intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

24
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là xác định được một số cơ sở khoa học nhằm chuyển hóa rừng Keo lá tràm, Thông mã vĩ thành rừng hỗn loài với đa số loài cây lá rộng bản địa để phát triển rừng bền vững cả về kinh tế và sinh thái môi trường. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------------------- NGUYỄN ĐỨC VINH NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TẦNG CÂY CAO ĐẾN SINH TRƯỞNG CÂY BẢN ĐỊA DƯỚI TÁN RỪNG TẠI RỪNG THỰC NGHIỆM NÚI LUỐT, XUÂN MAI CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thế Nhã Hà Nội - Năm 2011
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Khu nghiên cứu thực nghiệm núi Luốt Trường Đại học Lâm nghiệp có diện tích là 130 ha. Trước kia, nơi đây toàn là Sim, Mua, Cỏ tranh, Cỏ lào và cây bụi nhỏ. Từ năm 1985 - 1986 trường Đại học Lâm nghiệp đã triển khai trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các loài cây: Thông, Keo, Bạch đàn,… Đến năm 1995 - 1996 Trung tâm NCTN&PT rừng đã triển khai trồng thử các loài cây bản địa được sưu tầm ở khắp nơi và trồng bổ sung vào năm 1996 - 2002. Trong những năm qua, rừng trồng Thông mã vĩ và Keo lá tràm đã khép tán. Tiểu hoàn cảnh rừng đã được thiết lập, đất đai bước đầu đã phục hồi được độ phì. Các loài cây bản địa đã được 9 - 16 tuổi, một số loài sinh trưởng tương đối nhanh và có triển vọng tốt. Tầng cây cao trong khu vực đã được tỉa thưa một lần để loại bỏ những cây sinh trưởng kém, vì thế mật độ và độ tàn che ở khu vực không cao lắm. Mặc dù vậy, tầng cây cao trong khu vực này đang có những ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng của các loài cây bản địa. Các loài cây bản địa thường sinh trưởng thích hợp trong điều kiện chịu bóng khi tuổi còn nhỏ, nhưng trong giai đoạn hiện nay nhu cầu ánh sáng và dinh dưỡng của chúng đã tăng lên. Do đó, tầng cây cao đã có những ảnh hưởng theo hướng tích cực hoặc tiêu cực đến sinh trưởng của chúng và sự tồn tại của lâm phần. Vì thế, hiện nay trong khu vực này đang tồn tại mâu thuẫn giữa tầng cây bản địa phía dưới và tầng cây cao phía trên về nhu cầu dinh dưỡng và ánh sáng. Cho nên, việc nghiên cứu sinh trưởng cây bản địa cũng như những ảnh hưởng của các nhân tố như độ tàn che, chiều cao tầng cây trên... đến sinh trưởng cây bản địa ở tầng dưới là hợp lý, từ đó làm cơ sở xác định các biện pháp tác động hợp lý cho các cá thể trong mỗi loài nhằm xúc tiến sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa trong khu vực. Để có cơ sở khoa học cho việc xúc tiến sinh trưởng và phát triển của những loài cây bản địa dưới tán rừng thì vấn đề cần phải nghiên cứu là: Sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa dưới tán; ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa dưới
  3. 2 tán; cấu trúc rừng đến đặc điểm thổ nhưỡng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng. Vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng và phát triển của cây bản địa dưới tán rừng và đề xuất những giải pháp tác động đúng đắn về mặt lâm sinh nhằm thúc đẩy sinh trưởng của cây bản địa tại các trạng thái rừng ở núi Luốt là điều kiện thiết yếu góp phần tích cực cho đào tạo, nghiên cứu khoa học và tham quan du lịch của nhà trường. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai”. Kết quả của đề tài sẽ góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho việc đánh giá ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng trồng thuần loài ở núi Luốt nói riêng và Việt Nam nói chung.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới: Trong những năm gần đây, rất nhiều nơi trên thế giới đã và đang nghiên cứu, thử nghiệm và trồng rừng thành công bằng những loài cây bản địa. Một số nước trên thế giới đã có những nghiên cứu trồng cây bản địa dưới tán rừng cây lá kim hoặc cây lá rộng thuần loài và có những kết luận về khả năng sinh trưởng cũng như giá trị kinh tế của những loại cây rừng. Tại Đài Loan và một số nước Châu Á sau khi trồng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng cây lá kim đã tiến hành gây trồng cây bản địa dưới tán rừng này. Kết quả đã tạo ra những mô hình rừng hỗn giao bền vững, đạt năng suất cao, có tác dụng tốt trong việc bảo vệ chống xói mòn đất [10]. Tại Malaysia, năm 1999 trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới thiệu cách thiết lập mô hình rừng hỗn loài trên 3 đối tượng: Rừng tự nhiên, rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 - 15 tuổi và 2 - 3 tuổi. Dự án đã sử dụng 23 loài cây bản địa có giá trị, trồng theo băng 30m trong rừng tự nhiên, trên băng trồng 6 hàng cây bản địa. Trồng 14 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo tai tượng theo 2 khối thí nghiệm. Khối A: Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa; Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa; Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa; Khối B: Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa; Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa; Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa… Kết quả cho thấy, trong 14 loài cây trồng trong khối A, có 3 loài: Shorea roxburrghii; S. ovalis; S. leprosula sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất.
  5. 4 Tỷ lệ sống không khác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng tốt nhất ở băng 10m và băng 40m. Băng 20m không thỏa mãn điều kiện sinh trưởng chiều cao. Khối B có tỷ lệ sống, sinh trưởng chiều cao tốt khi trồng 1 hàng; sinh trưởng đường kính tốt cho công thức trồng 6 hàng và 16 hàng. Dự án còn vạch ra kế hoạch điều chỉnh các công thức trồng tại những thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41, 47 năm sau khi trồng [10]. Tại Đan Mạch, thông qua nghiên cứu sinh trưởng Jensen năm 1983 thấy rằng Vân sam (Abies) trong hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba) có sản lượng cao hơn chính nó trồng thuần loài. Tương tự, Bulô hỗn giao với Thông mọc tốt hơn Bulô thuần loài. Hỗn giao 25-50% giữa Betula pendula với Abies đã làm tăng sản lượng của Abies ở tất cả các tuổi [30]. Tại Costa Rica, ba kiểu rừng trồng, mỗi kiểu rừng trồng là hỗn giao của 4 loài cây bản địa có sự chịu bóng khác nhau trong vùng đất thấp ẩm ướt của Costa Rica cho thấy từ 2 - 4 năm tuổi, đường kính ngang ngực trong các quần thụ hỗn giao là lớn hơn trong các quần thụ thuần loài của những loài mọc nhanh [30]. Một nghiên cứu khác của Haggar.J và J.Ewel năm 1995 và năm 1997 ở vùng đất thấp thuộc vùng Đại Tây Dương của Costa Rica chỉ ra rằng thông thường tăng trưởng của loài Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora trong rừng trồng hỗn loài nhanh hơn trong các quần thụ thuần loài. Điều đó có thể là do sự khác nhau trong hình học hệ thống rễ và tán cho phép phối hợp loài trong không gian một cách hiệu quả. Haggar và Ewel (1995) đã nhận định rằng tăng trưởng của các cá thể Cordia alliodora ở Costa Rica trong rừng hỗn loài nhanh hơn trong các quần thụ thuần loài (7,9m trong hỗn giao và 4,9m trong thuần loài ở 2 năm tuổi) [30]. Việc tạo lập các loài cây hỗ trợ ban đầu cho cây trồng chính trước khi xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài là rất cần thiết. Nghiên cứu về lĩnh vực này điển hình có tác giả Mathew năm 1995. Ông đã nghiên cứu tạo lập mô hình rừng trồng hỗn loài giữa cây thân gỗ với cây họ đậu. Kết quả cho thấy cây họ đậu có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho cây trồng chính. Như vậy, nghiên cứu này cho thấy sử dụng các loài cây họ đậu làm cây phù trợ cho các loài cây trồng chính trong mô hình rừng
  6. 5 trồng hỗn loài là rất phù hợp. Ngoài việc xác định được loài cây phù trợ thích hợp thì việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật điều chỉnh lâm phần rừng trồng hỗn loài theo quá trình sinh trưởng cũng rất quan trọng. Các tác giả Ball, Wormald và Russo năm 1994 đã tác động vào các lâm phần rừng trồng hỗn loài thông qua việc giảm bớt sự cạnh tranh giữa các loài cây. Kết quả cho thấy sau khi được tác động các biện pháp tỉa cành, tỉa thưa nên các loài cây mục đích đã được tạo điều kiện thuận lợi để sinh trưởng phát triển tốt hơn [28]. Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn loài là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài tác giả Bennar Dupuy năm 1995 thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh trưởng và tính hợp quần của các loài cây trong trong lâm phần (dẫn theo Hoàng Văn Thắng, 2007). Điều này cho thấy để tạo được các mô hình rừng trồng hỗn loài có cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa không gian dinh dưỡng thì cần phải dựa vào tính sinh trưởng cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô hình rừng trồng hỗn loài. Kết quả nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài các tác giả đều cho rằng việc bố trí các loài cây trong mô hình rừng trồng hỗn loài thường có ảnh hưởng tới sinh trưởng của chúng tùy theo số cá thể và cự ly trồng từng loài. Kolexnitsenko (1997) khi nghiên cứu về sự phối hợp giữa các loài cây gỗ trong trồng rừng hỗn loài đã đúc kết được 5 nguyên tắc lựa chọn loài cây trồng, đó là:  Nguyên tắc kinh nghiệm.  Nguyên tắc kiểu lâm hình học.  Nguyên tắc lý sinh.  Nguyên tắc sinh vật dinh dưỡng.  Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ.
  7. 6 Có thể nói đây là những nguyên tắc rất cơ bản và tương đối toàn diện về các lĩnh vực của rừng trồng hỗn loài. Để xây dựng thành công các mô hình rừng trồng hỗn loài cần phải dựa vào 5 nguyên tắc trên. Trong đó nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ là rất quan trọng và cần phải có thời gian dài nghiên cứu. Nhìn chung, các nguyên tắc này phản ánh được mối quan hệ bên trong và có tính chi phối tới sự tồn tại và sinh trưởng của các loài. Sự phân loại theo đặc điểm hoạt hóa của chúng như kích thích, ức chế hoặc kìm hãm quá trình sống thông qua ảnh hưởng của phitonxits là căn cứ để quyết định tỷ lệ tổ thành các loài cây trong lâm phần hỗn loài. Nghiên cứu về vấn đề này tác giả Kolexnitsenko đã đề nghị mật độ loài cây trồng chính trong mô hình trồng rừng hỗn loài không nên ít hơn 50%, loài cây hoạt hóa không nên quá 30 - 40%, loài cây ức chế không quá 10 - 20% trong tổng số các loài cây [37]. Tóm lại, các kết quả nghiên cứu về cây bản địa và trồng rừng hỗn loài trên thế giới tuy chưa nhiều song với những thông tin thu thập được về cách lợi dụng độ tàn che tầng cây cao, cách sử dụng cây phù trợ và các phương thức bố trí loài cây trong mô hình thí nghiệm và với những thông tin về tiểu hoàn cảnh rừng ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển các loài cây bản địa là những tài liệu tham khảo và bài học kinh nghiệm rất có ích cho đề tài. Với đặc thù riêng của rừng nhiệt đới người ta thường tác động theo các hướng sau: a. Hướng thứ nhất: Từ những lâm phần rừng tự nhiên hỗn giao lá rộng, thông qua sự tác động của những biện pháp kỹ thuật lâm sinh trở thành những lâm phần có cấu trúc ít phức tạp. Ưu thế thuộc về một số loài cây có giá trị kinh tế, tuổi ít chênh lệch nhau. Tại một số nước Châu Phi thuộc khu vực nói tiếng Pháp, người ta sử dụng phương thức trồng dặm dưới tán theo kiểu quảng canh. Fomy năm 1956 đã tóm tắt kinh nghiệm thu được về kiểu rừng trồng dặm và nêu ra 7 điểm cần thiết về kỹ thuật để đi đến thành công như sau:
  8. 7 1. Đặt cây theo khoảng cách hẹp, dọc trên rạch trồng để có được sự lựa chọn về số cây cần giữ lại và hạ được chi phí về nhân công chăm sóc. 2. Chỉ dùng những loài cây ưa sáng. 3. Rạch trồng theo hướng Đông - Tây để thu được ánh sáng tối đa. 4. Khai thác rừng đầy đủ trước khi trồng 5. Phương pháp không đem lại hiệu quả gì nếu có thú lớn. 6. Không bao giờ đánh giá thấp sự cạnh tranh của rễ cây và bóng rợp ở trên đầu và bên sườn. 7. Xử lý toàn bộ quần thể coi như đã được tái sinh một cách tự nhiên sau khi trồng cây. b. Hướng thứ hai. Thay thế hoàn toàn lâm phần cũ bằng lâm phần mới (phương pháp cải tạo triệt để) đã được nhiều quốc gia áp dụng nhằm tạo diện tích rừng đều tuổi thuần loài có giá trị kinh tế cao. Theo tài liệu của Baur, Catino đã giới thiệu và đánh giá các phương thức tái sinh rừng tự nhiên và nhân tạo ở Châu Phi, Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á đều đi đến kết luận: Việc đưa cây rừng vào các thảm rừng tự nhiên nhằm bổ xung tổ thành nâng cao chất lượng rừng tùy thuộc vào cách xử lý, điều kiện ánh sáng, xử lý các thảm rừng cũ một cách thích hợp đối với đặc tính sinh thái của từng loài ở từng giai đoạn tuổi khác nhau mới có thể đem lại hiệu quả [11]. 1.2. Ở Việt Nam: 1.2.1. Nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao Trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ những năm 1931. Điển hình là công trình nghiên cứu của tác giả người Pháp Maurand tại Trảng Bom - Đồng Nai về thử nghiệm gây trồng rừng hỗn loài Sao đen (Hopera odorata Roxb), Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb), và Vên vên (Anisoptera costata Korth) trong
  9. 8 rạch hẹp 1 - 2m, sau đó mở rộng 5m. Cây bụi thảm tươi trong rạch được phát dọn nhưng vẫn giữ lại che bóng ở tầng trên. Ông đã gọi đây là phương thức “trồng rừng dưới tán che dày và thấp”. Sau 2 năm, thí nghiệm này của ông đã bị cỏ lấn át, tác giả đã cải tiến bằng cách cho tiến hành phát quang các tầng trên và chỉ để lại loài cây ưu thế. Phương pháp này được gọi là phương pháp “trồng rừng dưới tàn che cao và nhẹ”. Nhưng thí nghiệm này của ông đến năm thứ 3 lại nảy sinh vấn đề là cây trong rạch sinh trưởng không bình thường. Ông lại tiếp tục dùng thảm che nhân tạo với các loài cây họ đậu như Muồng đen (Cassia siamea), Đậu tràm (Indigofora teysmanii) và ông cho rằng việc dùng cây che phủ ban đầu kết hợp với cây che phủ trung gian là có hiệu quả. Tác giả còn kết luận nhân tố ánh sáng trong rạch chừa đã ảnh hưởng tới cây trồng chính [11]. Năm 1962 các nhà lâm học Học viện Nông lâm đã tiến hành thí nghiệm trồng rừng hỗn loài, lấy cây Mỡ (Manglietia glauca Wull. BL) làm đối tượng chính của rừng hỗn loài và dùng các loài cây bạn theo từng cặp: Mỡ + Lim Xanh (Erythrophloeum fordii); Mỡ + Xà cừ (Khây senegalensis Benth), Mỡ + Tếch (Tectona grandis Linn). Mỗi loài trồng 1 hàng, hàng cách hàng 2m, cây cách cây 2m, kết quả cho thấy: Xà cừ, Tếch không thích hợp với đất và kỹ thuật trồng chưa đúng nên 2 loài cây này có tốc độ sinh trưởng chậm và bị các loài cây khác cạnh tranh, cuối cùng chỉ còn Mỡ thuần loài. Đối với Lim xanh, 2 năm đầu sinh trưởng kém, nhưng giai đoạn tiếp theo Lim xanh phát triển chiều cao nhanh hơn, do đó đến tuổi 10 - 12 Lim xanh đã vươn lên cùng tầng với Mỡ. Trần Nguyên Giảng đã nhận xét: Lim xanh có khả năng trồng hỗn loài với Mỡ nhưng chưa tìm được tỷ lệ thích hợp. Xét về mặt cải thiện đất, cây Lim xanh có thể đáp ứng song Xà cừ và Tếch tác dụng này không rõ [11]. Năm 1971 - 1976, Nguyễn Bá Chất và các cộng sự đã sử dụng cây phù trợ là các loài cây có khả năng cố định đạm như: Cốt khí, Ràng rang mít, Lim xẹt để tiến hành thí nghiệm trồng rừng hỗn loài Bồ đề với Mỡ và Xoan đào ở Tuyên Quang và Phú Thọ. Thí nghiệm trồng theo băng và theo hàng, kết quả sau 5 năm cho thấy năng suất của rừng Bồ đề trồng hỗn loài có cây phù trợ tăng 15 - 20% so với rừng
  10. 9 Bồ đề trồng thuần loài. Lượng thảm mục dưới rừng trồng hỗn loài được cải thiện hơn so với rừng trồng thuần loài [11]. Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa lá rộng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là công trình nghiên cứu phục hồi rừng vùng Sông Hiếu thông qua việc xây dựng cấu trúc hỗn loài Lát hoa với một số loài cây khác của Nguyễn Bá Chất (1981 -1985). Tác giả đã trồng hỗn loài Lát hoa với một số loài cây lá rộng bản địa như: Lim xẹt, Giổi xanh, Thôi chanh, Lõi thọ, Ràng ràng nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mô hình này được theo dõi đến năm thứ 10 và cho thấy: Sinh trưởng rừng Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài [11]. Năm 1985 - 1990, Nguyễn Xuân Quát đã tiến hành trồng thử nghiệm Tếch kết hợp với Đậu tràm và Muồng đen ở Tây Nguyên. Từ kết quả nghiên cứu tác giả nhận xét: “Bước đầu cho thấy chưa rõ hiệu quả sinh trưởng của Tếch là tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng đã tạo được cấu trúc rừng kết hợp giữa cây rụng lá mùa khô, cây phù trợ là cây Đậu tràm và cây bạn Muồng đen thường xanh” [11]. Nguyễn Bá Chất (1996) đã nhận thấy việc chọn loài phối hợp với Lát hoa (Chukrasia tabularis A.Juss) đang còn khoảng trống cơ sở lý luận và thực tiễn. Thí nghiệm trồng hỗn giao Lát hoa với các loài Trai (Garcinia fagraeo ides A.Chew), Nghiến (Burretiodendron tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia Champ), … ở tuổi 5 chưa thấy có ảnh hưởng đến sinh trưởng của Lát hoa [7]. Khi so sánh mười tám loài cây bản địa và nhập nội (trong đó có Giổi xanh (Michelia mediocris Dandy), Lát hoa (Chukrasia tabularis A.Juss) cùng với Bạch đàn (urophylla) trồng thử nghiệm thuần loài tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc ở 18 tháng tuổi Hoàng Văn Sơn (1996) nhận thấy hầu hết các loài đều có tỷ lệ sống thấp và chúng không thích hợp với việc phát quang thực bì khi trồng [11]. Đánh giá kết quả trồng rừng cây bản địa lá rộng ở Trung Trung Bộ, Lại Hữu Hoàn (2004) nhận thấy Trám trắng được trồng theo phương thức hỗn giao có tỷ lệ sống cao đạt 80%, tăng trưởng chiều cao 1,25m/năm và đường kính 1,3cm/năm.
  11. 10 Nguyễn Minh Đức (1998) nghiên cứu sinh trưởng loài Lim xanh tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa đã nhận xét: Sự thay đổi cường độ ánh sáng dẫn tới sự thay đổi nhiệt độ từ đó làm thay đổi ẩm độ dưới tán rừng và điều này có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây rừng đặc biệt là lớp cây tái sinh (dẫn theo Hoàng Văn Thắng, 2007). Nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn loài nhiều tầng, Trần Ngũ Phương (2000) đã đề xuất mô hình thiết kế rừng hỗn loài nhiều tầng cho mục đích phòng hộ và sản xuất thông qua các phương thức hỗn loài khác nhau như: Hỗn loài giữa cây cao và cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ trên công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu của rừng tự nhiên miền Bắc – Việt Nam tác giả đã chỉ ra rằng: Thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi. Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp ứng mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô hình hỗn loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng. Khi đánh giá một số mô hình trồng rừng hỗn giao ở các tỉnh phía Bắc của Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) nhận xét: Nhiều loài cây được lựa chọn sử dụng, bao gồm cả các loài cây mọc chậm, cây mọc nhanh; cây lá kim, cây lá rộng; cây bản địa và cây nhập nội... Đa số các mô hình bố trí trồng hỗn giao gồm 2 loài cây và 3 phương pháp hỗn giao chính là hỗn giao giữa các cây trong cùng hàng hoặc hỗn giao theo hàng hoặc hỗn giao theo đám. Loài Keo được sử dụng làm cây phù trợ là chủ yếu bất luận mối quan hệ giữa cây trồng chính với Keo như thế nào. Vì thế nhiều mô hình sau 2 đến 3 năm trồng các loài cây chính đều sinh trưởng kém và bị keo lấn át. Tuy nhiên, cũng có được một số mô hình như ở Cầu Hai do được chọn loại cây trồng và cự ly bố trí giữa các cây tương đối hợp lí (3x4m) nên cây phù trợ phát huy được tác dụng hỗ trợ cho cây trồng chính sinh trưởng và phát triển bình thường. Một nghiên cứu khác của Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) về trồng rừng hỗn giao Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và Lõi thọ (Gmelia arboria) ở
  12. 11 Lương Sơn - Hoà Bình cho thấy trên đất rừng sau nương rẫy, có độ dốc từ 15 đến 200, hỗn giao theo băng đã được thực hiện, cả Keo trắng và Lõi thọ đều sinh trưởng tốt, không thấy xuất hiện sâu, bệnh hại và lõi thọ đã bắt đầu ra hoa, có thể chuyển hoá thành rừng giống. Trong dự án nghiên cứu về rừng trồng hỗn giao các loài cây gỗ giá trị cao hợp tác giữa Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy và Trường đại học Queensland, đã thiết lập hàng loạt các thí nghiệm hỗn giao các loài cây bản địa và cây nhập nội ở cả phía Bắc và Nam Việt Nam. Dự án đã tìm ra tại Đoan Hùng, Phú Thọ hai loài cây Giổi xanh (Michelia mediocris) và Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) trồng hỗn giao theo hàng cho năng suất cao gấp 1,5 lần so với trồng thuần loại [30]. Ngoài các công trình nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng còn có một số công trình nghiên cứu tạo ra rừng hỗn loài giữa cây lá kim và cây lá rộng, giữa các loài cây nhập nội với nhau. Năm 1986, Phùng Ngọc Lan đã nghiên cứu thử nghiệm tạo rừng hỗn loài ở Núi Luốt – Trường Đại học Lâm nghiệp - Xuân Mai, Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) được chọn làm đối tượng chính. Tác giả đã tiến hành trồng hỗn loài Thông mã vĩ với Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và Bạch đàn trắng theo các tỷ lệ, mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau. Căn cứ vào các chỉ tiêu sinh trưởng, động thái đất, sâu bệnh hại tác giả đã có những nhận xét sau [11]: + Sau 2 năm sinh trưởng của Thông trồng hỗn loài tốt hơn so với thông trồng thuần loài. Tỷ lệ hỗn giao chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của Thông trên các công thức thí nghiệm. + Trong các công thức hỗn giao đã tiến hành trồng, hiệu quả thấy giun đất phát triển nhiều hơn so với các công thức đối chứng thuần loài. Điều này chứng tỏ tại các mô hình trồng rừng hỗn loài thì các tính chất của đất đã được cải thiện rõ rệt. Với thí nghiệm trên sau 2 năm tác giả nhận thấy sinh trưởng chiều cao của Thông trồng thuần loài là 2,53m trong khi đó chiều cao Thông được trồng hỗn loài với Keo theo tỷ lệ 1:1 là 2,8m và tỷ lệ 1:2 là 2,72m. Sinh trưởng đường kính của
  13. 12 Thông trồng hỗn loài với keo theo tỷ lệ 2:1 cũng lớn hơn, nhanh hơn, với mật độ trồng hỗn giao giữa Thông mã vĩ và Bạch đàn trắng sinh trưởng của Thông chưa rõ [11]. 1.2.2. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng trồng Đa số rừng trồng trong những năm trước đây là rừng thuần loài, mà rừng trồng thuần loài rất kém bền vững, nhất là ở những khu vực phòng hộ xung yếu hay ở những khu rừng đặc dụng. Vì thế, việc nghiên cứu trồng các loài cây bản địa dưới tán các khu rừng trồng thuần loài là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Do tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu trồng cây bản địa dưới tán, điển hình là những công trình sau đây: Phạm Xuân Hoàn (2002) tiến hành nghiên cứu đặc điểm một số nhân tố tiểu hoàn cảnh rừng trồng thử nghiệm một số loài cây lá rộng nhiệt đới dưới tán rừng Keo lá tràm và Keo tai tượng tại khu phục hồi sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà – Hải Phòng đã có một số kết quả sau: Hai loài cây tạo môi trường là Keo lá tràm và Keo tai tượng được trồng thuần loài với mật độ ban đầu là 3.300 cây/ha vào năm 1992. Năm 1994 rừng Keo tai tượng khép tán và năm 1995 rừng Keo lá tràm khép tán. Đây cũng là thời điểm cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng. Điểm khác biệt cơ bản ở 2 loài cây tạo môi trường này là sau khi khép tán, với tán lá dầy dưới tán rừng Keo tai tượng cây bụi thảm tươi không phát triển và hầu như bị diệt hoàn toàn. Bề mặt đất rừng rất khô. Ngược lại dưới tán rừng Keo lá tràm có tán lá thưa do đó dưới tán rừng có tới 12 loài cây bụi thảm tươi mọc với độ che phủ trên 75% và đạt chiều cao trung bình 0,83m. Với đặc điểm đó, độ ẩm tầng đất mặt đươc duy trì ổn định, đây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới tỷ lệ sống cung như chất lượng sinh trưởng của cây bản địa. Với 10 loài cây bản địa, bao gồm Gội trắng (Aphanamixis grandifolia Blume), Re hương (Cinnamomum inners), Nhội (Bischofia trifoliate Roxb), Trám
  14. 13 (Cinnamomum sp), Sấu (Dracontomelon duperreanum), Lát hoa (Chukrasia tabularis A.Juss), Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinense A.Chev), Dẻ (Castanopsis sp) và Kim giao (Podocarpus fleurgi Hickel ) đã được đưa vào trồng dưới tán các lâm phần Keo lá tràm (A. auriculiformis) và Keo tai tượng (A. mangium Wild) ở Vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) theo phương thức trồng hỗn giao theo hàng. Kết quả theo dõi từ năm 1995 – 2000 cho thấy dưới tán rừng Keo tai tượng các loài cây bản địa sinh trưởng kém hơn dưới tán của Keo lá tràm. Tỷ lệ sống của các loài cây bản địa trồng hỗn giao dưới tán Keo tai tượng đạt 79,1%, thậm chí loài Sấu chết hoàn toàn. Trong khi đó ở dưới tán Keo lá tràm tỷ lệ này là 95,3%, lượng tăng trưởng thường xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa cao hơn so với các cây cùng loài dưới tán rừng Keo tai tượng. Chẳng hạn loài Gội trắng có ZDoo = 0,61cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,08m. Tác giả cho rằng tầng cây cao là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa tầng dưới [11]. Hoàng Vũ Thơ năm 1998 đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum fordii) trồng dưới tán rừng, kết quả thấy Lim xanh sinh trưởng tốt nhất ở độ tàn che tầng cây cao từ 0,1- 0,4% [10]. Nguyễn Đức Thế năm 2007 đã nghiên cứu 10 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo lá tràm (A. auriculiformis) và Keo tai tượng (A. mangium Wild) tại Vườn quốc gia Cát Bà. Kết quả thấy rằng sau một năm trồng các loài cây bản địa bước đầu sinh trưởng tương đối tốt, nhưng sang năm thứ 2 thì cây trồng dưới tán rừng Keo lá tràm sinh trưởng tốt hơn trồng dưới tán rừng Keo tai tượng. 1.2.3. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ Thực tế đã chứng minh rằng rừng trồng thuần loài, nhất là rừng trồng một số loài thông thuần loài ở nước ta trong những năm qua rất kém bền vững, dịch sâu róm thông thường xuyên xuất hiện không những hạn chế sinh trưởng, cung cấp
  15. 14 nhựa mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái nặng nề. Để khắc phục vần đề này, gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu trồng một số loài cây bản địa dưới tán nhằm chuyển hóa rừng thông thuần loài thành rừng hỗn loài, điển hình là một số công trình nghiên cứu sau đây: Dẫn theo Phạm Xuân Hoàn năm 2002 tại Núi Luốt - Đại học Lâm Nghiệp - Xuân Mai, đã có công trình nghiên cứu điển hình về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm. Hai loài cây này được sử dụng để tạo môi trường đều trồng từ năm 1985, khi độ tàn che của rừng đạt 0,7 - 0,8 vào các năm 1990 - 1991 thì các loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng. Tại khu thực nghiệm này, số loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng Keo và Thông là 165 loài khác nhau. Cây con được thu tập từ rừng tự nhiên và gieo ươm tại vườn ươm, phương thức trồng hoàn toàn ngẫu nhiên và hỗn giao theo đám. Dưới tán rừng Thông trồng 27 loài, dưới tán rừng Keo trồng 21 loài, số còn lại được trồng dưới tán các trạng thái rừng hỗn giao Thông - Keo lá tràm, Thông - Keo tai tượng, Bạch đàn…Kết quả theo dõi đến cuối năm 2001 cho thấy: Dưới tán rừng Thông tỷ lệ sống của cây bản địa là 93,2% và ở rừng Keo lá tràm là 91,2%. Tăng trưởng thường xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa có sự phân hóa rõ rệt ở các loài. Tuy nhiên đáng chú ý nhất là một số loài cây thường được đánh giá là sinh trưởng chậm như Đinh thối, Re hương, Lim xanh, Sưa,…nhưng ở giai đoạn chịu bóng dưới tán rừng Thông và Keo lại có tăng trưởng rất tốt. Ví dụ: Re hương có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,5m, ZDt = 0,2m Lim xanh có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,15m Cá biệt có một số loài đạt D1.3 tới 1cm và Hvn lớn hơn 7m như Re, Lim, Đinh thối, Trám. Sự sinh trưởng và phát triển các loài cây bản địa trên chịu sự chi phối, ảnh hưởng rất lớn của các nhân tố: Độ tàn che của tầng cây cao (giai đoạn chịu bóng…), cường độ ánh sáng, nhân tố đất [11].
  16. 15 Nghiên cứu về đặc điểm sinh lý, sinh thái học của một số loài cây gỗ bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt – Trường Đại học Lâm Nghiệp - Xuân Mai, Đỗ Thị Quế Lâm (2003) đã nhận định các loài Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Re hương (Cinnamomum iners Reinw), Đinh thối (F.brilletii) có khả năng sinh trưởng tương đối tốt ở giai đoạn chịu bóng, tuy nhiên trong từng giai đoạn khác nhau yêu cầu về độ tàn che cũng khác nhau. Tại khu vực nghiên cứu Loài Lim xanh, sinh trưởng thích hợp nhất ở độ tàn che từ 0,47 - 0,52. Loài Đinh thối sinh trưởng thích hợp nhất với độ tàn che từ 0,51 - 0,58. Re hương sinh trưởng tốt nhất với độ tàn che trong khoảng 0,48 - 0,52. Trong giai đoạn hiện nay, loài Lim xanh có nhu cầu về ánh sáng cao nhất, sau đó đến Re hương, nhu cầu về ánh sáng của Đinh thối thấp nhất. Lê Minh Cường (2007) đã nghiên cứu và đề xuất được 3 loài cây bản địa có triển vọng trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) ở Đại Lại – Vĩnh Phúc gồm: Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Re hương (Cinnamomum iners Reinw) và Sao đen (Hopea odorata Roxb). Trong đó Lim xanh là loài cây có khả năng sinh trưởng tốt nhất dưới tán rừng Thông mã vĩ. Đây là cơ sở có thể ứng dụng cho những vùng có điều kiện sinh thái tương tự. Tóm lại, điểm qua các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về các vấn đề có liên quan đến đề tài có thể rút ra một số nhận xét sau: Các công trình nghiên cứu trên thế giới về rừng trồng hỗn loài tương đối phong phú và toàn diện về nhiều mặt nhưng tập trung nhiều vào chọn loài cây trồng và các biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn loài theo quá trình sinh trưởng. Nhiều thí nghiệm được bố trí định vị lâu dài tới vài chục năm. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc thiết lập rừng trồng hỗn loài trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các nghiên cứu, thực nghiệm về trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ rất sớm và được đẩy mạnh vào những năm 1990. Vấn đề nghiên cứu trọng tâm là xác định loài cây trồng, tạo cây phù trợ, phương thức và phương pháp
  17. 16 trồng. Phần lớn các nghiên cứu đều quan tâm đến tạo rừng trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng bản địa trong đó có những loài như: Đinh thối, Lim xanh, Lát hoa, Re hương, Re gừng, Trám đen, Trám trắng …đã được chọn để phục vụ trồng rừng. Các nghiên cứu trên đã đề cập đến phương thức trồng cây bản địa được áp dụng là trồng theo băng hoặc theo đám; nghiên cứu về sự ảnh hưởng lẫn nhau khi trồng hỗn giao; nghiên cứu độ tàn che tầng cây cao ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây bản địa trồng dưới tán. Tuy các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến nhiều vấn đề và khá đầy đủ về cây bản địa nhưng địa điểm khác nhau, lập địa khác nhau, loài cây khác nhau,…thì kỹ thuật trồng sẽ khác nhau. Để có thể triển khai kỹ thuật trồng cây nói chung và cây bản địa nói riêng thì cần phải có nghiên cứu tỷ mỉ mà các tác giả trong và ngoài nước đã đề cập ở trên tại khu vực tiến hành trồng cây bản địa. Do vậy tại khu vực nghiên cứu để làm luận văn của tác giả hiện chưa có nghiên cứu nào đề cập đến ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ ở khu thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai. Không những vậy hầu như các nghiên cứu trên chưa đề cập đến hướng dẫn về thiết kế rừng trồng hỗn giao để đảm bảo lợi ích thiết thực, chưa đề cập đến biện pháp tác động vào tầng cây cao, các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng các loài cây bản địa trồng dưới tán. Chính vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của những nhân tố vừa trình bày trên đây đến sinh trưởng của các loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ là việc làm cần thiết. Ngoài ra việc nghiên cứu các biện pháp tác động vào tầng cây cao, xác định độ tàn che thích hợp đối với từng loài và chăm sóc nuôi dưỡng các loài cây bản địa trồng dưới tán rừng cũng rất quan trọng để có cơ sở khoa học xác đáng trong việc gây trồng trồng và nhân rộng mô hình trồng rừng hỗn loài.
  18. 17 Chương 2 MỤC TIÊU- NỘI DUNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu chung - Xác định được một số cơ sở khoa học nhằm chuyển hóa rừng Keo lá tràm, Thông mã vĩ thành rừng hỗn loài với đa số loài cây lá rộng bản địa để phát triển rừng bền vững cả về kinh tế và sinh thái môi trường. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Đánh giá sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa trồng dưới tán rừng. - Đánh giá đặc điểm, điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu. - Đánh giá ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng. - Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng. 2.2. Nội dung nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nội dung nghiên cứu sau: 2.2.1. Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu - Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao. - Đặc điểm sinh tưởng tầng cây bản địa. 2.2.2. Đặc điểm điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu - Tính chất lý, hóa (pHKCl, dung trọng, tỷ trọng, độ xốp, hàm lượng mùn, N- P-K dễ tiêu). 2.2.3. Ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa khu vực nghiên cứu - Ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa.
  19. 18 2.2.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến tính chất đất 2.2.5. Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng - Biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng các loài cây bản địa được nghiên cứu. - Kỹ thuật chăm sóc các loài cây bản địa được nghiên cứu. 2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.3.1. Đối tượng nghiên cứu Từ năm 1985 - 1986 trường Đại học Lâm nghiệp đã triển khai trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các loài cây: Thông, Keo, Bạch đàn,… Đến năm 1995 - 1996 Trung tâm NCTN&PT rừng đã triển khai trồng thử các loài cây bản địa được sưu tầm ở khắp nơi và trồng bổ sung vào năm 1995 - 2002. Những loại cây bản địa hiện nay ở độ tuổi phổ biến từ 9 - 16 tuổi. Do thời gian trồng các loài không giống nhau và hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ chọn ra 3 loài có cùng thời gian trồng để nghiên cứu, đó là: - Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv) Đây là loài cây gỗ lớn, thân thẳng tròn, có bạnh nhỏ. Tán xòe rộng, vỏ màu nâu có nhiều nốt sần màu nâu nhạt. Cây mọc lẻ, phân cành thấp, cành non có màu xanh lục. Lá kép lông chim 2 lần, mọc cách, lá chét hình trái xoan hoặc trứng trái xoan, đầu có mũi nhọn, đuôi gần tròn, hai mặt lá nhẵn bóng. Gân lá nổi rõ cả hai mặt... Cây mọc chậm, tốc độ sinh trưởng thay đổi theo từng giai đoạn tuổi và vùng phân bố. Sinh trưởng tốt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nơi có nhiệt độ trung bình năm 22,4 - 24,10C. Cây ưa sáng nhưng khi còn nhỏ chịu bóng. Lim xanh phân bố nơi đất sét hoặc đất pha sâu dầy. Mọc nhiều và sinh trưởng tốt ở độ cao 300m trở xuống… - Re hương (Cinnamomum inners Reinw)
  20. 19 Cây cỡ nhỏ, cao 15-20m. Thân thẳng, tròn đều, vở nứt vẩy vuông cạnh. Cành non mùa xanh lục. Toàn thân có mùi thơm, lá đơn mọc đối, phiến lá hình trứng trái xoan hay trái xoan dài, đầu nhọn dần, đuôi nêm rộng hoặc gần tròn. Re hương thường mọc tự nhiên nơi đất ẩm, tơi xốp. Tái sinh hạt tốt dưới độ tàn che 0,4. Khả năng sinh trưởng chồi mạnh. - Đinh thối (Fernandoa brilletii) Cây cỡ nhỏ, cao 25-30m, đường kính có thể đến 50cm. Vỏ có màu xám tro bong mảng. Lá kép lông chim một lần lẻ mọc đối. Lá chét lông hình trái xoan hay chứng trái xoan. Hoa tự xim viên trùy ở đầu cành. Quả nang hình trụ dài, có 4 cạnh, đầu quả nhọn. Cây mọc chậm, mọc rải rác trong rừng kín lá rậm thường xanh ở miền Bắc. 2.3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa dưới tán; ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán; cấu trúc rừng đến đặc điểm thổ nhưỡng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng, tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Trường Đại học Lâm Nghiệp. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Phương pháp luận Sử dụng phương pháp sinh thái thực nghiệm và phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn (OTC) điển hình kết hợp với phương pháp kế thừa và phương pháp phân tích trong phòng để định lượng các chỉ tiêu cần thiết. Dung lượng mẫu đo đếm đủ lớn. Chỉ tiêu sinh trưởng thu thập gồm D1.3, Hvn, Ddc, Dt,... Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê sinh học có sự trợ giúp của các phần mềm Excel, và SPSS 16.0. 2.4.2. Phương pháp kế thừa Đề tài kế thừa các số liệu có liên quan tại Viện sinh thái rừng và Môi trường, Trường Đại học Lâm nghiệp và một số nghiên cứu khác trong khu vực, đó là:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2