intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn hệ thống hóa một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, kinh tế tri thức, tác động của kinh tế tri thức với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và khái quát một số kinh nghiệm của vài nước láng giềng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để có những thành công đó, một phần rất quan trọng nhờ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay với xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức phát triển như vũ bão trên quy mô toàn cầu. Nền kinh tế tri thức đã ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Không có một quốc gia nào muốn vươn lên mà nằm ngoài xu thế đó, ngay cả đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Nền kinh tế tri thức dần xuất hiện và có những ảnh hưởng tới mọi mặt trong mọi hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, nghiên cứu về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết. Vì nếu chúng ta có một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, phát triển huy được những lợi thế, tiềm năng của đất nước, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì chúng ta sẽ tạo ra được những bước phát triển nhảy vọt, góp phần nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu, đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình để làm rõ hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện mới - sự phát triển của nền kinh tế tri thức. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, có một số công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên những
  2. 2 nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và các khía cạnh của nó chưa được nghiên cứu nhiều. Có một số tác phẩm như: “Kinh tế tri thức - xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI” của GS. TS. Ngô Quý Tùng, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” của Đỗ Hoài Nam, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới” của Lê Duy Phong và Nguyễn Thành Độ ..v..v.. Tuy đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan nhưng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức vẫn là một vấn đề mới, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu thêm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, kinh tế tri thức, tác động của kinh tế tri thức với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và khái quát một số kinh nghiệm của vài nước láng giềng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. - Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở nước ta và các phương hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu như trên, đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích một số vấn đề chung và kinh nghiệm quốc tế về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích, diễn giải, suy luận và tổng hợp để làm rõ hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện
  3. 3 phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay và đề xuất các phương hướng, giải pháp để thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn (i) Hệ thống hóa lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và tác động của kinh tế tri thức đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. (ii) Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. 7. Bố cục luận văn Với lý do lựa chọn và mục đích nghiên cứu như trên, luận văn này có bố cục gồm phần mở đầu, kết luận và 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. - Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. - Chương 3: Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
  4. 4 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 1.1. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế “Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện xã hội cụ thể, hướng vào thực hiện các mục tiêu nhất định.” [12, tr.11]. Hệ thống kinh tế hợp thành cơ cấu kinh tế, thường được nghiên cứu theo ba phương diện, tạo thành ba loại hình cơ cấu khác nhau: - Cơ cấu ngành kinh tế. - Cơ cấu thành phần kinh tế. - Cơ cấu vùng lãnh thổ. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế giữ vai trò quan trọng hơn cả, nó được hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất. Trong cơ cấu ngành kinh tế có ba ngành hay còn gọi là ba khu vực chính. Đó là: khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ. Cơ cấu ngành kinh tế có thể hiểu là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Đó là thước đo phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động của mỗi quốc gia. Cơ cấu thành phần kinh tế được phân chia dựa trên chế độ sở hữu. Cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý sẽ thúc đẩy lực lượng sản suất và phân công lao động xã hội phát triển. Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ được hình thành dựa trên việc bố trí kinh tế theo vùng địa lý. Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, xã hội riêng biệt của từng vùng để phát triển các ngành kinh tế phù hợp.
  5. 5 Các loại hình cơ cấu kinh tế nói trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được hình thành và phát triển dựa trên phạm vi vùng lãnh thổ. Ngược lại việc xác định cơ cấu vùng, lãnh thổ hợp lý sẽ thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế. 1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế không bao giờ cố định, bất biến mà liên tục thay đổi để phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng quốc gia, ở mỗi một giai đoạn nhất định. Sự thay đổi đó còn gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế muốn phát triển thì phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp. Sự chuyển dịch đó diễn ra nhanh hay chậm và theo chiều hướng nào tùy thuộc vào các nhân tố chủ yếu là: Quy mô của nền kinh tế, mức độ mở cửa để hội nhập của nền kinh tế với bên ngoài, lượng dân số, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn nhân lực, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa … của từng nước. Ngày nay, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu hướng toàn cầu hóa, thế giới bước sang kỷ nguyên của kinh tế tri thức. Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ đã làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi theo xu hướng tỷ trọng các ngành công nghệ kỹ thuật mới tăng lên nhanh chóng và dần chiếm ưu thế, tỷ trọng các ngành truyền thống giảm dần. Các quốc gia đi đầu trong những lĩnh vực công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường sẽ giành vị trí thống trị, áp đảo trong nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều đó làm cho các quốc gia khác cũng phải có các chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với xu thế phát triển kinh tế toàn cầu. 1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một yêu cầu khách quan, xuất phát từ sự phát triển của quá trình phân công lao động xã hội, cách mạng hóa sản xuất và chịu sự tác động của cách mạng khoa học, công nghệ.
  6. 6 Cơ cấu ngành kinh tế luôn phải chuyển dịch để phù hợp với sự biến đổi của môi trường khoa học kỹ thuật bên ngoài. Một số ngành cũ mất đi, một số ngành mới ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần trong thời đại mới. Không bao giờ có cùng tốc độ tăng trưởng, phát triển cho tất cả các ngành. Ngành nào thực sự cần thiết cho quốc tế dân sinh thì sẽ phát triển ngày càng nhanh, và ngược lại có những ngành quy mô và tốc độ phát triển ngày càng thu hẹp lại. Sự phát triển không đồng đều dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân. Như vậy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự vận động, phát triển của các ngành làm thay đổi vị trí, tương quan tỷ lệ và mối quan hệ tương tác giữa chúng theo thời gian, dưới tác động của những yếu tố kinh tế, xã hội nhất định của đất nước và quốc tế. Trên tầm kinh tế vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là kết quả của sự vận động, phát triển của ba ngành chính: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Ở Việt Nam, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được xem là một yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp để phấn đấu đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn để có quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đúng hướng. Nếu không xây dựng được một cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu hướng chung của thế giới, thì chắc chắn quá trình phát triển kinh tế đất nước sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại. 1.1.4. Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế luôn là một trong nhưng quốc sách hàng đầu đối với mọi quốc gia trên thế giới. Việc xây dựng một chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với điều kiện riêng của từng nước
  7. 7 là rất cần thiết. Có một chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp thì nền kinh tế mới có điều kiện phát triển nhanh và bền vững. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trước tiên để đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống người dân như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng... Việc xây dựng các ngành trọng điểm, mũi nhọn cũng rất cần thiết để có thể tập trung sức lực và vật lực, khai thác tối đa các ngành có lợi thế cạnh tranh và giá trị cao trên thị trường, phục vụ cho xuất khẩu nhằm thu được nhiều ngoại tệ mạnh phục vụ cho việc cải tiến kỹ thuật, công nghệ trong nước. Xu thế của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghệ kỹ thuật cao và ngành dịch vu, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, ưu tiên những ngành tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Việt Nam đã đạt được nhiều thành công vì có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đúng hướng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 24,3% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005. Công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,6% năm 2000 lên 41% năm 2005. Thương mại và dịch vụ giảm nhẹ từ 39,1% năm 2000 xuống còn 38,1% năm 2005 [35, 36]. Điều đó đã làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với mức bình quân 5 năm (2000-2005) đạt 7,5%, đứng thứ hai trong khu vực Đông Á. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã cải thiện đáng kể cuộc sống của người dân. Việt Nam từ một nước thiếu ăn, thường xuyên phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Nhưng bên cạnh những thành công thì quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn, thách thức. Như là chưa đầu tư đúng mức cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, vẫn còn
  8. 8 nặng về công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Quá trình hiện đại hóa vẫn chưa được quan tâm đúng mức, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Ngành công nghiệp chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tập trung vẫn là các ngành sử dụng nhiều lao động, chất lượng chưa cao và vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Chính vì vậy làm cho sức cạnh tranh của hàng công nghiệp thấp, tình trạng “thua trên sân nhà” diễn ra phổ biến. Chất lượng hàng nội thấp tất yếu dẫn đến tâm lý “thích hàng ngoại”. Ngành nông nghiệp vẫn còn sự chưa đồng bộ về mở rộng diên tích và đầu ra của sản phẩm. Dẫn đến tình trạng sản phẩm nông nghiệp không có nơi tiêu thụ, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người nông dân, tầng lớp chiếm 70% dân số cả nước, làm cho người nông dân không những mất mùa mà được mùa cũng khổ. Các ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám cao phát triển chậm, đóng góp vào GDP còn nhỏ. Tất cả những điều đó đòi hỏi sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam cần diễn ra nhanh hơn, làm cho nền kinh tế đất nước giữ vững nhịp độ tăng trưởng nhanh và chất lượng tăng trường ngày càng cao. 1.2. KINH TẾ TRI THỨC 1.2.1. Khái niệm về nền kinh tế tri thức Kinh tế tri thức trong những năm gần đây được nói đến rất nhiều, như một biểu trưng xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế hiện tại và tương lai. Thuật ngữ kinh tế tri thức không còn dừng lại trên sách vở, tài liệu tham khảo dưới dạng học thuật mà tất cả các quốc gia kể cả quốc gia đang phát triển cũng đã, đang hoạch định các chiến lược, mục tiêu cụ thể để đi đến nền kinh tế tri thức. Khái niệm thuật ngữ “kinh tế tri thức” được xác định theo các quan điểm khác nhau. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD định nghĩa:
  9. 9 “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất, phân bổ và sử dụng tri thức và thông tin (OECD 1996). Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế (APEC 2000). Ngân hàng Thế giới (WB, 2000) đánh giá: “Đối với các nền kinh tế tiền phong trên thế giới, cán cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức. Tri thức đã thực sự trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức”. Vậy nền kinh tế tri thức là gì? Chưa có một định nghĩa chính xác được chấp nhận chung về nền kinh tế tri thức nhưng có thể nói rằng đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế tri thức là tri thức đã vượt qua những nhân tố sản xuất truyền thống là vốn và sức lao động để trở thành nhân tố quan trọng nhất đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của quốc gia. Nói cách khác đang có sự chuyển biến toàn cầu từ các nền kinh tế dựa trên bắp thịt và tiền vốn chuyển sang nền kinh tế dựa trên trí não.
  10. 10 1.2.2. Những đặc trƣng chủ yếu của nền kinh tế tri thức Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tri thức hóa. Kinh tế tri thức ra đời dẫn đến sự chuyển biến to lớn, sâu sắc về cơ cấu kinh tế, về cách thức và các quy tắc hoạt động của nền kinh tế. Các ngành kinh tế dựa vào tri thức phát triển nhanh, các ý tưởng đổi mới và công nghệ là chìa khóa tạo ra việc làm và năng cao chất lượng cuộc sống. Nếu trong nền kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, trong nền kinh tế công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đóng vai trò chủ yếu thì trong nền kinh tế tri thức, các ngành kinh tế tri thức giữ vai trò thống trị. Nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sự sản xuất linh hoạt hàng hóa và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và giá trị công nghiệp công nghệ cao tăng rất nhanh kéo theo sự gia tăng việc làm và thu nhập từ ngành này cao hơn hẳn các ngành khác. Kinh tế tri thức cũng là nền kinh tế văn phòng (người trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm trong các nhà máy ít đi, người làm việc trong các văn phòng nhiều lên). Họ là những chuyên gia trong rất nhiều lĩnh vực: Tin học, tài chính , y tế, ngân hàng… Trong khối các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD hiện nay hơn 60% lực lượng lao động là công nhân tri thức và tạo ra hơn 50% tổng GDP của các quốc gia.[37] Thứ hai, công nghệ sản xuất luôn đổi mới, mang tính sáng tạo cao. Sáng tạo chính là linh hồn của kinh tế tri thức, không có sự sáng tạo thì không có kinh tế tri thức, chính vì điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới. Các doanh nghiệp đều phải sản xuất theo công nghệ ngày một cao hơn, sản phẩm có nhiều tính năng, công dụng và giá thành cạnh trạnh hơn. Chính vì vậy khoa học và sản xuất luôn đi đôi với nhau, khó có thể tách rời, không còn ranh giới rõ ràng giữa phòng thí nghiệm và nơi sản xuất. Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà nhà nghiên cứu và người công nhân nhập làm một.
  11. 11 Do tri thức đem lại siêu lợi nhuận biến một người từ hai bàn tay trắng như Bill Gate sau 10-15 năm đã trở thành một tỉ phú USD nên đầu tư vào sản xuất công nghệ, trong đó đặc biệt là đầu tư mạo hiểm tăng lên nhanh chóng. Đầu tư mạo hiểm nhằm nghiên cứu triển khai tạo ra công nghệ mới. Và cái nôi của sản xuất công nghệ chính là các khu công nghệ (technology park) - đó chính là vườn ươm cho sự ra đời công nghệ mới. Thung lũng Silicon là ví dụ thành công tiêu biểu cho một cách tổ chức để đi vào nền kinh tế tri thức. Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi. Công nghệ thông tin phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội loài người. Nó làm tăng tốc độ, hiệu quả và thời gian trao đổi dữ liệu, làm con người trở nên gần nhau và thế giới trở thành một ngôi làng nhỏ bé. Công nghệ thông tin góp phần làm cho nền kinh tế phát triển năng động với các ứng dụng hiệu quả của nó như thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, học tập và làm việc từ xa…làm xóa nhòa khoảng cách và không gian địa lý. Chính vì vậy nhiều người gọi kinh tế tri thức là kinh tế số hay kinh tế mạng. Thƣ tƣ, các doanh nghiệp vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để phát triển. Hợp tác và cạnh tranh chính là cánh thức linh hoạt để các doanh nghiệp từng bước nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ của mình, để chinh phục người tiêu dùng. Hợp tác để trở thành các tập đoàn khổng lồ, mặt khác từ các tập đoàn khổng lồ lại cơ cấu lại thành nhiều công ty mẹ - con để tăng hiệu quả hoạt động. Nên hợp tác và cạnh tranh vừa đối lập vừa thống nhất trong thời đại nền kinh tế tri thức. Thứ năm, kinh tế tri thức thúc đẩy hình thành một xã hội học tập. Con người phải thường xuyên trau dồi kiến thức và tri thức cho mình, để không bị lạc hậu trước thời cuộc. Mỗi người phải có chế độ học tập suốt
  12. 12 đời, không ngừng nâng cao tay nghề của mình để có được thu nhập và địa vị cao hơn trong xã hội. Đầu tư cho con người trở thành nguồn đầu tư có hiệu quả cao nhất và xu hướng đầu tư vô hình (cho con người, cho giáo dục, khoa học, văn hóa - xã hội…) cao hơn đầu tư hữu hình (cho cơ sở vật chất kỹ thuật). Vì chỉ có con người mới có sự sáng tạo, mới tạo ra tri thức chứ không phải máy móc. Thứ sáu, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng, việc chia sẻ cho càng nhiều người cùng sử dụng tri thức làm cho giá trị của tri thức đó tăng lên chứ không giảm đi. Điều đó có thể mô tả bằng hình tượng: “Anh châm ngọn nến của anh nhờ ngọn nến của tôi làm cho anh sáng lên mà tôi không bị tối đi”. Vì vậy nền kinh tế tri thức chính là nền kinh tế dư dật chứ không phải nền kinh tế khan hiếm. Tri thức là vốn quý nhất nên phải có luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Có được điều đó thì mới kích thích sự sáng tạo và làm cho nguồn tri thức ngày càng giàu có. Quốc gia nào có luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thực thi luật càng cao thì quốc gia đó chính là nơi sản sinh tri thức một cách tốt nhất. Thứ bảy, sự đổi mới thƣờng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức, vòng đời của sản phẩm rất ngắn chỉ tính bằng tuần, bằng tháng nên sự đổi mới được coi trọng và trở nên cấp thiết hơn bất kỳ nền kinh tế nào trước nó. Doanh nghiệp không đổi mới hay dậm chân tại chỗ sẽ lâm vào tình trạng bị đào thải khỏi nền kinh tế. 1.2.3. Sự tác động của phát triển kinh tế tri thức đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Sự phát triển kinh tế tri thức có sự tác động rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nếu trong nền kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế được
  13. 13 hình thành chủ yếu từ nguồn lực tự nhiên (đất đai) và sức lao động của con người. Còn trong nền kinh tế công nghiệp, lợi thế công nghệ và vốn lại được đánh giá cao cùng với việc phát triển các ngành chế biến với giá trị ngày càng lớn hơn, thì với sự phát triển của kinh tế tri thức lợi thế lớn nhất là kinh tế tri thức từ tri thức sẽ tạo ra công nghệ với trình độ cao và tạo lợi thế cạnh tranh trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Về cơ cấu kinh tế, trong kinh tế tri thức, nông nghiệp và công nghiệp vẫn tồn tại và phát triển nhưng chiếm tỷ lệ ngày càng nhỏ, các ngành kinh tế dựa vào tri thức và những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Sự phát triển khoa học và công nghệ trong kinh tế tri thức tác động đến biến đổi các bộ phận truyền thống trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia theo các hướng sau: - Hiện đại hóa các ngành truyền thống: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Các ngành truyền thống sản xuất ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu thiết yếu của con người. Ngành nông nghiệp cung cấp cho con người lương thực, thực phẩm, vải vóc…vẫn được duy trì để phục vụ cuộc sống con người nhưng sẽ được áp dụng các phương pháp tiên tiến của thời đại kinh tế tri thức như kỹ thuật gen, kỹ thuật vi sinh…góp phần tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và năng suất vượt trội so với các phương pháp truyền thống truyền lại từ ngàn năm nay. Điều đó cũng tạo ra sự biến đổi xã hội sâu sắc khi càng ngày càng cần ít người hơn để tạo ra một khối lượng sản phẩm nhiều hơn gấp hàng nghìn lần thậm chí hàng triệu lần so với phương pháp truyền thống. - Hình thành những ngành mới, những ngành đại diện cho nền kinh tế tri thức. Đó là những ngành, những doanh nghiệp chế tạo ra những sản phẩm công nghệ mới với trình độ cao. Vì tính khác biệt, mới mẻ của nó, người ta
  14. 14 còn gọi là ngành sản xuất thứ tư. (Tuy nhiên, cách gọi này chưa thật sự phù hợp vì mọi ngành đều có thể áp dụng công nghệ cao để gia nhập nền kinh tế tri thức ở giai đoạn thích hợp). Những ngành này có thể kể đến như: + Ngành công nghệ thông tin + Ngành công nghệ sinh học + Ngành công nghệ năng lượng mới và nguồn năng lượng tái sinh + Ngành công nghệ kỹ thuật cao có lợi cho môi trường + Ngành công nghệ vật liệu mới + Ngành khoa học kỹ thuật không gian + Ngành khoa học kỹ thuật hải dương + Ngành khoa học kỹ thuật mềm. [20, tr. 109-115] Các ngành khoa học kỹ thuật cao nêu trên về cơ bản khác với các ngành khoa học số học, vật lý, hóa học, thiên văn địa lý và sinh vật trước đây vì nó không lấy việc tìm kiếm tri thức hệ thống làm tiêu chuẩn mà theo đuổi tiêu chuẩn hiệu quả. Ví dụ, một mục tiêu của công nghệ thông tin là phải mở rộng, tăng nhanh việc tích lũy, xử lý và vận chuyển thông tin với số lượng ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao. Quang điện tử, mạch IC quy mô lớn và máy tính đều phục vụ cho mục đích này. Công nghệ vật liệu mới nhằm tạo ra được những nguyên liệu mới như kỹ thuật nguyên liệu mô sinh vật đã vượt ra khỏi khái niệm vật lý và hóa học của các nguyên liệu truyền thống. Khoa học hải dương chính là khoa học tổng hợp lấy toàn bộ biển làm đối tượng nghiên cứu, bao gồm một loạt khoa học kỹ thuật cao như phát điện thủy triều, sinh vật biển và thăm dò khoáng sản dưới đáy biển. Chính điều đó tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự tiến bộ về xã hội.
  15. 15 Tuy nhiên, thế giới vẫn là một bức tranh không đồng nhất về sự phát triển kinh tế tri thức. Các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và những nước phát triển đã có được sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng đó. Điển hình là Mỹ, năm 1998, tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm đến 71% GDP, nông nghiệp chỉ chiếm 2% và bản thân trong ngành nông nghiệp cũng ứng dụng công nghệ rất cao. Còn các nước đang phát triển hiện nay, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế này mới ở bước đầu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu diễn ra theo chiều rộng chứ chưa phải theo chiều sâu. Phần lớn công nghệ ở các nước đang phát triển vẫn còn rất lạc hậu, chủ yếu là mua lại những máy móc thiết bị thế hệ hai hoặc ba của các nước phát triển. Cùng với thời gian sư chênh lệch này diễn ra theo khoảng cách ngày càng xa, nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi mỗi nước đang phát triển phải tìm con đường đi cho riêng mình nhằm bước đầu tạo ra các nhân tố của kinh tế tri thức, tạo bệ phóng thoát ra khỏi tình trạng tụt hậu và kém phát triển. 1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM 1.3.1. Trung Quốc Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức của Trung Quốc còn nhiều khó khăn, vì cơ sở hạ tầng và kỹ thuật then chốt của Trung Quốc còn kém xa các nước phát triển và hầu hết các nước trong khu vực. Tuy vậy, Chính phủ Trung Quốc chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiến lược “thúc đẩy nền kinh tế dựa trên khoa học và giáo dục”. Để đặt nền móng cho kinh tế tri thức, Trung Quốc phấn đấu hai mục tiêu vừa nâng cao trình độ phát triển công nghiệp, vừa quan tâm xây dựng và
  16. 16 hoàn thiện nền móng thực thi kinh tế tri thức, tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, truyền thông thông tin và giáo dục đào tạo. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Trung Quốc cụ thể bằng triển khai áp dụng công nghệ cao trong mười ngành công nghiệp chủ chốt. Đây chính là những ngành hạt nhân, mũi nhọn để phát triển công nghệ cao và kỹ thuật tiên tiến. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã xây dựng được một hệ thống các cơ quan nghiên cứu về khoa học cơ bản và công nghệ gồm 53 Viện công nghệ cao cấp Quốc gia và đã đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học và công nghệ có khả năng đáp ứng nhu cầu của đất nước hiện tại và trong tương lai. Mặc dù hiện tại các ngành dựa trên tri thức mới chỉ chiếm 10% GDP của quốc gia nhưng bằng nhiều nỗ lực, Trung Quốc cũng đã xây dựng thành công một số yếu tố cấu thành cơ bản nền kinh tế tri thức. Ngành tiêu biểu tiến vào nền kinh tế tri thức là bưu chính viễn thông. Từ khi cải cách mở cửa đến nay, ngành này đã có những bước phát triển nhảy vọt liên tục trong nhiều năm, quy mô mạng thông tin và số hộ sử dụng các dịch vụ loại này ở Trung Quốc đã vượt lên vào hàng các nước đứng đầu thế giới, trình độ kỹ thuật cũng như trình độ dịch vụ được nâng lên rõ rệt. Năm 2000, có trên 200 triệu người Trung Quốc thuê bao điện thoại cố định, đạt 17,8% tổng số dân toàn quốc, còn ở các thành phố lớn là 38%, tỷ lệ sử dụng điện thoại di động đạt 5,8%. Hiện nay cùng với sự phát triển nhanh chóng mạng Internet, các lĩnh vực như thương mại điện tử, thông tin qua mạng Internet , giáo dục từ xa, dịch vụ y tế từ xa ở Trung Quốc cũng có những bước phát triển khá nhanh. Tỷ trọng sản phẩm thông tin mới trong tổng kim ngạnh xuất khẩu Trung Quốc năm 2000 đã vượt lên 18% so với 10% năm 1994 và dự đoán trong tương lai sẽ thay thế sản phẩm dệt để trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc [9, tr. 81].
  17. 17 Những thành quả trên có được một phần nhờ Trung Quốc đã có những biện pháp khuyến khích vai trò của các doanh nghiệp trong quá trình sáng tạo kỹ thuật, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất lớn trong việc nghiên cứu và phát triển khoa học kỹ thuật, đưa thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của mình. Đó cũng chính là chiến lược phát triển thị trường của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu về sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao và đa dạng. Từ đó, các doanh nghiệp coi thị trường là cơ sở để chọn lựa và áp dụng cơ chế kích thích hoạt động nghiên cứu và phát triển. Ngoài ra, Trung Quốc không ngừng tăng cường công tác nghiên cứu và phát triển hợp tác khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Điều này không có nghĩa là mô phỏng hay bắt chước mà là để rút ra kinh nghiệm thực hiện sáng tạo kỹ thuật của chính mình, từ đó làm giàu thêm cho tài sản khoa học của thế giới. Với cơ chế khuyến khích đổi mới cách thức quản lý và điều hành doanh nghiệp, với thị trường nội địa rộng lớn nhất thế giới hơn một tỷ dân và với việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Trung Quốc đang phấn đấu đến năm 2010 sẽ đạt tới trình độ phát triển của các quốc gia tiên tiến trung bình trên thế giới. Nếu các biện pháp trên được thực hiện một cách có hiệu quả thì đến năm 2010 chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, tiêu biểu là ngành công nghệ thông tin, kim ngạnh xuất khẩu sản phẩm thông tin của Trung Quốc có thể đạt tới 400 tỷ USD [9, tr. 83], cao hơn khoảng 30% so với Nhật Bản, vượt tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước Malaixia, Singapore, Đài Loan cộng lại, trở thành sản phẩm thông tin lớn nhất thế giới. Đó là dự báo của công ty Solomon (Hongkong). Và cũng theo công ty này, Trung Quốc với các ưu thế như giá thành rẻ và thị trường rộng lớn sẽ
  18. 18 dần trở thành nước sản xuất chủ yếu các sản phẩm thông tin của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Dự báo đến năm 2010, Trung Quốc sẽ đứng thứ hai thế giới về doanh số sản phẩm công nghệ thông tin và đến năm 2015, Trung Quốc sẽ đứng ngang với Mỹ về chỉ tiêu này [9, tr. 83]. Tuy nhiên, bên cạnh những việc đã làm được thì Trung Quốc còn gặp những khó khăn như việc phát triển các ngành công nghệ có hàm lượng tri thức cao vẫn còn nhỏ yếu và vẫn chưa tương xứng với tiềm lực và khả năng của Trung Quốc. Với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Trung Quốc, tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ sớm có sụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng phát triển kinh tế tri thức. Trung Quốc là một nước láng giềng có mối quan hệ hàng ngàn năm gắn bó với Việt Nam nên mỗi bước đi của Trung Quốc cũng là một tấm gương để Việt Nam rút ra bài học cho mình. 1.3.2. Xinhgapo Mặc dù là một quốc đảo nhỏ bé xong Xinhgapo đã đạt được những thành tựu vững chắc trong quá trình công nghiệp hóa đất nước và quá trình tiến tới một nền kinh tế dựa trên tri thức. Ngay từ những năm đầu thập niên 1980, Xinhgapo đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm hướng tới phát triển nền kinh tế dựa vào tri thức và nhấn mạnh vào việc sản xuất các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Xinhgapo bắt đầu thực hiện từng bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng nhấn mạnh đến những ngành có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao. Xinhgapo xác định các trụ cột của nền kinh tế là: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… Ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Chính phủ Xinhgapo đã bắt đầu khuyến khích áp dụng công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế. Các
  19. 19 nhà hoạch định coi công nghệ thông tin như nhân tố chiến lược quyết định nhằm hướng đến việc hình thành một cơ cấu công nghiệp và dịch vụ hiện đại có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường toàn cầu. Năm 1981, Chính phủ Xinhgapo đã thành lập Hội đồng tin học quốc gia (NCB) để thực hiện Kế hoạch tin học hóa quốc gia (NCP) được ban hành một năm trước đó. Và từ đó cho đến khi bị thay thế bởi Cơ quan Phát triển thông tin, viễn thông (IDA) năm 1999, NCB là cơ quan đóng vai trò chủ chốt trong việc đề ra và thực hiện các kế hoạch phát triển công nghệ thông tin của Xinhgapo. Thời kỳ này, dưới tác động của CSCP, các dịch vụ trực tuyến như: Mạng thương mại (Tradenet), mạng trường học (Schoolink), mạng pháp luật (Lawnet) đã được thiết lập. Hiện các công ty đóng tại Xinhgapo có khả năng đàm thoại trực tiếp đến hơn 160 thành phố trên thế giới. Năm 1989, Xinhgapo đã trở thành nước đầu tiên trên thế giới cung cấp trên toàn quốc dịch vụ thương mại ISDN nhờ sự hình thành mạng cáp quang. Như vậy là ngay từ những năm 1980, tại Xinhgapo những nền tảng cơ bản quan trọng nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã được thiết lập, đây là những viên gạch đầu tiên cho giai đoạn tiếp theo. Năm 1992, NCB đã ban hành Kế hoạch tổng thể IT 2000. Kế hoạch này có tham vọng biến Xinhgapo trở thành một hòn đảo thông minh, một trung tâm công nghệ thông tin của khu vực có khả năng cạnh tranh cao trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và hướng tới cải thiện chất lượng cuộc sống. Năm 1996, Singapore One, mạng duy nhất cho mọi người (One Network for Everyone) đã được thiết lập tạo nên mạng lưới truyền thông đa chiều biên độ rộng đầu tiên trên thế giới và được áp dụng trên toàn quốc. Đến tháng 10/2000, Singapore One đã tiếp cận hơn 99% các gia đình, tất cả các trường học và hầu hết các cơ sở công cộng. Thậm chí người không
  20. 20 có máy tính cũng có thể dễ dàng truy cập tại các quầy công cộng đặt ở góc phố hay các siêu thị lớn. Như vậy có thể nói, việc triển khai IT 2000 và Singapore One đã giúp Xinhgapo thiết lập được nền móng IT vững chắc, làm tiên đề để “con rồng” này bước sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn với Kế hoạch tổng thể công nghệ thông tin - viễn thông 21 (ICT 21). Với kế hoạch này, Xinhgapo hy vọng tới năm 2010 sẽ trở thành đầu mối công nghệ thông tin - viễn thông của nền kinh tế mới trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh công nghệ thông tin, Chính phủ Xinhgapo đã đầu tư hàng tỷ USD vào việc nghiên cứu, thử nghiệm và thu hút các công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới giúp xây dựng ngành công nghệ sinh học để phấn đấu tới năm 2010 Xinhgapo sẽ trở thành các trung tâm phát triển các liệu pháp y tế và dược ở khu vực. Những thành tựu đạt được do Xinhgapo khi chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức đã bắt đầu cải cách bộ máy hành chính để xây dựng một chính phủ có tính chất đổi mới, dám nghĩ, dám làm. Chính phủ cải tạo các công thức mới để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thay đổi trong các ngành, trong bộ máy. Thế mạnh của Chính phủ Xinhgapo là một số thành viên vốn là các nhà doanh nghiệp, nhà kinh doanh lớn, dồi dào kinh nghiệm trong thương trường, biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa chủ trương chính sách của nhà nước với chiến lược, kế hoạch, chương trình hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngược lại, chính thực tiễn của thị trường, các hoạt động của doanh nghiệp sẽ tạo kinh nghiệm cho Chính phủ trong quản lý hành chính và kinh tế, cả trong nước và nước ngoài. Xinhgapo đã thành lập các Ủy ban cấp Nhà nước để tư vấn cho hoạt động của Chính phủ về các lĩnh vực phát triển thương mại và kinh tế tri thức như: Ủy ban Tư vấn quốc tế về khoa học đời sống, Ủy ban Phát triển kinh tế để tiến tới tổ chức một trung tâm kinh tế toàn cầu, trong đó điều hành các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2