi phí theo các cách chủ yếu trên đây, trong thực tế còn rất nhiều cách phân loại khác nữa, chẳng hạn như căn cứ vào cấu thành của chi phí, căn cứ vào quá trình luân chuyển của chi phí... Bằng những tiêu thức phân loại khác nhau, cho phép nhà quản trị doanh nghiệp với những mục tiêu cụ thể sẽ vận dụng ý nghĩa của từng phương pháp vào quá trình phân tích và quản lý chi phí, nhằm đạt hiệu quả cao hơn. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến gía thành sản phẩm a. Nhân tố công nghệ - kỹ thuật sản xuất Giá thành sản phẩm phụ thuộc nhiều vào cấu trúc sản phẩm, quá trình công nghệ sản xuất và máy móc thiết bị. Sản phẩm thiết kế càng hợp lý thì vừa có chất lượng cao lại vừa giảm được chi phí nguyên vât liệu, năng lượng để sản xuất ra sản phẩm. Với công nghệ tiên tiến, khép kín, máy móc thiết bị hiện đại càng làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí tiêu hao nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng, là tăng sản lượng sản phẩm ... điều đó cho phép hạ chi phí sản xuất, góp phần hạ giá thành sản phẩm. b. Các định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật là cơ sở cho việc tính các chi phí trong gía thành. Đồng thời đó là chỉ tiêu để quản lý các chi phí trong sản xuất, đánh giá kiểm tra chất lượng công tác.
  11. Nếu định mức xây dựng các chi phí cao, không hợp lý sẽ gây nên tình trạng lãng phí. Các đơn vị sản xuất do thực hiện các định mức dễ dàng nên không đầu tư biện pháp để tiết kiệm các chi phí, sẽ không khuyến khích người lao động tìm các biện pháp để nâng cao năng suất lao động, giảm tiêu hao nguyên vât liệu, từ đó dẫn đến không tiết kiệm các chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Ngược lại nếu định mức xây dựng các chi phí thấp hơn khả năng thực tế có thể thực hiện được thì sẽ mất đi ý nghĩa thực tế của nó, các đơn vị sản xuất, người lao động đã cố gắng nhưng không thực hiện được mức, sẽ gây chán nản, phát sinh tư tưởng. Đồng thời gía thành kế hoạch sẽ không chính xác, dẫn đến các chính sách giá không đúng gây bất lợi cho doanh nghiệp. c. Tổ chức lao động và sử dụng con người Tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Chất lượng lao động ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công việc. Người sử dụng lao động phải bố trí lao động hợp lý, đúng ngành nghề, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người làm cho họ thực sự gắn bó, cống hiến hết tài năng sức lực cho doanh nghiệp, người sử dụng lao động phải biết sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế, khuyến khích và phát huy cao độ khả năng đóng góp của người lao động. d. Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp lý, chặt chẽ có thể hạn chế lãng phí lao động, nguyên vât liệu, nhiên liệu, giảm tỷ lệ phế phẩm... Trong cơ chế thị trường vai trò tài chính ngày càng cao, nó có tác động không nhỏ trong việc hạ gía thành sản phẩm. Sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư sẽ tránh được những tổn thất do ngừng sản xuất. e. Nhân tố thị trường
  12. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quyết định giá cả thị trường. Vì vậy, thị trường giá cả có ảnh hưởng quan trọng đến giá thành sản phẩm. Đối với thị trường đầu ra, nếu làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, có nghĩa là doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm, làm cơ sở cho việc doanh nghiệp tăng năng suất lao động, tăng thời gian sử dụng máy móc... điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Đối với thị trường đầu vào: nơi cung cấp các yếu tố đầu vào như nguyên vât liệu, nhiên liệu... để doanh nghiệp tiến hành sản xuất. Sự biến động và tính chất giá cả thị trường có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp phải luôn chủ động tìm hiểu thị trường, phán đoán khả năng, diễn biến của thị trường về giá cả và khối lượng vật tư hàng hoá trên thị trường, từ đó có những biện pháp ứng phó thích hợp, nhằm tiết kiệm chi phí, góp phần hạ gía thành. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp cần xem xét kỹ các nhân tố trên, tù đó xác định cho doanh nghiệp phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm, thích ứng với điều kiện và tình hình của doanh nghiệp mình. 3. Cách phân loại giá thành sản phẩm a. Phân loại gía thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính gía thành. Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu tính gía thành, giá thành sản phẩm chia làm 3 loại: - Gía thành kế hoạch Gía thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán gía thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch gía thành và kế hoạch hạ gía thành của doanh nghiệp. - Gía thành định mức Giá thành định mức là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính gía thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành định mức là
  13. công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Gía thành định mức mang đặc trưng của gía thành kế hoạch, nhưng được xác định không phải trên cơ sở mức kế hoạch cho cả kỳ kinh doanh (tháng, quý). Việc xây dựng gía thành này cho phép các nhà quản lý xác định kịp thời những chênh lệch so với định mức, trên cơ sở đó tìm ra biện pháp thích hợp để hạ gía thành sản phẩm. - Giá thành thực tế Giá thành thực tế là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ. Gía thành sản phẩm thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. b. Phân loại gía thành theo phạm vi tính toán và phát sinh chi phí. Theo phạm vi tính toán gía thành, gía thành sản phẩm được chia làm 3 loại: - Gía thành phân xưởng Gía thành phân xưởng bao gồm tất cả những chi phí trực tiếp, chi phí quản lý phân xưởng và chi phí sử dụng máy móc thiết bị. Nói cách khác, nó bao gồm những chi phí của phân xưởng và tất cả những chi phí của phân xưởng khác nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm tại phân xưởng đó. - Giá thành công xưởng (gía thành sản xuất ) Gía thành công xưởng bao gồm gía thành phân xưởng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Có thể nói gía thành công xưởng (gía thành sản xuất) bao gồm tất cả những chi phí để sản xuất sản phẩm trong phạm vi toàn doanh nghiệp. Gía thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn
  14. thành nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất. - Giá thành toàn bộ Gía thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm gía thành công xưởng cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó. Gía thành toàn bộ của sản phẩm chỉ được tính toán xác định khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ được tiêu thụ. Gía thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước thuế lợi tức của doanh nghiệp. Gía thành phân xưởng, công xưởng hay toàn bộ đều được tính cho từng đơn vị sản phẩm, loại sản phẩm, loạt sản phẩm và toàn bộ sản lượng hàng hoá tiêu thụ. II. Cơ cấu gía thành và phương pháp xác định các yếu tố chi phí trong gía thành. 1. Cơ cấu giá thành Cơ cấu giá thành thể hiện tỷ trọng của từng khoản mục chi phí trong tổng giá thành (số tương đối ). Từ đó giúp cho nhà quản lý biết được khoản mục chi phí nào chiếm tỷ trọng lớn để có kế hoạch hạ thấp khoản mục chi phí đó dẫn đến hạ thấp tổng giá thành chính là hạ thấp giá thành dơn vị sản phẩm. Từ đó nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ví dụ: Trong công trình trạm biến áp và đường dây hạ thế khu Quyết Thắng - Sơn La có cơ cấu giá thành như sau: Đơn vị: nghìn đồng Khoản mục Vật liệu Nhân công Thuê ngoài và Chi phí Giá thành Tên công trình máy thi công khác sản phẩm TBA và đường dây hạ thế... 351.687 57.106 10.090 59.461 478.314 Qua đó nhà quản lý biết được khoản mục chi phí nào chiếm tỷ trọng lớn (CFVL hay CFNC hay CFTN+MTC hay CFSXC ). Từ đó có kế hoạch hạ thấp giá thành. 2. Phương pháp tính gía thành đơn vị sản phẩm. a. Tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm
  15. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất l ượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nó là công cụ quan trọng để các nhà quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, vì vậy cần thiết phải tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành của các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. - Tính đúng là tính toán chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Muốn vậy phải định đúng đối tượng tính gía thành, vận dụng đúng phương pháp tính gía thành thích hợp. Gía thành phải được tính toán trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất được tập hợp một cách chính xác, kịp thời. - Tính đủ là tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh thực sự, loại bỏ mọi yếu tố bao cấp để tính đủ đầu vào theo chế độ quy định. Tính đủ cũng đòi hỏi phải loại bỏ những chi phí không liên quan (trực tiếp) đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; những chi phí mang tính chất tiêu cực, lãng phí, lãng phí, không hợp lý. Việc tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm sẽ làm cho gía thành trở thành tấm gương thật, phản ánh đúng đắn tình hình và kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh, xác định đúng đắn kết quả tài chính, khắc phục được hiện tượng "lãi giả, lỗ thật". Chính vì vậy, tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm là việc làm cấp bách và thiết thực đối với các doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế thị trường. b. Đối tượng tính gía thành Đối tượng tính gía thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, yêu cầu phải tính được tổng gía thành và gía thành đơn vị. Xác định đối tượng tính gía thành là công việc cần thiết đầu tiên trong toàn bộ công việc tính gía thành sản phẩm doanh nghiệp. Đối tượng tính gía thành có ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp xác định gía thành thích hợp cho đối tượng đó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất ra sản phẩm hàng hoá trong kỳ kinh doanh, căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm cung cấp sử dụng của từng loại sản phẩm đó mà xác định đối tượng tính gía thành thích hợp. - Đối với các loại doanh nghiệp có sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính gía thành là từng sản phẩm, từng công việc (như đóng tàu, xây lắp...)
  16. - Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tính gía thành là từng loạt sản phẩm đã hoàn thành theo khoản mục và trên cơ sở đó xác định gía thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm (như sản xuất máy công cụ). - Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất khối l ượng lớn thì việc tính gía thành sản phẩm được tính theo khối lượng từng loại và tính gía thành toàn bộ hàng hoá theo khoản mục. Trên cơ sở đó tính gía thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm (như dêt may, cà phê...) - Quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm cũng có ảnh h ưởng nhất định đến đối tượng tính gía thành sản phẩm. Nếu quy trình công nghệ sản xuất đơn giản, thì đối tượng tính gía thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quy trình sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính gía thành có thể là nữa thành phẩm ở từng giai đoạn hoặc thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song (lắp ráp) thì đối tượng tính gía thành có thể là sản phẩm được lắp ráp hoàn chỉnh, cũng có thể là từng bộ phận, từng chi tiết sản phẩm. Đơn vị tính gía thành phải là đơn vị được thừa nhận trong nền kinh tế hàng hoá. Đơn vị tính gía thành thực tế cần phải thống nhất với đơn vị tính gía thành kế hoạch. c. Phương pháp tính gía thành sản phẩm Phương pháp chung trong việc tính gía thành là phương pháp tính toán, xác định gía thành đơn vị của từng loại sản phẩm và công việc đã hoàn thành theo các khoản mục chi phí. Tuy nhiên, trong thực tế, để tính gía thành tuỳ theo phương pháp hạch toán chi phí và đặc điểm quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người ta có thể áp dụng các phương pháp sau:  Phương pháp tính gía thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực tiếp. Phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẻ liên tục, đối tượng tính gía thành tương ứng phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính gía thành định kỳ hàng tháng (quý) phù hợp với kỳ báo cáo. Như tính gía thành sản phẩm điện, nước, bánh kẹo, than, quặng kim loại... Trường hợp cuối thánh có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định, cần tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp thích hợp. Trên cơ sở số liệu chi phí
  17. sản xuất đã tập hợp trong kỳ và chi phí của sản phẩm dở dang đã xác định, gía thành sản phẩm hoàn thành tính cho từng khoản mục chi phí theo công thức sau: Z = C + Dđk - Dck Gía thành đơn vị tính như sau: Z J= S Trong đó: Z : Tổng gía thành từng đối tượng tính gía thành J : Gía thành đơn vị từng đối tượng tính gía thành C : Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ Dđk và Dck : Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ S : Sản lượng thành phẩm Trường hợp cuối tháng không có sản phẩm dở dang, hoặc có nhưng ít và ổn định nên không cần tính toán, thì tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ đồng thời cũng là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành: Z=C  Phương pháp tính loại trừ chi phí: để tính gía thành được áp dụng trong các trường hợp: - Cùng một quy trình công nghệ sản xuất, đồng thời với việc chế tạo ra sản phẩm chính còn có thu thêm được sản phẩm phụ nữa như: Nhà máy sản xuất đường ngoài sản phẩm chính là đường kính còn thu được sản phẩm phụ là rỉ đường, nông trường chăn nuôi lợn thịt ngoài sản phẩm chính là lượng lợn thịt còn có sản phẩm phụ là phân bón... - Kết quả sản xuất ngoài thành phẩm đủ tiêu chuẩn chất lượng quy định còn có sản phẩm hỏng không sữa chữa được mà các khoản thiệt hại này không được tính cho sản phẩm hoàn thành chịu. - Các phân xưởng sản xuất phụ còn cung cấp sản phẩm hoặc lao vụ lẫn cho nhau. Cần loại trừ ra khỏi gía thành các sản phẩm, lao vụ phục vụ cho sản xuất chính. Trong trường hợp này đối tượng tính gía thành chỉ là sản phẩm chính, sản phẩm hoàn thành và sản phẩm lao vụ phục vụ cho các bộ phận không phải là sản xuất phụ. Muốn tính được gía thành của các đối tượng tính gía thành phải lấy tổng chi phí của sản phẩm phụ, chi phí thiệt hại về sản phẩm hỏng không được tính trong giá thành thành phẩm, chi
  18. phí phục vụ lẫn nhau trong nội bộ các phân xưởng sản xuất phụ. Công thức tính gía thành của thành phẩm sẽ là: Z = C + Dđk - Dck - Clt Trong đó: Z : Tổng gía thành của đối tượng tính gía thành C :Tổng chi phí sản xuất đã tổng hợp Dđk và Dck : Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ Clt : Chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng chi phí đã tập hợp Để đơn giản tính toán chi phí loại trừ (Clt) thường được tính theo giá kế hoạch hoặc có thể lấy giá bán trừ lãi định mức của doanh nghiệp và trừ thuế doanh thu nếu có.  Phương pháp tính gía thành theo hệ số: áp dụng thích hợp trong trường hợp cùng một quy trình công nghệ sản xuất, sử dụng cùng một loại nguyên vật liệu, kết quả sản xuất thu được đồng thời nhiều loại sản phẩm chính khác nhau (liên sản phẩm). Như trong công nghiệp hoá chất, công nghiệp hoá dầu, trong công nghiệp nuôi ong, Xí nghiệp nuôi bò sữa... Trong các trường hợp này đối tượng doanh nghiệp tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, còn đối tượng tính gía thành là từng loại sản phẩm do quá trình sản xuất đó đã sản xuất hoàn thành. Nội dung phương pháp tính gía thành theo hệ số như sau: - Trước hết căn cứ vào đặc điểm kinh tế hoặc kỹ thuật của sản phẩm để qui định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số, trong đó chọn loại sản phẩm có đặc trưng tiêu biểu nhất làm sản phẩm tiêu chuẩn có hệ số 1. - Căn cứ sản lượng thực tế hoàn thành hoàn thành của từng loại sản phẩm và hệ số gía thành đã qui định để tính đổi sản lượng từng loại ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn. (sản phẩm có hệ số = 1) n Tổng sản  Si lượng x thực tế H= i 1 Trong đó: Si : Sản lượng thực tế của loại sản phẩm i
  19. Hi : Hệ số quy định cho sản phẩm loại i - Căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và chi phí của sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính tổng gía thành của cả liên sản phẩm theo từng khoản mục (theo phương pháp tính giản đơn) - Tính gía thành của từng loại sản phẩm bằng cách lấy tổng gía thành của loại sản phẩm chia cho tổng sản lượng các loại sản phẩm đã tính đổi nhân với sản lượng đã tính đổi của từng loại sản phẩm. - Tính gía thành đơn vị của từng loại sản phẩm.  Phương pháp tính gía thành sản phẩm theo tỷ lệ: áp dụng thích hợp trong trường hợp cùng một quá trình công nghệ sản xuất, kết quả sản xuất là 1 nhóm sản phẩm cùng loại với những chủng loại, phẩm cấp, qui cách khác nhau. Như sản phẩm nhóm ống nước với nhiều kích thước, đường kính và độ dài khác nhau; sản xuất quần áo dệt kim với nhiều cỡ số khác nhau, sản xuất chè hương với nhiều phẩm cấp khác nhau. Trong trường hợp này đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quá trình công nghệ sản xuất của nhóm sản phẩm, còn đối tượng tính gía thành sẽ là từng qui cách sản phẩm trong nhóm sản phẩm đó. Để tính gía thành thực tế cho từng quy cách sản phẩm có thể vận dụng phương pháp tính hệ số cũng có thể vận dụng phương pháp tỷ lệ. Nội dung của phương pháp tính gía thành sản phẩm theo tỷ lệ: - Trước hết doanh nghiệp phải dựa vào một số tiêu chuẩn hợp lý để làm căn cứ tính tỷ lệ phân bổ gía thành thực tế cho các quy cách sản phẩm trong nhóm. Tiêu chuẩn phân bổ thường được lựa chọn là gía thành định mức hoặc gía thành kế hoạch. - Tính tổng gía thành của từng quy cách sản phẩm theo sản l ượng thực tế từng quy cách nhân với đơn gía thành đơn vị định mức hoặc kế hoạch từng khoản mục. - Tính tổng gía thành định mức hoặc kế hoạch của cả nhóm theo sản l ượng thực tế dùng làm tiêu chuẩn phân bổ. - Căn cứ chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả nhóm sản phẩm và chi phí sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính ra tổng gía thành thực tế của cả nhóm sản phẩm. - Tính tỷ lệ gía thành từng khoản mục: Gía thành thực tế cả Tỷ lệ tính = gía thành Tiêu chuẩn phân bổ
  20. - Tính gía thành thực tế từng quy cách sản phẩm theo từng khoản mục Tổng gía thành Tiêu chuẩn phân thực tế = bổ có trong x Tỷ lệ tính từng quy cách từng quy cách (Theo khoản (Theo khoản 3. Phương pháp xác định giá thành theo khoản mục tính toán a. Chi phí trực tiếp Là các loại chi phí trực tiếp phục vụ cho quá trình thi công xây lắp công trình, bao gồm toàn bộ chi phí trực tiếp về vật liệu, nhân công, thuê ngoài và máy thi công cần thiết để hoàn thành một đơn vị khối lượng tương đối hoàn chỉnh của các công tác hoặc kết cấu xây lắp tạo thành công trình. - Chi phí vật liệu: được xác định theo công thức: m  QLD VL = + i vi C i= Trong đó: n VL: Chi phí vật liệu xây dựng Qi : Khối lượng công việc xây lắp thứ i Dvi: Chi phí vật liệu trong đơn giá dự toán xây dựng của công việc thứ i CLvi: Chênh lệch chi phí vật tư thứ i (nếu có) - Chi phí nhân công: được tính theo công thức sau: m F F  + ) NC QiDni( 1+ h1n h2n i= Trong đó: NC: Chi phí nhân công Qi: Khối công việc xây lắp thứ i Dni: Chi phí cho nhân công nằm trong đơn giá xây dựng chi tiết cho công việc thứ i
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2