intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn

Chia sẻ: Tri Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

25
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài mong muốn đạt được các mục tiêu sau đây: Xác định được cơ sở về chính sách, cơ sở khoa học và thực tiễn cho QHBVPTR xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn; đề xuất, kiến nghị liên quan đến công tác QHBVPTR tại địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------------------------------- BÙI VIỆT DŨNG NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CHO QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG TẠI XÃ NÔNG HẠ HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2008
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống của con người đặc biệt là đồng bào sống ở vùng nông thôn miền núi có cuộc sống phụ thuộc nhiều vào rừng. Trong những năm gần đây do sức ép về gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ rừng của con người ngày càng cao nên diện tích và chất lượng rừng không ngừng bị suy kiệt. Việc quy họach, sử dụng rừng và đất rừng có hiệu quả là công việc được quan tâm của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng đang là mục tiêu chiến lược của một nền lâm nghiệp bền vững. Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách ưu tiên khuyến khích nhằm phát triển công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, tuy nhiên vấn đề quy hoạch mới chỉ ưu tiên ở cấp quốc gia, tỉnh, huyện mà ít chú ý đến cấp địa phương (xã) cho nên quy hoạch ở cấp xã còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng và cần tiếp tục đưa ra nghiên cứu, thảo luận. Trong những năm gần đây việc tiến hành quy họach bảo vệ và phát triển rừng cấp xã có sự tham gia của người dân bước đầu được áp dụng trên địa bàn nông thôn, miền núi nước ta, tuy nhiên có thể thấy rằng quy họach bảo vệ và phát triển rừng cấp xã hiện nay đang còn nhiều vấn đề như hạn chế về quan điểm quy họach, phương pháp tiến hành lập quy họach, hệ thống chính sách phức tạp, không thống nhất và khó áp dụng so với tình hình thực tế của từng địa phương, sự phân định ranh giới, tiêu chuẩn phân chia các lọai rừng và đất rừng chưa cụ thể gây khó khăn cho công tác quy họach. Những cơ sở và thực tiễn cho việc quy họach bảo vệ và phát triển rừng chưa được phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, công tác quy họach chủ yếu dựa vào chỉ tiêu kinh tế là chính, ít quan tâm đến biện pháp kỹ thuật và các quy định mang tính pháp lý từ đó dẫn đến việc không đồng nhất quan điểm giữa các địa
  3. 2 phương, trong công tác quy họach bảo vệ và phát triển rừng, việc quy họach bảo vệ và phát triển rừng cấp xã thường chưa tính đến sự phát triển lâu dài của địa phương, phương pháp quy họach thường xem nhẹ mối quan hệ tổng hòa giữa các yếu tố liên quan vì vậy thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn khi đề ra định hướng, chiến lược phát triển cũng như các giải pháp kinh tế, xã hội và kỹ thuật trong quá trình quy họach bảo vệ và phát triển rừng từ đó cho thấy quy họach bảo vệ và phát triển rừng cấp xã hiện nay còn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn. Xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn là một xã có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá. Xã có vị trí địa lý thuận lợi, nằm cạnh quốc lộ 3 nên có điều kiện để giao lưu – phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên trong những năm qua do sự gia tăng dân số cũng như các nhu cầu phát triển của xã hội đã gây ra một sức ép không nhỏ tới tình hình quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng tại địa phương, những nguyên nhân trên đã làm cho diện tích, chất lượng rừng ngày càng bị suy giảm. Trước thực trạng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và phương pháp lý luận cho quy họach bảo vệ phát triển rừng tại địa phương chưa rõ ràng, những chủ trương chính sách của Nhà nước và địa phương liên quan đến công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đối với Xã vẫn còn một số hạn chế. Chúng tôi tiến hành thực hiện Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy họach bảo vệ và phát triển rừng tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn”. Với mong muốn góp phần phát triển cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác quy họach bảo vệ phát triển rừng cấp xã, từ đó đề xuất, kiến nghị một số vấn đề liên quan đến công tác quy họach bảo vệ phát triển rừng tại địa phương.
  4. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên Thế giới 1.1.1. Tóm lược lịch sử quy hoạch lâm nông nghiệp Quy hoạch lâm nông nghiệp được xác nhận như là một chuyên ngành bắt đầu bằng các quy hoạch vùng ngay từ thế kỷ 17. Theo Olschowy [78, tr.37-44] vào thời gian này quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như là một lĩnh vực phát triển ở mức cao trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất. Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai vào năm 1929, tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscovin. Kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí. Hạn chế của quy hoạch này là tạo việc khai thác rừng quảng canh, không kiểm soát lửa rừng và chống xói mòn. Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946 Jacks G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên ”Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất” [76]. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây, nay là Cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Năm 1966 Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất. Ngoài ra còn một số chuyên khảo khác cũng ra đời đề cập đến “Môi trường con người” trong đánh giá khả năng thích hợp của đất cho quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp. Tại Đức, tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu ”Khái niệm về sử dụng đất khác nhau”. Đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử dụng
  5. 4 đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh [82, tr.294- 298]. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO tổ chức nhiều hội nghị về Phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất. Các hội nghị đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến loại nhỏ . . . phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1969 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy Sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn[73],[74]. 1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến phương pháp quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương Phương pháp quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương có thể được khái quát bằng 2 cách tiếp cận chủ yếu: tiếp cận từ trên xuống (Top-down Approach) và tiếp cận từ dưới lên (Bottom-up Approach). Cách tiếp cận thứ nhất được hình thành từ khi có quy hoạch ra đời cho đến nay và được áp dụng cho quy hoạch ngành. Cách tiếp cận này ngày càng bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả vì không có sự tham gia của cộng đồng khi các chương trình thực hiện ở cấp vi mô. Cách tiếp cận thứ 2 được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng “Sự không thể thiếu được” vai trò của cộng đồng nông thôn trong lập kế hoạch và quản lý tài nguyên của cộng đồng. Từ đây thuật ngữ “Quy hoạch dựa vào cộng đồng” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện. Gilmour năm 1997 đã phân biệt 2 loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển (Classical Approach) và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (People’s centered Approach) [75, tr.73- 91]. Những nghiên cứu của ông về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cộng đồng. Từ cuối thập kỷ 70, các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống về điều kiện vật lý sinh học như: điều tra thổ nhưỡng, đánh giá đất đai, vẽ bản đồ. . . ít được nghiên cứu mà thay vào đó là các phương pháp điều tra đánh giá cùng
  6. 5 tham gia như Đánh giá nhanh nông thôn (RRA), Nông dân tham gia đánh giá (PRA), Phương pháp quá trình sáng tạo. Đặc biệt là phương pháp Phân tích các hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất vi mô được nghiên cứu rộng rãi. Những thử nghiệm các phương pháp RRA vào thập kỷ 80 và PRA đầu thập kỷ 90 trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch sử dụng đất được thực hiện trên 30 nước phát triển cho thấy ưu thế của các phương pháp này trong lập kế hoạch lâm nông nghiệp cấp thôn bản [68, tr. 1437-1454]. Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu á, Châu Phi và Nam Mỹ xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch và lập kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Luning năm 1990, lần đầu tiên nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất [77]. Năm 1994 một nhóm chuyên gia tư vấn của FAO đã công bố quy trình kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất. Phương pháp này có tên gọi là LEFSA. Năm 1994, Anaman và một số tác giả khác đã nghiên cứu và áp dụng LEFSA tại Thái Lan [67, tr.332-336]. Phương pháp này có hạn chế là đòi hỏi hệ thống thông tin phân tích lớn, khó áp dụng cho quy hoạch địa phương. Theo Erwin năm 1999, phân tích hệ thống canh tác là công cụ cho phân tích các trở ngại trong hệ thống nông trại HGĐ để xác định mục tiêu quy hoạch, xác định các kiểu sử dụng đất hiện tại và phương án sử dụng đất mới, đánh giá các phương án sử dụng đất khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án tốt nhất[71]. 1.1.3. Các nghiên cứu xây dựng qui trình quy hoạch sử dụng đất Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một qui trình quy hoạch sử dụng đất. Theo Purnell năm 1988, mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất đựợc các chuyên gia xác định là “Thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng sản xuất quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải
  7. 6 trí”. 4 câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai là [79, tr.9-12]: Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án sử dụng đất nào? Phương án nào là tốt nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?. Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh luật pháp. Ông đề nghị ”Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích: cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp, yêu cầu sử dụng theo qui trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích xây dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế” [80]. Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về qui trình quy hoạch. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng đồng (xã, thôn) [70, tr. 67-76]. Ông còn đề xuất quá trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10 bước. Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính [72]. Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch. Năm 1980, Buchwald đề xuất quá trình quy hoạch 8 bước, trong đó những nghiên cứu đánh giá về sinh thái và kinh tế xã hội được đề cập tách biệt ở các bước khác nhau [81]. Điểm hạn chế này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy hoạch. Maydell năm 1984 cho rằng 4 điểm chính trong quá trình quy hoạch nông lâm nghiệp tại các nước nhiệt đới là [83]: phân tích xu hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát triển; xác định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích phương pháp và tiến hành đánh giá. Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra đây một số qui trình quy hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng. Theo Zimmermann năm 1989 tổ chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại nhiều nước, trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam. Qui trình này dựa
  8. 7 trên quá trình phân tích tình hình, chuẩn đoán hiện trạng và phân tích mục tiêu. Các kỹ thuật của phương pháp phân tích tối ưu hoá mục tiêu (ZOPP) được sử dụng [85 tr.12-15]. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước quy hoạch sử dụng đất đa mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và chọn phương pháp lập kế hoạch như sau: Chuẩn đoán trong thu thập thông tin và dự đoán cơ hội, tư vấn trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện trong điều phối và giám sát[84]. 1.1.4. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới Tổng kết các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương Đề tài rút ra một số kết luận phục vụ cho nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã ở Việt Nam như sau: Mặc dù đã có những nghiên cứu đề xuất và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất nhưng chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cho cấp xã hoặc cấp hành chính thấp nhất tại các nước phát triển. Tuy vậy, những nghiên cứu và qui trình quy hoạch trên thế giới có thể được nghiên cứu và áp dụng trong điều kiện ở Việt Nam theo các hướng sau: - Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã phải lấy quy hoạch sử dụng đất làm nền tảng, kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của cấp trên với nhu cầu của cộng đồng thông qua sự tham gia trực tiếp của người dân. - Phân tích được mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cấp quy hoạch lâm nông nghiệp, đặc biệt là cấp địa phương: xã, thôn bản và HGĐ để xác định rõ nội dung và phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng có tính đặc thù riêng của mỗi cấp. - Các phương pháp đánh giá đất đai của FAO, qui trình lập kế hoạch sử dụng đất cần được áp dụng trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, nhưng đòi hỏi phải điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh của cộng đồng nông thôn Việt Nam.
  9. 8 - Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác được coi là công cụ quy hoạch cấp xã cần được vận dụng vào đặc điểm kinh tế văn hoá xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Một số chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước về quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp cấp xã Đảng và Nhà nước có quan điểm rõ ràng về quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, HGĐ và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài” (Điều 13) [18]. Luật đất đai năm 2003 quy định rõ có 3 loại đất chính đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng với 6 quyền sử dụng tuỳ theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật đất đai nêu rõ trong mục 2 quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại điều 23 là lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai [22]. Luật Đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho quy hoạch nông lâm nghiệp. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp [23]. Theo biên bản hội thảo quốc gia về “Quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp” năm 1997 nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu tính thống nhất giữa 2 luật: Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng trong quy hoạch và giao đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp, xác định rõ vai trò của địa phương, đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và giao đất giao rừng. Trong Nghị định 64/CP, điều 15 có nêu một số quyền hạn của cấp xã trong sử dụng đất công ích [38], trong khi văn bản quan trọng nhất về giao đất lâm nghiệp là Nghị định 02/CP lại ít đề cập đến vai trò của cấp xã [39]. Nghị định của Chính phủ số 163/1999/NĐ-CP ra ngày 1 tháng 11 năm 1999 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, HGĐ và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm
  10. 9 nghiệp có một số điều nói tới nhiệm vụ và quyền hạn cấp xã trong quy hoạch và giao đất lâm nghiệp [42]. Nghị định 01/CP xác định vai trò cấp xã như là cơ quan Nhà nước chứng nhận các hộ nông dân để được nhận khoán đất (điều 3 mục 3) [40]. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa phương, coi quy hoạch sử dụng đất là nền tảng cho các quy hoạch khác và là cơ sở cho giao đất, lập kế hoạch sử dụng đất, xây dựng các dự án phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có các quy định cụ thể về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là cấp xã. Những điểm liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã chưa được thống nhất. Trên thực tế cấp xã mới có định hướng và mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Ngay cả khi xây dựng định hướng phát triển kinh tế - xã hội và sản xuất cũng gặp một số khó khăn khi vận dụng những chính sách có liên quan. Một số vấn đề liên quan đến Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cần thống nhất, nhất là việc phân định các loại đất trong luật đất đai và phân loại rừng trong luật bảo vệ và phát triển rừng. Các văn bản dưới luật cần cụ thể hoá cho từng điều kiện địa phương đảm bảo tính đa mục đích sử dụng của đất đai, tạo điều kiện cho quy hoạch lâm nông nghiệp tránh chồng chéo và mâu thuẫn. 1.2.2. Các quan điểm về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã Năm 1990 Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ[53]. Nhiều tỉnh thực hiện quy hoạch vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên, khi triển khai gặp những khó khăn về phương pháp chưa thống nhất. Dù sao quy hoạch vi mô cũng là tiền đề để thay đổi cách nhìn về quy hoạch cấp xã trong những năm tiếp theo. Khi khảo sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam Reichenberg năm 1992 cho rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam nên được nghiên cứu để phát triển khái niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh sau [36]:
  11. 10 - Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là quy hoạch lâm nông nghiệp dựa trên quy hoạch sử dụng đất trên toàn bộ diện tích hành chính trong xã. - Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan quản lý Nhà nước quản lý. - Quy hoạch sử dụng đất phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để sử dụng đất tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng. - Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định. Trong đầu những năm 90, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời năm 1991[3] Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 [21] và đặc biệt là các Nghị định 02 năm 1994, Nghị định 01 năm 1995, Nghị định 64 năm 1993 là cơ sở tiền đề cho quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Cùng lúc ra đời của Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, nhiều người cho rằng quy hoạch vĩ mô là quy hoạch phản ánh hiện trạng và phân chia 6 loại đất sử dụng và 3 loại rừng. Hai định nghĩa mới được xác nhận cho quy hoạch quốc gia và cấp tỉnh. Các nhà khoa học trong nước và nước ngoài đều cho rằng quan điểm quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa phương nên theo các hướng sau: Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp quy hoạch lâm nông nghiệp dựa vào chức năng sử dụng của đất với đánh giá tiềm năng của đất. - Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của cộng đồng. - Gắn 2 quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là 2 bộ phận có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp ở mỗi địa phương, mỗi cộng đồng.
  12. 11 - Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể trong quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Sự tham gia của người dân trong quá trình quy hoạch là một khái niệm mới. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 cho rằng "Điểm quan trọng là thu hút người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu. Sự tham gia này tất nhiên sẽ khác nhau về phạm vi và mức độ tuỳ theo nội dung hoạt động và giai đoạn tiến hành" [25]. 1.2.3. Một số nghiên cứu và thử nghiệm liên quan đến phương pháp quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã được thực hiện tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu tỉnh Hoà Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp từ năm 1993. Theo Nguyễn Văn Tuấn và Vũ Văn Mễ năm 1996, quy hoạch sử dụng đất được coi là một nội dung chính và được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản, chính quyền xã [54]. Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy cần phải có một kế hoạch sử dụng đất chi tiết hơn hiện nay thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Đề nghị ở đây là điều chỉnh và thời sự hoá kế hoạch là hết sức cần thiết. Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996-2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và HGĐ. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Văn Nam năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành quy hoạch sử dụng đất, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp: xã, thôn và HGĐ. Đến năm 1998 trên toàn vùng dự án có 78
  13. 12 thôn bản được quy hoạch sử dụng đất theo phương pháp cùng tham gia. Phương pháp quy hoạch sử dụng đất dựa trên PRA căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất, với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn [52]. Tuy nhiên, phương pháp trên cũng bộc lộ một số mâu thuẫn giữa nhu cầu của cộng đồng và định hướng của Nhà nước và các kế hoạch của tỉnh, huyện. Vấn đề này cũng xuất hiện và được phê phán trong trường hợp ở Yên Châu tỉnh Sơn La. Vấn đề nghiên cứu ở đây là có một phương pháp quy hoạch địa phương sao cho kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu của cộng đồng . Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh và đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch cấp xã đóng góp vào phát triển phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và các nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có của địa phương; Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo phát triển bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp và hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng. Từ kết quả thử nghiệm ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sông Bé, Vũ Văn Mễ cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nguyện vọng của người dân. . . ., xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên. Cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp. Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi, năm 1996 Cục kiểm lâm cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã” [14, tr.58-79]. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung của tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung
  14. 13 và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai Châu) trên cơ sở hướng dẫn của Cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội đối với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt. Sự khác biệt với các chương trình khác là lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch phù hợp với đặc thù vùng cao. Lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch và lập kế hoạch là phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan năm 1997 [17] ở miền Bắc Việt Nam. 1.2.4. Một số kết luận rút ra từ kinh nghiệm quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã tại Việt Nam - Việc tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn lực một cách chi tiết và đầy đủ. - Quy hoạch sử dụng đất là cơ sở quan trọng cho quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. - Tiến hành phân tích hệ thống canh tác làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng và phương thức sử dụng đất. - Quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân như PRA. - Tổng hợp và cân đối kế hoạch cho phạm vi cấp xã trên cơ sở: định hướng phát triển chiến lược của huyện, tỉnh; khả năng hỗ trợ từ bên ngoài; đối thoại và thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau, giữa đại diện các cộng đồng với cán bộ tỉnh, huyện và dự án; có sự nhất trí chung của toàn xã thông qua các cuộc họp cộng đồng cấp thôn hoặc xóm.
  15. 14 Từ những kinh nghiệm của quy hoạch lâm nông nghiệp trên thế giới cũng như ở Việt Nam, Đề tài có thể vận dụng một số kết quả vào trong nghiên cứu của luận văn như: Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân vào quá trình quy hoạch; Phân tích hệ thống canh tác để lựa chọn cây trồng; Phương pháp đánh giá các phương thức sử dụng đất và qui trình lập kế hoạch sử dụng đất cũng sẽ được sử dụng trong quá trình nghiên cứu của Đề tài.
  16. 15 CHƯƠNG 2 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI DUNG, CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Quan điểm nghiên cứu 2.1.1 Quan điểm duy vật biện chứng Quan điểm này được thể hiện trong nghiên cứu là đề cao tính thống nhất của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội toàn quốc của Đảng và Nhà nước, tính thống nhất của hệ thống kế hoạch từ trung ương tới địa phương, tính đặc thù của mỗi loại kế hoạch ở mỗi cấp và mối quan hệ biện chứng của chúng, đồng thời thừa kế kết quả và kinh nghiệm của từng thời kỳ phù hợp với xu thế chung để vận dụng vào thực tế của nước ta. 2.1.2. Quan điểm sinh thái-kinh tế-nhân văn Khi nghiên cứu, căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và văn hoá của từng vùng để đánh giá và quy hoạch phát triển phù hợp với thực tiễn, mang lại tính khả thi cao, từ đó lựa chọn phương pháp và điểm nghiên cứu phù hợp là cơ sở cho quy hoạch. Các nhân tố: vật lý sinh học, kinh tế xã hội, văn hoá và chính sách được phân tích theo quan điểm hệ thống trong môi trường chung của quốc gia và điều kiện cụ thể của từng tiểu vùng, từng cộng đồng trong vùng Trung tâm. 2.1.3. Quan điểm quy hoạch phát triển tổng hợp và bền vững Quan điểm này thể hiện tính liên ngành trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Trong nghiên cứu phải đề cập tổng hợp và toàn diện. Quy hoạch phải đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững, nghĩa là phải bảo vệ được tài nguyên thiên nhiên, duy trì cân bằng sinh thái và phát triển kinh tế xã hội. 2.1.4. Quan điểm kết hợp giữa định hướng vĩ mô của Nhà nước với nhu cầu của người dân trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng.
  17. 16 Quan điểm này thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ với nhu cầu, nguyện vọng của cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng được phát huy một cách đầy đủ để giải quyết các vấn đề của cộng đồng khi mục tiêu của cộng đồng phù hợp với định hướng và ưu tiên của Chính phủ, mặt khác các định hướng và ưu tiên chỉ trở thành hiện thực khi có sự tham gia của cộng đồng. Do đó, khi nghiên cứu, vừa xem xét nhu cầu và khả năng của cộng đồng trên cơ sở phân tích các điều kiện kinh tế xã hội và văn hoá, đồng thời phải nghiên cứu các chính sách của Chính phủ, những khoảng trống, những điểm không phù hợp để làm cơ sở cho các đề xuất. 2.2. Mục tiêu Đề tài mong muốn đạt được các mục tiêu sau đây: - Xác định được cơ sở về chính sách, cơ sở khoa học và thực tiễn cho QHBVPTR xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn - Đề xuất, kiến nghị liên quan đến công tác QHBVPTR tại địa phương. 2.3. Nội dung nghiên cứu Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau: - Nội dung có tính chất bao trùm và thể hiện trong toàn bộ các phần của Đề tài nghiên cứu là phân tích các cơ chế chính sách hiện hành (Nhà nước, trung ương, địa phương). Như là cơ sở quan trọng cho QHBVPTR của địa phương - Phân tích được các cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho QHBVPTR tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn - Những kiến nghị và đề xuất liên quan đến công tác QHBVPTR tại địa phương. 2.4. Cơ sở lý luận cho nghiên cứu 2.4.1. Vận dụng lý thuyết hệ thống và quan điểm sinh thái-nhân văn Nội dung của lý thuyết hệ thống và quan điểm sinh thái – nhân văn (Được mô tả trong hình 1) là vận dụng lý thuyết hệ thống và quan điểm sinh thái-nhân văn vào phân tích và giải thích các nội dung nghiên cứu
  18. 17 HỆ SINH THÁI NÔNG LÂM Tài nguyên thiên nhiên HỆ XÃ HỘI ĐẦU VÀO Đất Nước Vật chất Hệ tư Công Năng lượng tưởng nghệ Thông tin Chọn lọc CHỨC NĂNG Cây gỗ CHỨC NĂNG Cây CN, Cây NN Tai Thích ứng Vật chất Vật nuôi hoạ Cơ Con Thông tin cấu xã người SẢN hội PHẨM Hình 1: Mô hình quan hệ sinh thái - nhân văn (Mô phỏng theo Lê Trọng Cúc và A. Tery Rambo, 1990) Hệ sinh thái và hệ nhân văn bằng mối quan hệ tương tác giữa các thành phần hay yếu tố trong mỗi hệ thống phụ và giữa hai hệ thống phụ. Sự tồn tại này luôn có quá trình đấu tranh, trao đổi vật chất năng lượng, thông tin và khả năng thích nghi. Các hoạt động quy hoạch hay lập kế hoạch được coi là sự can thiệp của con người vào hai hệ thống phụ và luôn bị chi phối bởi các yếu tố tác động như: yếu tố vật lý sinh học, kinh tế xã hội, văn hoá và cơ chế chính sách. Cơ sở này được vận dụng trong nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. 2.4.2. Tiếp cận có sự tham gia Don Gilmour năm 1990 đã phân ra 3 hình thức tiếp cận trong phát triển lâm nghiệp cộng đồng, đó là tiếp cận kinh điển, tiếp cận kinh điển có điều chỉnh và tiếp cận có người dân tham gia [75]. Ở cách tiếp cận thứ nhất, các nhà lâm nghiệp quản lý toàn bộ quá trình phát triển từ giai đoạn xác định vấn đề, quyết định chiến lược và tổ chức thực hiện.
  19. 18 Người dân và cộng đồng của họ chỉ là những người ngoài cuộc, họ hầu như không tham gia hoặc tham gia vào việc tổ chức thực hiện với tư cách là những người làm thuê theo các công đoạn đã được xác định sẵn. Cách tiếp cận thứ hai nhấn mạnh về kỹ thuật và công nghệ với sự phản hồi kinh tế xã hội. ở hình thức này các nhà lâm nghiệp về cơ bản vẫn quản lý toàn bộ quá trình phát triển, tuy nhiên trong khi xác định chiến lược hay kế hoạch phát triển và tổ chức thực hiện, đã có sự tham khảo ý kiến và huy động người dân cùng tham gia. Tuy nhiên quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các nhà lâm nghiệp. Cách tiếp cận thứ 3 cho thấy vai trò và tầm quan trọng của người dân trong việc cùng tham gia vào tất cả các giai đoạn phát triển từ nhận biết vấn đề, xác định chiến lược và tổ chức thực hiện. Về cơ bản, quyền quyết định thuộc về người dân. Phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng trong nghiên cứu ở đây là tiếp cận tổng hợp có sự tham gia của cộng đồng trong quy hoạch cấp địa phương. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA), đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) hay phân tích các hệ thống canh tác (FSA) sẽ được sử dụng trong nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. 2. 5. Phương pháp nghiên cứu 2.5.1. Chọn điểm nghiên cứu Trước khi điều tra ngoại nghiệp, các tài liệu liên quan đến đặc điểm kinh tế, sinh thái, nhân văn của vùng nghiên cứu được thu thập và phân tích nhằm tìm hiểu chung về khu vực nghiên cứu. Căn cứ các tài liệu, báo cáo về kết quả rà soát 3 loại rừng của Tỉnh. Chúng tôi xây dựng tiêu chí lựa chọn điểm nghiên cứu như sau: - Xã có diện tích rừng và đất rừng chiếm trên 70% diện tích đất xã - Có kết quả báo cáo rà soát 3 loại rừng - Xã đã có bản quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010
  20. 19 - Chọn xã nghiên cứu: Với mục tiêu nghiên cứu những cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Xã nghiên cứu phải có đầy đủ các hoạt động sản xuất lâm nông nghiệp để phục vụ cho việc nghiên cứu. Vì vậy Đề tài chọn xã Nông Hạ là một Xã đáp ứng được các tiêu chí trên. - Chọn thôn nghiên cứu: chọn thôn có cơ cấu đất đai đặc trưng cho toàn Xã gồm: rừng tự nhiên, rừng trồng, đất trống, đồi núi trọc đồng thời thôn phải tham gia trong vùng dự án quy hoạch. Có mật độ dân cư, trình độ dân trí, phát triển kinh tế ở mức trung bình so với các thôn khác trong Xã. Qua phỏng vấn lãnh đạo Xã kết hợp với phân tích những thông tin về điều kiện dân sinh, kinh tế, Đề tài chọn thôn Khe Thuổng là thôn đáp ứng các tiêu chí trên làm đối tượng để nghiên cứu. - Chọn HGĐ: chọn 30 HGĐ phỏng vấn, là những hộ trực tiếp tham gia vào các hoạt động lâm nông nghiệp. Phương pháp lựa chọn theo các nhóm hộ, trong đó 1/3 số hộ khá, 1/3 số hộ trung bình và 1/3 số hộ nghèo để tiến hành phỏng vấn. Danh sách các nhóm hộ do trưởng thôn cung cấp. 2.5.2. Thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn tại địa phương. Các tài liệu có sẵn liên quan đến địa bàn nghiên cứu được thu thập trực tiếp từ xã, huyện và các cơ quan liên quan như chi cục lâm nghiệp, chi cục kiểm lâm, hạt kiểm lâm và các cơ quan hữu quan khác. Các tài liệu đã có ở địa phương được thu thập gồm: - Thu thập các văn bản Nhà nước của trung ương và địa phương có liên quan đến QHSD đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. - Các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa phương gồm: đặc điểm địa hình, đất đai, khí hậu thủy văn, dân cư, lao động, tình hình sản xuất lâm nông nghiệp của xã, tình hình thực hiện các chính sách của Nhà nước và của địa phương. Các số liệu được chọn lọc và tổng hợp trong báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, báo cáo về tình hình sản xuất lâm nghiệp hàng năm của UBND xã Nông Hạ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2