intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:139

37
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu nhằm trả lời cho các câu hỏi: Có hay không có một hệ thống tư tưởng giáo dục của Khổng tử? Các yếu tố cấu thành hệ thống tư tưởng giáo dục của Khổng tử bao gồm những yếu tố nào? Chúng quan hệ ràng buộc với nhau ra sao? Hệ thống tư tưởng ấy đặt trong bối cảnh của thời đại ngày nay, ngoài giá trị lịch sử còn giá trị nào khác hay không.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Hồ Thị Ngọc Tài BIỂU TƢỢNG TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TỪ 1986 ĐẾN 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – 2017
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Hồ Thị Ngọc Tài BIỂU TƢỢNG TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TỪ 1986 ĐẾN 2010 Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. BÙI THANH TRUYỀN Thành phố Hồ Chí Minh – 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Mọi số liệu, nội dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố ở bất cứ công trình nào. Học viên Hồ Thị Ngọc Tài
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin được gửi lời tri ân chân thành, sâu sắc đến PGS. TS. Bùi Thanh Truyền, người Thầy đã truyền cảm hứng, niềm đam mê nghiên cứu khoa học cho học viên; người Thầy đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy khóa 26 chuyên ngành Văn học Việt Nam cùng các cán bộ Phòng Sau Đại học, Thư viện Tổng hợp TP.HCM tạo mọi điều kiện để tôi học tập, nghiên cứu. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến quý Thầy Cô Trường THPT Trịnh Hoài Đức (tỉnh Bình Dương), gia đình và bạn bè đã luôn động viên và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt khóa học. Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2017 Học viên Hồ Thị Ngọc Tài
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. BIỂU TƢỢNG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, GIẢI MÃ BIỂU TƢỢNG TRONG VĂN HỌC ...................................................... 9 1.1. Khái lược về biểu tượng............................................................................................ 9 1.1.1. Khái niệm ......................................................................................................... 9 1.1.2. Mối quan hệ giữa biểu tượng và hình tượng trong tác phẩm văn học ........... 14 1.2. Quá trình tạo sinh biểu tượng trong tác phẩm văn học ........................................... 17 1.2.1. Văn hóa – nguồn gốc nảy sinh biểu tượng ..................................................... 18 1.2.2. Ngôn ngữ – chất liệu tạo nên biểu tượng ....................................................... 21 1.2.3. Sự sáng tạo của tác giả làm nên tính nghệ thuật của biểu tượng ................... 23 1.3. Con đường giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học ........................................ 26 1.3.1. Vận dụng lý thuyết văn hóa học ..................................................................... 27 1.3.2. Vận dụng lý thuyết kí hiệu học ...................................................................... 30 1.3.3. Vận dụng lý thuyết phê bình huyền thoại ...................................................... 33 Tiểu kết ......................................................................................................................... 36 Chƣơng 2. NHỮNG BIỂU TƢỢNG TIÊU BIỂU TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TỪ 1986 – 2010 ................ 38 2.1. Bước ngoặt của văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh sau 1986 nhìn từ góc độ sáng tạo biểu tượng ..................................................................................... 38 2.1.1. Cơ sở chuyển biến của văn xuôi Việt Nam viết về đề tài chiến tranh sau 1986.......................................................................................................... 38 2.1.2. Tạo sinh biểu tượng – nỗ lực hiện đại hóa của văn xuôi đương đại về đề tài chiến tranh ............................................................................................ 43
  6. 2.2. Hệ thống biểu tượng chủ đạo của văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh sau 1986 ................................................................................................................ 47 2.2.1. Lửa và các biến thể của lửa với hiện thực chiến tranh tàn khốc .................... 48 2.2.2. Nước và các biến thể của nước với thân phận con người sau chiến tranh ..... 57 2.2.3. Giấc mơ với những chấn thương tâm lí của con người do chiến tranh gây ra .............................................................................................................. 66 2.2.4. Các biểu tượng khác ....................................................................................... 76 2.3. Sự phái sinh biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh sau 1986 ...................................................................................................................... 81 2.3.1. Hiện tượng phái sinh và phái sinh biểu tượng ............................................... 81 2.3.2. Các dạng thức phái sinh biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh sau 1986 ....................................................................................... 82 Tiểu kết ......................................................................................................................... 85 Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƢỢNG TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH ................................. 86 3.1. Xây dựng biểu tượng qua ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................... 86 3.1.1. Ngôn ngữ hàm súc, đa nghĩa .......................................................................... 86 3.1.2. Ngôn ngữ đa giọng điệu ................................................................................. 90 3.2. Xây dựng biểu tượng qua kết cấu nghệ thuật ......................................................... 94 3.2.1. Kết cấu phân mảnh ......................................................................................... 95 3.2.2. Kết cấu tâm lý .............................................................................................. 100 3.3. Xây dựng biểu tượng qua bút pháp nghệ thuật .................................................... 103 3.3.1. Bút pháp huyền thoại hóa ............................................................................. 103 3.3.2. Bút pháp tượng trưng ................................................................................... 109 Tiểu kết ....................................................................................................................... 114 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 118 PHỤ LỤC
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chiến tranh đã kết thúc, nhưng những thanh âm của cuộc kháng chiến lịch sử ấy vẫn còn vang đọng mãi trong đời sống xã hội Việt Nam nói chung và đời sống văn học, đặc biệt là thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết nói riêng. Cùng viết về một cuộc chiến tranh nhưng ở những giai đoạn khác nhau các nhà văn lại có những cách nhìn nhận, đánh giá không giống nhau về sự kiện lịch sử ấy. Trước năm 1975, tràn ngập trên các trang văn là giọng điệu hào hùng, ngợi ca. Sau năm 1975, với một độ lùi nhất định của lịch sử, cùng với những đổi mới trong tư tưởng hệ, chiến tranh đã được nhìn nhận lại một cách chân xác, khách quan hơn. Viết về “chiến tranh sau chiến tranh”, truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã đạt được nhiều thành tựu. Các nhà văn mặc áo lính và cả những cây bút trẻ đi sâu vào khai thác số phận con người cá nhân, đối thoại lại những chân giá trị của văn học giai đoạn trước. Trong một thời gian ngắn nhưng số lượng tác phẩm tăng lên đáng kể, nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết có giá trị nghệ thuật, đạt được nhiều giải thưởng cao quý. Hội Nhà văn Việt Nam đã trao giải thưởng cho nhiều tác phẩm có giá trị. Chẳng hạn như, năm 1986, tiểu thuyết Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh) đạt loại A, truyện ngắn Gió từ miền cát (Xuân Thiều) đạt loại B; năm 1987, tiểu thuyết Thời xa vắng (Lê Lựu) đạt loại A; năm 1990 có những tác phẩm đạt giải như tiểu thuyết Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Ông cố vấn (Hữu Mai) và truyện ngắn Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu); năm 1991 giải thưởng thuộc về hai tiểu thuyết Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, nhiều công trình đã chỉ ra những khuynh hướng đổi mới về nội dung, nghệ thuật của văn học sau 1975, tìm ra những hướng tiếp cận mới về đề tài chiến tranh so với văn học trước 1975. Một số tác giả còn tập trung đi vào tìm hiểu cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết viết về chiến tranh, cuộc sống của người lính trở về từ chiến trường… Đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 được tiếp cận, nghiên cứu từ nhiều góc độ, trong đó chúng tôi đặc biệt chú ý đến hệ thống biểu tượng nghệ thuật. Văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ, chính tính hàm súc, đa nghĩa của ngôn từ đã mang đến
  8. 2 cho tác phẩm nhiều sức gợi. Giá trị nội dung, thẩm mỹ, thông điệp của tác phẩm được dồn nén trong biểu tượng nghệ thuật. Giải mã được các tầng nghĩa của biểu tượng chúng ta sẽ khám phá được giá trị của tác phẩm. Trên cơ sở đó, chúng tôi đi vào tìm hiểu hệ thống biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam viết về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010, với mong muốn sẽ đóng góp một phần nhỏ trong việc khám phá những nét đổi mới về nội dung, nghệ thuật của văn học viết về “chiến tranh sau chiến tranh”. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tình hình nghiên cứu văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010 Có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn xuôi Việt Nam viết về đề tài chiến tranh từ sau năm 1975. Trước hết có thể kể đến là sách, giáo trình. Công trình Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (2006) do Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn chủ biên và công trình Văn xuôi Việt Nam sau 1975 (2012) của Nguyễn Thị Bình đã mang đến một cái nhìn khách quan, toàn diện về sự vận động của văn học dân tộc sau chiến tranh. “Văn xuôi chuyển từ tính thống nhất một khuynh hướng cảm hứng sang tính nhiều khuynh hướng, từ chịu ảnh hưởng của các quy luật thời chiến sang chịu tác động của các quy luật thời bình, nhất là quy luật của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa” [7, tr.7]. Các tác giả cũng đã chỉ ra đặc điểm và quy luật vận động của tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Đặc biệt hai công trình nói trên đã chỉ ra thành tựu nổi bật của truyện ngắn và tiểu thuyết sau 1975 là sự đổi mới trong quan niệm về con người, các tác phẩm xoáy sâu vào thân phận cá nhân. Tiểu thuyết, truyện ngắn sau 1975 cũng đã trở thành một đề tài được nghiên cứu nhiều trong những luận văn, luận án. Luận văn Đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh (2006) của Lưu Thị Thanh Trà đã tìm hiểu đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn của Bảo Ninh trong sự so sánh với tiểu thuyết Thân phận tình yêu. Tác giả khẳng định rằng truyện ngắn viết về chiến tranh của Bảo Ninh đã có sự đổi mới về hiện thực được phản ảnh và chân dung người lính so với văn học giai đoạn trước [116].
  9. 3 Năm 2008, Trần Thị Mai Nhân với luận án Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – 2000 [72] đã chỉ rõ sự mở rộng biên độ của tiểu thuyết Việt Nam từ quan niệm về một hiện thực đa chiều đến khả năng chiếm lĩnh những vùng hiện thực mới; từ quan niệm về con người “phi sử thi hóa” đến việc đa dạng các kiểu hình nhân vật tiểu thuyết. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn phát hiện những cách tân về nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – 2000. Đó là sự đổi mới về nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian, kết cấu và sự xuất hiện của yếu tố huyền thoại. Luận án cung cấp một cái nhìn khái quát về diện mạo tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Năm 2012, trong luận án Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học sau 1975– những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật, Nguyễn Thị Thanh đã giải quyết hai câu hỏi: Có thể viết về chiến tranh như thế nào? Và có thể viết tiểu thuyết như thế nào? Tác giả luận án kết luận: “Tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 không đơn giản, thống nhất như trước 1975 mà phát triển đa dạng, phong phú và phân lập thành ba khuynh hướng chính: khuynh hướng khám phá người anh hùng lưỡng diện, khuynh hướng thể hiện con người bị chấn thương và những số phận bi kịch, khuynh hướng thể hiện con người đời thường và những vấn đề thế sự” [91,tr.184]. Ngoài ra Nguyễn Thị Thanh còn khẳng định những đóng góp mới của tiểu thuyết sau 1975 trên phương diện nghệ thuật. Đó là yếu tố tưởng tượng, hư cấu trên nền sự kiện lịch sử, xuất hiện dấu ấn hậu hiện đại và văn học được xem như một trò chơi nghệ thuật. Có thể khẳng định, luận án đã cung cấp một hệ thống kiến thức về khuynh hướng và đổi mới nghệ thuật trong tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975. Trong công trình Đề tài chiến tranh trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (2013) [107], Lê Thị Hoài Thương đã tập trung nghiên cứu những góc khuất của chiến tranh được thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập như sự khốc liệt của cuộc chiến qua góc nhìn hồi ức, vết thương chiến tranh qua số phận con người… Trong luận văn Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn tự sự học (qua Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thời xa vắng của Lê Lựu) (2013) [126], Nguyễn Thị Vui đã làm rõ sự đổi mới về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 so với giai đoạn trước đó.
  10. 4 Mới đây Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Phương Thảo về đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh (2016) [95], đã được công bố. Trong sự so sánh với truyện ngắn nói chung, với tiểu thuyết về chiến tranh và đối chiếu với truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn trước 1975, tác giả đã chỉ ra sự thay đổi về tư duy nghệ thuật của truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975 như hướng tiếp cận mới về hiện thực chiến tranh, loại hình nhân vật; sự nới rộng đường biên hiện thực chiến tranh… Bên cạnh những đổi mới về nội dung, tác giả cũng chỉ ra sự cách tân về nghệ thuật, tiêu biểu là việc sử dụng bút pháp kì ảo để khám phá thế giới tâm linh, vô thức của con người. Đây là một luận án tiếp nối những giá trị của các công trình đi trước và góp một tiếng nói quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học hậu chiến. Luận án Hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba tác phẩm tiêu biểu Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) (2016) của Nguyễn Anh Vũ, thể hiện một cái nhìn khái quát, toàn diện về từng bước đi của tiểu thuyết từ sau 1975. Với ba tác phẩm tiêu biểu đại diện cho những dấu mốc quan trọng của giai đoạn đổi mới, tác giả đã làm rõ sự thay đổi từng bước về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết chiến tranh sau 1975. Đó có thể xem là quy luật vận động sự đổi thay, phát triển tất yếu của văn học [125]. Ngoài ra, nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 còn có rất nhiều bài báo, chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành như: Văn học Việt Nam về chiến tranh – hai giai đoạn của sự phát triển (Đinh Xuân Dũng) [18]; Viết về chiến tranh vấn đề và hiện tượng (Tôn Phương Lan) [60]; Những nỗ lực cách tân của văn xuôi Việt Nam đương đại (Mai Hương) [51]… Điểm gặp gỡ của các công trình nghiên cứu là sự khẳng định về những đổi mới có giá trị của văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn) viết về chiến tranh từ sau 1975 trên phương diện nội dung, nghệ thuật. 2.2. Tình hình nghiên cứu biểu tƣợng trong văn học Việt Nam Tìm hiểu giá trị tác phẩm văn học qua hệ thống biểu tượng nghệ thuật là một hướng nghiên cứu không mới. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu biểu tượng trong ca dao, thơ, văn xuôi. Tuy nhiên, để sát với đề tài
  11. 5 Biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010, chúng tôi đã đi vào tìm hiểu những công trình nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Toàn trong Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã nhấn mạnh: “Những biểu tượng nghệ thuật tham gia vào kết cấu hình tượng nói riêng, kết cấu tác phẩm nói chung có tính chất phổ biến trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Những biểu tượng nghệ thuật này tạo nên một cấp độ hiện thực mới– hiện thực siêu thực. Đó là hiện thực dị thường không nhằm mục đích để người đọc tin mà kích thích sự nghi ngờ và ngẫm nghĩ. Cũng có thể xem đây như một trong những hệ quả của quan niệm về tính “trò chơi” của văn chương hiện đại” [114, tr.107]. Việc giải mã biểu tượng trong văn học chính là hành trình khám phá hiện thực cuộc sống. Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh (Hoàng Thị Huế) đã tiếp cận tác phẩm theo hướng nghiên cứu biểu tượng. Theo tác giả, “tác phẩm là mảnh đất màu mỡ cho sự tham dự, song chiếu của huyền thoại– lịch sử và sự. nảy mầm các biểu tượng mang tâm thức Mẫu nương mình trong vô thức người nghệ sĩ” [48]. Chính biểu tượng là một mã giúp người khám phá các lớp nghĩa của tác phẩm. Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (2009), Lê Thị Hồng Hạnh đã đi sâu tìm hiểu và giải mã biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiếp và đưa ra nhiều kiến giải thú vị [36]. Luận văn Biểu tượng như một phương thức phản ánh của văn xuôi đương đại (qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái (2009) tác giả Trần Thị Hoài Phương khẳng định: “Khi khảo sát, phân tích các phương thức xây dựng biểu tượng mà Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương và Hồ Anh Thái sử dụng cùng những nguyên tắc tự sự, các quan niệm nghệ thuật ẩn sâu phía sau và chi phối các kỹ thuật đó, chúng tôi nhận thấy hầu hết các phương thức xây dựng biểu tượng đều là những cách tân nghệ thuật có giá trị văn xuôi đương đại, là kết quả của sự vận động nội tại của văn học nhằm tìm kiếm những ngôn từ nghệ thuật mới phù hợp với sự biến chuyển từ quan niệm về đời sống, con người cho đến quan niệm về văn
  12. 6 học nghệ thuật. Việc xây dựng biểu tượng nghệ thuật có căn nguyên từ sự vận động bên trong của văn học. Đây là cơ sở để khẳng định sử dụng biểu tượng như một phương thức phản ánh là một xu hướng nổi trội, tất yếu và có triển vọng trong văn xuôi đương đại” [79, tr.143]. Năm 2013, công trình Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Thị Ngọc Lan đã giải mã mạch ngầm văn hóa Nam Bộ qua hệ thống biểu tượng [59]. Điểm thống nhất của những công trình nghiên cứu trên chính là các tác giả khẳng định nghiên cứu tác phẩm văn học thông qua biểu tượng nghệ thuật là việc làm có ý nghĩa. Việc giải mã các biểu tượng nghệ thuật sẽ giúp chúng ta khám phá các vỉa tầng ý nghĩa của tác phẩm. Qua khảo sát và xử lý tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng đề tài về chiến tranh trong văn xuôi đương đại Việt Nam và biểu tượng nghệ thuật trong các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết rất được quan tâm nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 – 2010. Kế thừa những giá trị của các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi mong muốn sẽ nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 – 2010 một cách hệ thống. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Để làm rõ đề tài Biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 – 2010, chúng tôi tập trung làm rõ quá trình hình thành và giải mã biểu tượng trong các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đó được xem như là cơ sở lý luận của các bước nghiên cứu tiếp theo. Chúng tôi giải mã những biểu tượng trong những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu viết về chiến tranh, qua đó có cái nhìn rõ nét về sự đổi mới trong nội dung phản ánh hiện thực. Luận văn còn tập trung tìm hiểu nghệ thuật xây dựng biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi như bút pháp huyền thoại, ngôn từ, cốt truyện… 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn cho phép của đề tài, chúng tôi đi vào giải mã ý nghĩa biểu trưng của các biểu tượng tiêu biểu: Lửa, Nước, Giấc mơ, Rừng núi, Máu và các biến thể của
  13. 7 chúng để có một cái nhìn khái quát, toàn diện về những đổi mới trên phương diện nội dung, nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam viết về “chiến tranh sau chiến tranh”. Các tác phẩm luận văn chọn nghiên cứu là truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh trong giai đoạn từ 1986 đến 2010 có tính biểu tượng. Ngoài ra nhằm phục vụ cho mục đích so sánh, đối chiếu với văn học giai đoạn trước để thấy được sự đổi mới nên đề tài còn sử dụng một số tác phẩm viết về chiến tranh trong giai đoạn trước 1975. Có rất nhiều tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975, chúng tôi lựa chọn đối tượng nghiên cứu dựa trên những tiêu chí sau: Thứ 1: Những tác phẩm văn xuôi Việt Nam (truyện ngắn, tiểu thuyết) về đề tài chiến tranh trong khoảng thời gian từ 1986 đến 2010. Thứ 2: Những tác phẩm có xuất hiện biểu tượng lửa, nước, giấc mơ. Thứ 3: Những tác phẩm xuôi hậu chiến có giá trị nghệ thuật cao (đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Văn nghệ Quân đội hoặc được công chúng đón nhận). 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phƣơng pháp hệ thống – cấu trúc Phương pháp này giúp chúng tôi có một cái nhìn toàn diện về các biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi viết về chiến tranh sau 1986, đồng thời giúp luận văn thêm chặt chẽ, logic. 4.2. Phƣơng pháp loại hình Đây là phương pháp giúp khám phá giá trị của biểu tượng nghệ thuật dựa vào đặc trưng thể loại. 4.3. Phƣơng pháp so sánh So sánh với quan niệm phản ánh hiện thực trước 1975, chúng tôi mong muốn làm rõ sự đổi mới về nội dung và nghệ thuật của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh từ sau 1986 so với giai đoạn trước thông qua hệ thống biểu tượng. 4.4. Phƣơng pháp liên ngành Để giải mã các tầng nghĩa của hệ thống biểu tượng, việc đặt tác phẩm trong mối quan hệ với văn hóa– lịch sử là một điều cần thiết.
  14. 8 5. Đóng góp của đề tài Với đề tài Biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010, chúng tôi mong muốn tìm ra những đổi mới về nội dung, nghệ thuật của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh từ 1986-2010 thông qua các biểu tượng nghệ thuật có trong tác phẩm. Với giới hạn cho phép, luận văn không có tham vọng giải quyết triệt để mọi vấn đề mà mong muốn đóng góp một tiếng nói để hiểu rõ hơn về hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh từ sau 1986. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục và, Nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương như sau: Chƣơng 1: Biểu tƣợng và quá trình hình thành, giải mã biểu tƣợng trong văn học Trong chương này chúng tôi đi vào làm rõ những vấn đề lý thuyết về biểu tượng: khái niệm, mối quan hệ giữa biểu tượng và hình tượng, quá trình hình thành biểu tượng, con đường giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học. Đây là cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 – 2010. Chƣơng 2: Những biểu tƣợng tiêu biểu trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010 Chương 2 làm rõ sự đổi mới của văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ góc độ biểu tượng. Nỗ lực hiện đại hóa văn xuôi đương đại về đề tài chiến tranh đã được thể hiện qua hệ thống biểu tượng chủ đạo (Lửa, Nước, Giấc mơ, Rừng núi và các biến thể của chúng). Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tƣợng trong văn xuôi Việt Nam về đề tài chiến tranh từ 1986 đến 2010 Nội dung chương 3 làm rõ những phương diện nghệ thuật được áp dụng để tạo nên tính biểu tượng trong văn xuôi Việt Nam đương đại về đề tài chiến tranh: ngôn từ, kết cấu, bút phá
  15. 9 Chƣơng 1 BIỂU TƢỢNG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, GIẢI MÃ BIỂU TƢỢNG TRONG VĂN HỌC Tiếp cận tác phẩm qua biểu tượng là phương thức đọc văn bản theo chiều sâu; qua đó chúng ta sẽ khám phá được những lớp nghĩa biểu trưng được cất sâu bên trong lớp vỏ ngôn từ. Bởi vì, biểu tượng có đặc trưng đa nghĩa, sống động, khó nắm bắt nên con đường giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học đòi hỏi người đọc phải được trang bị những kiến thức chung về đối tượng. Trong chương 1, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược những vấn đề lý thuyết về biểu tượng: khái niệm, con đường tạo sinh biểu tượng, con đường giải mã biểu tượng để làm nền cho quá trình “đọc” biểu tượng ở những chương sau. 1.1. Khái lƣợc về biểu tƣợng 1.1.1. Khái niệm Biểu tượng (tiếng Pháp: representation, symbole; tiếng Anh: symbol) là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học tự nhiên và xã hội. Đó là những kí hiệu đại diện cho một ý nghĩa nhiều hơn chính nó. Biểu tượng trong khoa học tự nhiên có ý nghĩa chuẩn xác và thống nhất, được sử dụng theo một số nghĩa nhất định. Chẳng hạn biểu tượng ∩ trong toán học có nghĩa là giao giữa 2 tập hợp, A ∩ B được hiểu là có một điểm giao giữa A và B, phần tử vừa thuộc A vừa thuộc B. Biểu tượng ∞ được đọc là vô cực (không xác định, không giới hạn). Những biểu tượng ấy được sử dụng rộng rãi trên thế giới, được mọi người ngầm hiểu và chỉ có một cách hiểu duy nhất. Nguyễn Thị Bích Hà đã gọi đấy là những biểu tượng chết [33]. Đây không thuộc đối tượng nghiên cứu của chúng tôi. Trong khoa học xã hội, biểu tượng có tính đa nghĩa, trừu tượng. Đó không đơn thuần là những kí hiệu bằng hình ảnh mang tính thuật ngữ, khái niệm, đơn nghĩa mà là một kí hiệu hàm nghĩa có khả năng gợi mở tư duy cảm nhận của con người, mang đến những âm vang rung động trong tâm hồn. Ví dụ đường hầm “là biểu tượng của mọi cuộc vượt qua bóng tối, lo âu, đau khổ để có thể đến được với một cuộc đời khác, còn
  16. 10 bao hàm cả nét nghĩa tượng trưng cho tử cung và âm đạo của người mẹ, là con đường thụ pháp của đứa trẻ sơ sinh” [55, tr.325]. Theo như quan điểm của Nguyễn Thị Bích Hà trong Mã và mã văn hóa có thể xem đây là những biểu tượng sống – đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này. Là một thuật ngữ phức tạp, khó đưa ra một định nghĩa thống nhất các công trình nghiên cứu đã cố gắng cung cấp rất nhiều cách hiểu về khái niệm này. Từ điển tiếng Việt (2006) giải thích nghĩa của từ biểu tượng trước hết là hình ảnh tượng trưng; là hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt [77, tr.83]. Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra các định nghĩa sau. Theo nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời. Công trình nghiên cứu được xem là cơ sở vững chắc nhất về biểu tượng Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa biểu tượng và những ý nghĩa biểu trưng của chúng. Tuy nhiên những lớp nghĩa ẩn ngữ của biểu tượng không bao giờ là cùng kiệt. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant chỉ trao chiếc chìa khóa còn việc mở cánh cửa khu vườn huyền bí của biểu tượng là quyền năng của độc giả. Trên thực tế có nhiều thuật ngữ mới nghe có vẻ như giống biểu tượng, chẳng hạn: tín hiệu, dấu hiệu, phúng dụ… Tuy nhiên, những thuật ngữ này không phải là một, giữa chúng chỉ có một điểm chung là “chúng cần đến sự hiện diện của quan hệ giữa hai thành phần: cái được biểu đạt và cái được biểu đạt” [24, tr.318]. Lằn ranh giữa biểu tượng và những hình ảnh tưởng chừng như biểu tượng rất mỏng, dễ nhầm lẫn nếu chúng ta không được trang bị kĩ về lý thuyết. Vì vậy ngay trong phần mở đầu, hai tác giả đã chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa biểu tượng và dấu hiệu “ Dấu hiệu là một quy ước tùy tiện trong đó cái được biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ với nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt
  17. 11 theo nghĩa một lực năng động tổ chức” [55, tr. XIX]. Như vậy chính mối quan hệ chặt chẽ giữa hai mặt cái biểu đạt – cái được biểu đạt là điểm để phân biệt giữa kí hiệu với dấu hiệu. Theo cách giải thích này có thể hiểu nghĩa của dấu hiệu mang tính võ đoán còn những lớp nghĩa của biểu tượng là một cấu trúc động với mối quan hệ khá bền chặt giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Hình ảnh quả táo bị khuyết là dấu hiệu của hãng điện thoại Apple mặc dù tự bản thân hình ảnh ấy không có ý nghĩa nào liên quan đến chiếc điện thoại. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy ngoài tính võ đoán thì giữa dấu hiệu và biểu tượng còn có một điểm khác nhau nữa đó chính là dấu hiệu đơn nghĩa và mang tính thông tin, thông báo. Còn biểu tượng có tính đa nghĩa, mang nhiều giá trị thẩm mỹ, thông điệp nghệ thuật. Chẳng hạn lửa xuất hiện trên biển báo (cái biểu đạt) chỉ nhằm mục đích thông báo cháy (cái được biểu đạt), khi ấy lửa là một dấu hiệu. Trường hợp lửa xuất hiện lặp đi lặp lại trong một tác phẩm văn học như một nhân vật (cái biểu đạt) nhằm gợi ra một giá trị nghệ thuật về sự tẩy uế, soi sáng, khi ấy lửa đã trở thành biểu tượng nghệ thuật. Chẳng hạn biểu tượng lửa trong sử thi Ramayana là biểu tượng của sự tẩy uế, thanh lọc. Khi nghiên cứu biểu tượng chúng ta còn gặp phải một khó khăn khác trong nhận dạng đối tượng. Từ điển tiếng Việt từng định nghĩa, biểu tượng là hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt. Như vậy, những hình ảnh không thể tri nhận bằng giác quan có được gọi là biểu tượng? Để giải quyết thắc mắc này, Jean Chevalier – Alain Gheerbrant đã mượn phát biểu của Pierre Emmanuel “Vật không chỉ là một sinh thể hay một sự vật thực, mà cả một khuynh hướng, một hình ảnh ám ảnh, một giấc mơ, một hệ thống định đề được ưu tiên, một hệ thuật ngữ được quen dùng…” [55, tr.XXIV]. Với phát biểu của Pierre Emmanuel, khái niệm biểu tượng đã được nới rộng, bao hàm những vật cụ thể có thể tri giác và cả những vật không thể nắm bắt bằng các giác quan. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho việc lý giải biểu tượng giấc mơ (bất tri giác) trong chương sau. Sẽ là chưa đầy đủ nếu không nói đến tính phổ biến của biểu tượng. Cái biểu đạt hay sự hàm nghĩa của biểu tượng được một nhóm người chấp thuận và sử dụng. Nhà nghiên cứu Liungman đã khẳng định điều này trong công trình nghiên cứu của mình “Dictionary of Symbols”: “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm
  18. 12 người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý ngĩa là đại diện cho chính bản thân nó” [34, tr.12]. Định nghĩa về biểu tượng của Đinh Hồng Hải: “Có thể coi biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng do con người tạo ra, tồn tại trong đời sống của con người và có tác động đến đời sống văn hóa của con người” [34, tr.12]. Nhà biểu tượng học của Việt Nam này quan tâm nhiều hơn về yếu tố văn hóa ẩn chứa trong những biểu tượng. Tác giả còn khẳng định nghiên cứu biểu tượng tức là đi giải mã các thành tố văn hóa được sản sinh trong đời sống con người. Biểu tượng cũng là một đối tượng được các nhà tâm lý, phân tâm học quan tâm nghiên cứu. Trong Thăm dò tiềm thức, C.Jung đã đưa ra một cách hiểu về thuật ngữ biểu tượng: “Chúng ta gọi là biểu tượng, một danh từ, một tên gọi hay một hình ảnh tuy đã quen thuộc với ta hằng ngày, nhưng còn gợi lên những ý nghĩa khác thêm vào ý nghĩa ước định hiển nhiên của nó. Biểu tượng gợi lên cái gì mờ mịt, xa lạ hay tàng ẩn đối với ta” [9, tr.17]. Ví dụ, nước là một hình ảnh gần gũi với con người trong đời sống, nó mang một ý nghĩa thực là chất lỏng trong suốt dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Tuy nhiên, nước còn được xem là một biểu tượng khi nó còn mang đến những lớp nghĩa phái sinh, một số nơi nước được xem là một lễ phẩm thiêng liêng gắn liền với thần linh, tôn giáo. Chính khả năng gọi tên được những cái mơ hồ, khó định nghĩa bằng tri thức khoa học, biểu tượng trở thành một loại ngôn ngữ dùng để đọc tiềm thức của con người (những hình ảnh tượng trưng xuất hiện trong giấc mơ), là cầu nối giữa ý thức với cõi vô thức. C.Jung và Freud đều quan tâm đến hoạt động của vô thức bằng con đường đọc thông điệp của những giấc mơ thông qua biểu tượng. Tuy nhiên giữa hai nhà tâm lý học này có sự khác biệt trong việc hiểu và sử dụng thuật ngữ biểu tượng (symbol). Ngay từ đầu C.Jung đã thể hiện rõ quan điểm của mình, biểu tượng gắn liền với tính đa nghĩa, mờ mịt, xa lạ, “một hình thức của một thực tế hầu như không biết, một thực tế tuy vậy được thừa nhận hoặc được giả định là tồn tại” [26, tr. 43]. Có sự mâu thuẫn không khi khái niệm về biểu tượng được C.Jung định nghĩa là hình ảnh quen thuộc nhưng lại xa lạ? Phát biểu ấy có thể được hiểu, biểu tượng là hình ảnh, vật quen thuộc trong cuộc sống nhưng lại biểu thị cho một điều gì đó mơ hồ, khó nắm bắt trong tâm
  19. 13 thức. Chẳng hạn cây mận (vật quen thuộc) là biểu tượng cho sự thuần khiết (cái biểu thị mơ hồ). Ngược lại với C.Jung, Freud cho rằng biểu tượng mang tính kí hiệu, nó là một dấu hiệu của một cái gì đó được biết khá rõ mặc dù không được nhận biết một cách có ý thức. Như vậy quan điểm của ông có thể được hiểu là biểu tượng là một vật thay thế cho một vật thực. Và với nhà phân tâm học này, biểu tượng còn là tiếng nói của những ẩn ức, ham muốn bị dồn nén “một con dao, một cái gậy… có thể biểu tượng cho dương vật” [26, tr.45]. Điểm qua một số công trình trên, chúng tôi nhận thấy rất khó để có một khái niệm thống nhất về thuật ngữ biểu tượng (symbol). Đây cũng là một điều dễ hiểu vì một trong những bản chất nổi bật của biểu tượng chính là tính khó xác định và sống động. Một cách hiểu duy nhất chỉ làm biểu tượng bị chết cứng trong lớp vỏ ngôn từ. Mỗi nhà nghiên cứu có một hướng quan tâm khác nhau nên những cách hiểu về thuật ngữ này vừa có sự gặp gỡ vừa có sự khác biệt. Điểm gặp nhau của các khái niệm trên chính là biểu tượng là một đối tượng đại diện cho một đối tượng lớn hơn chính nó. Sự khác biệt, chưa đồng nhất ấy sẽ là thuận lợi khi biểu tượng vẫn không là mảnh đất chết, vẫn chứa đựng nhiều điều huyền bí thu hút nhu cầu khám phá của mọi người. Đồng thời điều đấy cũng sẽ gây ra nhiều khó khăn cho người nghiên cứu khi không tìm ra một cách hiểu chung làm cơ sở để tiếp cận biểu tượng. Từ đó, tiếp thu những khái niệm khác nhau của các nhà khoa học nêu trên, chúng tôi rút ra một cách hiểu về thuật ngữ này để làm cơ sở cho việc tiếp cận, tìm hiểu biểu tượng trong các tác phẩm văn xuôi viết về đề tài chiến tranh từ 1986 đến nay. Biểu tượng là một kí hiệu ngôn ngữ bao hàm cái biểu đạt (A) và cái được biểu đạt (B). Trong đó A là những hình ảnh, vật có thể tri giác hoặc bất tri giác; B chứa đựng, gợi mở nhiều tầng nghĩa có giá trị nghệ thuật hơn A. Khái niệm công trình nghiên cứu sử dụng có cội nguồn từ kí hiệu học và văn hóa học. Chúng tôi cho rằng đó sẽ là nền tảng vững chắc để đọc và giải mã biểu tượng trong văn học. Với cách hiểu này, ở chương sau, chúng tôi sẽ đi vào giải mã những hình ảnh: lửa, nước, giấc mơ, rừng, máu… và các biển thể của nó trong hệ thống các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau 1986 như những biểu tượng.
  20. 14 1.1.2. Mối quan hệ giữa biểu tượng và hình tượng trong tác phẩm văn học Tác phẩm văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Đối tượng của văn học chính là hiện thực đời sống. Tuy nhiên cùng một đối tượng nhưng văn học lại có cách nhìn riêng, chiếm lĩnh riêng không giống các hình thái ý thức xã hội khác. Chẳng hạn, nhà văn viết về rừng nhưng không giống như những nhà môi trường, xem xét đối tượng là một loại địa hình của tự nhiên, chiếm bao nhiêu diện tích che phủ mà thấy rừng là một ngôi nhà lớn che chở cho nhân loại hay đó là biểu hiện mạnh mẽ của sự sống. Như vậy điều mà tác phẩm văn học quan tâm không phải là “các quan hệ qua lại của thế giới hiện thực mà trước hết là các quan hệ của xã hội con người” [67, tr.125]. Có nghĩa là đối tượng mà văn học quan tâm, phản ánh chính là một quan hệ người kết tinh trong sự vật [67, tr.125]. Như vậy, hiện thực trong tác phẩm không phải là một hiện thực nguyên mẫu như nó vốn là mà trở thành một đối tượng được khoác lên mình những thị hiếu văn chương, lý tưởng, khát vọng.Và để nhào nặn, xử lý hiện thực nguyên mẫu thành hiện thực văn học có giá trị thẩm mỹ, các tác giả đã sử dụng tư duy hình tượng – cảm tính kết hợp với các phương thức phản ánh nghệ thuật bằng hình tượng, biểu tượng. Khi ấy, khách thể thẩm mỹ được tách khỏi hiện thực khách quan và được chuyển thành một hiện thực của ý thức qua lăng kính sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ (sự sáng tạo phải nằm trong ngưỡng cho phép của thiết chế xã hội). Có thể khẳng định thế giới hiện thực thông qua phương thức phản ánh bằng hình tượng, biểu tượng đã tạo nên một thế giới nghệ thuật tượng trưng, gợi lên những miền cảm xúc, kích thích tư duy tiếp nhận của độc giả. Biểu tượng và hình tượng đều là những kí hiệu. Đó đều là sự truyền đạt ý nghĩa bằng hình thức kí hiệu, “tức là cái vật chất có thể cảm biết được mà người phát sử dụng để kích thích đối phương tiếp nhận nhằm truyền đạt một cách có quy ước về một vật hoặc tình huống vắng mặt hoặc chưa xuất hiện”, “sự truyền đạt này được tiến hành thông qua một kênh nhất định” và “kí hiệu đó đã được mã hóa theo cái mã mà người tiếp nhận cũng nắm được” [35, tr.164-165]. Như vậy cả hình tượng, biểu tượng đều là những kí hiệu gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2