intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái loài Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil Raffles, 1821) ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai phục vụ công tác quản lý bảo tồn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

20
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm mô tả một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Cheo cheo nhỏ ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai. Đánh giá tình trạng quần thể Cheo cheo nhỏ ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai. Xác định các đe dọa trực tiếp đến quần thể Cheo cheo nhỏ ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai và đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái loài Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil Raffles, 1821) ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai phục vụ công tác quản lý bảo tồn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ĐINH THỊ ĐÀO NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI LOÀI CHEO CHEO NHỎ (Tragulus kanchil Raffles, 1821) Ở KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN – VĂN HÓA ĐỒNG NAI PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ BẢO TỒN Chuyên ngành:Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN XUÂN ĐẶNG Hà Nội, 2011
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Các nguồn tài nguyên đa dạng sinh học có ý nghĩa sống còn đối với quá trình phát triển kinh tế và xã hội của nhân loại, chúng cần được bảo vệ để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày nay, cũng như cho các thế hệ mai sau. Một phương thức được xem là hợp lý và hiệu quả nhất để thực hiện công tác này là xây dựng các khu rừng bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) và quản lý hợp lý chúng (Jonhsingh, 1994). Các KBTTN đảm bảo cho việc duy trì các hệ sinh thái, các loài, tính đa dạng về gen và các quá trình sinh thái di truyền. Ngoài ra, chúng còn giúp duy trì tính đa dạng về văn hóa. Các KBTTN cũng đảm bảo cho sự cân bằng hệ sinh thái, duy trì các quy luật nhân tạo và tự nhiên, giúp cho việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, giảm được các thảm họa môi trường và khôi phục các cảnh quan tự nhiên. Khu Bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai (KBTTN-VH Đồng Nai) nằm trong hệ thống các khu rừng đặc dụng và các khu di sản văn hóa của Việt Nam. Khu bảo tồn (KBT) được thành lập năm 2004 với tổng diện tích tự nhiên là 100303 ha, gồm 67903 ha đất lâm nghiệp và hơn 32400 ha mặt nước hồ Trị An. KBT trực thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Đồng Nai [11]. Mục tiêu của KBTTN-VH Đồng Nai là khôi phục lại sự đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tự nhiên bản địa thuộc lưu vực sông Đồng Nai; tạo ra phạm vi bảo tồn thiên nhiên rộng và liền mạch, bảo tồn nơi cư trú và di trú cho các loài động vật hoang dã, mở rộng vùng địa lý sinh thái đặc thù của miền Đông Nam bộ; phục vụ công tác bảo tồn thiên nhiên gắn với việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa lịch sử của các di tích, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng và phát triển du lịch sinh thái; mở ra nhiều cơ hội hợp tác, đầu tư với các tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) [10]. Kết quả điều tra khảo sát trong những năm gần đây (Nguyễn Xuân Đặng, 2001 [16]; KBTTNVH Vĩnh Cửu, 2001 [11]; Đặng Huy Phương và cs, 2010 [8];
  3. 2 Nguyễn Hoàng Hảo và cs, 2011 [15];...) đã ghi nhận ở KBT có trên 78 loài thú, trong đó có nhiều loài quý, hiếm, nguy cấp có ý nghĩa bảo tồn trong nước và trên toàn cầu như: Voi châu á (Elephas maximus), Bò tót (Bos gaurus), Sơn dương (Capricornis milneedwardsii), Hươu vàng (Axis porcinus), Nai (Rusa unicolor), Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil),... Loài Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil Raffles, 1821) đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam (bậc VU - sẽ nguy cấp trong Sách Đỏ Việt Nam, 2007) [1] và được bảo vệ bởi Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính Phủ (thuộc nhóm IIB, hạn chế khai thác sử dụng vì mục đích thương mại) [14], đồng thời đây là loài thú có giá trị kinh tế cao (cho thực phẩm, làm sinh vật cảnh) nên thường xuyên là đối tượng săn bắt, buôn bán trên hầu khắp vùng phân bố của loài. Hiện nay, việc bảo tồn loài Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai nói riêng và ở Việt Nam nói chung đều chưa đạt hiệu quả như mong muốn (Nguyễn Hoàng Hảo và cs, 2011) [15]. Một trong những nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là do những hiểu biết còn hạn chế về đặc điểm quần thể Cheo cheo trong các khu bảo tồn cũng như các đặc điểm sinh học sinh thái của loài. Vì vậy, chúng tôi chọn thực hiện đề tài "Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái loài Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil Raffles, 1821) ở Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai phục vụ công tác quản lý bảo tồn" nhằm cung cấp các tư liệu về hiện trạng quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai và một số đặc điểm sinh học, sinh thái của loài làm cơ sở khoa học cho công tác quản lý, bảo tồn loài thú quý, hiếm này.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Khái quát về họ Cheo cheo Tragulidae Họ Cheo cheo (Tragulidae) thuộc bộ Thú Móng guốc ngón chẵn (Artiodactyla), lớp Thú (Mammalia). Thú họ Cheo cheo có thân nhỏ, chân mảnh mai; phần thân sau cao hơn phần thân trước; tuyến dưới cằm lớn; thường có các đốm trắng ở cổ và ngực. Con cái có 4 vú ở bẹn. Cheo cheo không có sừng, con đực có răng nanh hàm trên rất dài thò ra ngoài thành nanh. Công thức răng: i0/3.c1/1.pm 3/3.m3/3 x 2= 34. Răng nanh hàm dưới giống răng cửa, do đó hàm dưới có 8 răng cửa. Răng trước hàm có cạnh sắc, răng hàm có mấu bán nguyệt đặc trưng của thú nhai lại, dạ dày có 3 khoang (thiếu khoang lá sách). Cheo cheo hoạt động chủ yếu về đêm và ăn quả cây rụng. Cheo cheo sống ở vùng rừng nhiệt đới Châu Á và Châu Phi. Họ Cheo cheo có 3 giống, 8 loài (Meijaard et al. 2004, Wilson et al. 2005) [31] . Giống Hyemoschus có một loài (H. aquaticus) phân bố ở châu Phi; giống Moschiola có một loài (M. meminna) phân bố ở Xrilanca và Ấn Độ; giống Tragulus có 6 loài phân bố ở Đông Nam Á: 1. Tragulus javanicus (Osbeck, 1765) - phân bố ở Inđônêxia 2. Tragulus kanchil (Raffles, 1821) – phân bố ở Myanma, Brunây, Vân Nam (Trung Quốc), Lào, Cămpuchia, Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Thái Lan và Việt Nam. 3. Tragulus napu (F.Cuvier, 1822) – phân bố Myanma, Brunây, Vân Nam (Trung Quốc), Lào, Cămpuchia, Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Thái Lan và Việt Nam. 4. Tragulus nigricans (Thomas, 1892) – phân bố ở Philippin 5. Tragulus versicolor (Thomas, 1910) – phân bố ở Việt Nam 6. Tragulus williamsoni (Kloss, 1961) – phân bố Thái Lan
  5. 4 Như vậy, ở Việt Nam chỉ có một giống Tragulus với 3 loài: Cheo cheo nhỏ hay Cheo cheo nam dương (Tragulus kanchil), Cheo cheo lớn hay Cheo cheo napu (Tragulus napu) và Cheo cheo Việt Nam hay Cheo cheo lưng bạc (Tragulus versicolor) (Hình 1.1). Hình 1.1. Ba loài Cheo cheo phân bố ở Việt Nam (theo Francis 2008) [21] (1 - Cheo cheo nhỏ Tragulus kanchil, 2- Cheo cheo Việt Nam Tragulus versicolor, 3 - Cheo cheo lớn Tragulus napu) • Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil) Trước đây, loài này được xem là phân loài của Cheo cheo nam dương (Tragulus javanicus) nhưng gần đây Meijaard et al. (2004) [31] đã nâng lên thành loài độc lập. Đây là loài thú móng guốc nhỏ, dài thân-đầu (HB): 33-52 cm, dài đuôi (T): 4-10 cm, dài tai (E): 2.8 – 5.1 cm, dài bàn chân sau (HF): 8- 13.5 cm, khối lượng thân (W): 1.5-2.5 kg (Đặng Huy Huỳnh và cs, 2010) [6]. Bộ lông ngắn, mịn; mặt lưng màu xám hoặc xám đen; bụng trắng. Dưới cằm có 2 vết trắng chung gốc tạo thành hình chữ V và một vệt dọc giữa tự do. Tuyến dưới cằm phát triển (2 x 1cm). Đuôi ngắn, mặt trên xám giống màu lưng, mặt dưới trắng. Chân mảnh, 2 chân trước thấp hơn 2 chân sau, bàn chân
  6. 5 4 ngón. Cheo cheo đực, cái đều không có sừng, hàm trên không có răng cửa. Con đực có 2 răng nanh dài thò ra ngoài thành nanh. Dạ dày Cheo cheo có 3 ngăn. Cheo cheo sống ở rừng thường xanh núi đất nguyên sinh hoặc thứ sinh nhiều tầng với tầng mặt đất rậm. Cheo cheo nhỏ hoạt động chủ yếu về đêm (19-23h), sống đơn, chỉ ghép đôi vào mùa động dục. Thức ăn chủ yếu là quả cây, ngoài ra, có cỏ, lá cây. Thời gian mang thai khoảng 120 ngày, mỗi năm đẻ một lứa, mỗi lứa 1 con. Cheo cheo nhỏ phân bố rộng ở các vùng rừng núi từ Lạng Sơn đến Đồng Nai, Tây Ninh. Ở các tỉnh phía Bắc, loài này hầu như đã bị tuyệt chủng; ở các tỉnh phía Nam, vùng sống và trữ lượng giảm mạnh; mức đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam: VU (Sách Đỏ Việt Nam, 2007, dưới tên Tragulus javanicus), trên thế giới: LC – ít lo ngại (Danh lục Đỏ IUCN, 2011). • Cheo cheo Việt Nam (Tragulus versicolor) Loài này được Thomas (1910) mô tả dựa trên các mẫu vật thu được ở gần Nha Trang (Khánh Hòa), tuy nhiên, nhiều tác giả vẫn xem đây là loài đồng danh với Cheo cheo lớn (Tragulus napu). Năm 2004, Meijaard và Groves đã kiểm tra lại đặc điểm hình thái của các mẫu vật do Thomas nghiên cứu và khẳng định Cheo cheo Việt Nam (Tragulus versicolor) là một loài độc lập. Quan điểm này cũng được Kuznetsov and Borissenko (2004) [26] ủng hộ trong công bố về việc thu được mẫu vật của loài này ở Gia Lai. Cheo cheo Việt Nam có cơ thể chỉ hơi lớn hơn loài Cheo cheo nhỏ: HB: 40-45 cm, T: 5 cm, HF: 11 cm, W: 1.7 kg (Francis, 2008 [21], Kuznetsov, 2004 [26]). Đầu, bên cổ và vai Cheo cheo Việt Nam màu nâu thẩm, lốm đốm đen (tập trung hơn ở phần trên của cổ); mặt trên cổ có một dải màu tối hơn; phần còn lại của lưng, sườn và 1/4 sau thân màu xám phớt trắng bạc; phần dưới thân màu trắng; phía ngực và họng có các sọc trắng và nâu đỏ; thường thì mỗi bên cổ có một dải trắng. Điểm khác biệt chính với loài Cheo cheo nhỏ
  7. 6 là có màu vàng nâu tươi ở bên cổ và vai khác biệt với màu trắng bạc của phần mông và lưng (đồng màu nâu đỏ lốm đốm đen ở Cheo cheo nhỏ). Cheo cheo Việt Nam sống ở rừng nguyên sinh đất thấp. Cheo cheo Việt Nam chỉ có ở Việt Nam, và mới ghi nhận ở Khánh Hoà và Gia Lai với mật độ rất thấp. Tình trạng của loài này trong thiên nhiên cần được tiếp tục khảo sát đánh giá (Kuznetsov et al. 2004) [26]. Trong Sách Đỏ Việt Nam (2007), loài này được xem là đồng danh với loài Cheo cheo lớn, Tragulus napu và xếp bậc DD (thiếu số liệu), trong Danh lục Đỏ của IUCN (2011) loài này được xem là loài độc lập và xếp bậc DD do thiếu số liệu về tình trạng quần thể. • Cheo cheo lớn (Tragulus napu) Cơ thể Cheo cheo lớn lớn hơn 2 loài Cheo cheo nêu trên, HB: 52-57 cm, T: 6-10 cm, HF: 14-15.7 cm, W 3.5-4.5kg (Francis, 2008) [21]. Phần trên thân có lông thô cứng, lốm đốm nâu vàng, nâu xám và đen nhạt với các sợi lông có màu nâu xám tới nâu vàng, chóp lông đen nhạt. Bộ lông màu sẫm hơn ở phần gần sống lưng, phần bên thân nhạt hơn, gáy thường tối màu hơn. Dưới thân màu trắng, thường không có các sọc nâu ở bụng. Mặt dưới của cổ và phần ngực trên có các vệt màu nâu và trắng, gồm một sóc trắng đặc trưng hình tam giác ở trung tâm, được bao quanh bởi các sọc nâu tối, sau đó chia thành 2 sọc trắng tỏa ra 2 bên: một sọc xuất phát gần trước cằm và một sọc ở giữa họng. Nhìn từ mặt bên, thường thấy rõ 2 sọc trắng tách biệt nhau ở mỗi bên cổ (loài Cheo cheo nhỏ chỉ có một sọc trắng ở mỗi bên cổ). Cheo cheo đực, cái đều không có sừng, không có tuyến trước ổ mắt, răng nanh mọc dài thò ra ngoài, thiếu răng cửa trên. Cheo cheo lớn sống ở rừng cây cao, hoạt động chủ yếu về đêm, đôi khi cả ban ngày, hoạt động đơn, chỉ ghép đôi vào mùa sinh sản. Thức ăn chủ yếu là quả cây rừng, cành và lá cây. Thời gian mang thai 152-172 ngày, đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa 1 con.
  8. 7 Phân bố ở Việt Nam của Cheo cheo lớn chưa được rõ, mới chỉ thu được mẫu ở Nha Trang (Khánh Hòa), có thể có ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngài và Phú Yên nhưng chưa được khẳng định (Sách Đỏ Việt Nam, 2007). Cheo cheo lớn được xếp bậc DD - thiếu số liệu Trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) và LC – ít lo ngại trong Danh lục Đỏ IUCN (2011). 1.2. Lịch sử nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn ở Việt Nam Trong bối cảnh chung của lịch sử nghiên cứu động vật học ở Việt Nam, nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn (Artiodactyla) nói chung và họ Cheo cheo (Tragulidae) nói riêng có thể chia thành 3 giai đoạn như sau: giai đoạn trước năm 1954; giai đoạn từ năm 1954 đến 1975; giai đoạn từ 1975 tới nay.  Giai đoạn trước năm 1954 Các nghiên cứu về thú móng guốc ở Việt Nam được bắt đầu sau khi người Pháp đến Đông Dương (cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20). Trong thời gian này, các nghiên cứu được các nhà nghiên cứu và thám hiểm nước ngoài thực hiện như Pháp, Anh và Mỹ. Các nghiên cứu được thực hiện chung cho nhiều nhóm động vật, chủ yếu về phân loại học và thu mẫu cho các bảo tàng như: Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pari, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field, Chicago. Các kết quả điều tra và thu mẫu đã được công bố trong các công trình của các tác giả như Milne-Edwards (1867-1874); Morice (1875); Billet (1896- 1898); Butan (1900-1906); De Pousargues (1904); Bonhote (1907); Kloss (1916); Robinson & Kloss (1922); Thomas (1927-1928); Bourret (1927- 1942); Osgood (1932) và Delacour (1940). Tuy nhiên, rất ít các thông tin về Cheo cheo được nêu trong các báo cáo, kết quả nghiên cứu ở giai đoạn này. Các nhà động vật học nước ngoài tham gia những đoàn khảo sát tài nguyên thiên nhiên ở Đông Dương đã thu được nhiều vật mẫu thú rừng ở Việt Nam. Trong thời kỳ này, nhiều loài thú có ở Việt Nam đã được ghi nhận trong
  9. 8 các công trình của: De Pousargues (1904); E. Boutan (1906); W. H. Osgood (1932); đã thống kê được 172 loài và phân loài thú ở Việt Nam, J. Delacour (1940); R.Bourret (1942, 1944); v.v... Các công trình nói trên đã ghi nhận nhiều loài thú móng guốc ở Việt Nam trong đó có loài Cheo cheo nhỏ. Giai đoạn này, nghiên cứu móng guốc nói riêng và thú rừng nói chung mới chỉ ghi nhận được sự có mặt của chúng ở một số địa điểm, mà chưa xác định được vùng phân bố của loài.  Giai đoạn năm 1954 – 1975 Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, công tác điều tra tài nguyên, trong đó có nguồn tài nguyên sinh vật cần phải tiến hành để nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế đất nước và hoàn toàn do các cán bộ Việt Nam đảm nhận. Nhiều công trình nghiên cứu khu hệ thú và sinh học sinh thái cá thể và quần thể thú đã được công bố. Một số công trình tiểu biểu của Đào Văn Tiến (1960 - 1973); Võ Quý, Mai Đình Yên, Lê Hiền Hào, Nguyễn Thạnh (1961); Lê Hiền Hào (1962, 1964, 1969, 1973); Van Peneen và cộng sự (1969), Lê Hiền Hào và Trần Hải (1970, 1971); Đặng Huy Huỳnh, Vũ Đình Tuân (1964); Đặng Huy Huỳnh, Đỗ Ngọc Quang và Sablina (1964), Đặng Huy Huỳnh, Cao Văn Sung (1965, 1973); Cao Văn Sung, Đào Văn Tiến (1966), Lê Vũ Khôi (1970), Lê Vũ Khôi, Nguyễn Trác Tiến (1975);…Các công trình nghiên cứu có liên quan đến thú móng guốc không nhiều. Công trình của Van Peneen và cộng sự (1969) [34] về thú ở miền Nam Việt Nam đã thống kê được 164 loài, trong đó có 13 loài thú móng guốc; Lê Hiền Hào (1973) trong công trình “Thú kinh tế miền Bắc Việt Nam, tập I” có đề cập đến một số loài thú móng guốc [12].  Giai đoạn năm 1975 đến nay Sau khi miền Nam giải phóng (1975), đất nước được thống nhất thì công tác nghiên cứu đa dạng sinh học thú đã có những bước phát triển lớn.
  10. 9 Địa bàn nghiên cứu được mở rộng ra toàn quốc và các nghiên cứu hướng đến mục tiêu ứng dụng để phục vụ công tác qui hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo tồn đa dạng sinh học...Năm 1985, với chính sách đổi mới và mở cửa, sự hợp tác mở rộng sang các nước không phải xã hội chủ nghĩa; một số tổ chức khoa học chính phủ và phi chính phủ đã mở văn phòng đại diện và đã có những đóng góp tích cực vào công tác điều tra động vật hoang dã ở nước ta như WWF, IUCN, FFI, Birdlife International, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga,… Kết quả nghiên cứu về thú trong giai đoạn này rất to lớn với hàng ngàn công trình được công bố trong nước và trên thế giới. Nhiều loài thú mới được phát hiện cho Việt Nam và khoa học như: Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Bò sừng xoắn (Pseunovibos spiralis), Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis), Mang pù hoạt (Muntiacus puhoatensis), Vượn trung bộ (Nomascus annamensis),... Các công trình chính trong thời gian này như: Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (1981) trong công trình “Kết quả điều tra nguồn lợi thú miền Bắc Việt Nam” đã xác định ở miền Bắc Việt Nam có 8 loài, 4 họ, 1 bộ thú móng guốc ngón chẵn [4] , Đào Văn Tiến (1985) trong công trình “Khảo sát thú ở miền Bắc Việt Nam” đã thống kê được 7 loài thú móng guốc ngón chẵn [2]. Năm 1994, trong tập “Danh lục Thú (Mammalia) Việt Nam” của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự đã thống kê 15 loài thú móng guốc ngón chẵn. Năm 2008, công trình "Danh lục các loài thú hoang dã Việt Nam" của Đặng Ngọc Cần và cs. đã thống kê ở Việt Nam có 20 loài thú móng guốc chẵn [3]. Trong đó họ Cheo cheo có 2 loài (thiếu loài Cheo cheo napu). Các nghiên cứu về sinh học, sinh thái của các loài thú móng guốc ngón chẵn không nhiều, đáng chú ý có công trình “Sinh học và sinh thái các loài thú móng guốc ở Việt Nam” của Đặng Huy Huỳnh (1986) [5] là một công
  11. 10 trình nghiên cứu có hệ thống các loài thú móng guốc của Việt Nam. Ngoài ra còn có một số công trình khác đề cập đến sinh học, sinh thái của loài này như: - "Khảo sát thành phầ n loài và đặc điể m sinh ho ̣c, sinh thái ho ̣c của Nai, Cheo cheo, Hoañ g ở Kon Hà Nừng". Luận án PTS của Hoàng Minh Khiên (1982) [9] - "Các loài thú Việt Nam" của Kuznetsov (2006) (Tiếng Nga) - "Động vật chí Việt Nam, tập 25: Lớp Thú – Mammalia" của Đặng Huy Huỳnh và cs. (2008) [7] - "Thú rừng – Mammalia Việt Nam: Hình thái và sinh học sinh thái một số loài, Tập 2" của Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) [6] Tóm lại, Lịch sử nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn nói chung và họ Cheo cheo nói riêng ở Việt Nam đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào xác định thành phần loài và tình trạng của các quần thể phục vụ bảo tồn. Các nghiên cứu về sinh học, sinh thái rất hạn chế. • Tình hình nghiên cứu thú móng guốc ngón chẵn và Cheo cheo ở KBTTN-VH Đồng Nai Khu hệ thú móng guốc ngón chẵn nói chung và quần thể Cheo cheo nhỏ nói riêng ở KBTTN-VH Đông Nai còn rất ít được nghiên cứu. Chỉ có một số cuộc khảo sát đánh giá đa dạng sinh học của khu vực trong đó ghi nhận về sự phân bố của các loài thú móng guốc ngón chẵn. Các nghiên cứu trước đây của Đặng Huy Huỳnh (1986) [5]; Trần Văn Đức và cs. (1991) [20]; Nguyễn Xuân Đặng (2001) [16] đã ghi nhận trên địa phận KBT có 7 loài thú móng guốc, gồm Lợn rừng (Sus scrofa), Nai (Rusa unicolor), Hoẵng (Muntiacus muntjak), Cheo cheo (Tragulus kanchil), Bò tót (Bos frontalis), Bò rừng (Bos javanicus) và một loài ghi nhận tạm thời là Hươu vàng (Axis porcinus). Năm 2009, "Dự án điều tra xây dựng danh lục và tiêu bản động, thực vật rừng Khu Bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu" (nay là KBTTN-VH Đồng Nai) [10]
  12. 11 cũng ghi nhận 8 loài thú móng guốc ngón chẵn, gồm 7 loài nói trên và thêm loài Sơn dương (Capricornis milneedwardsii). Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Hảo và cs. (2011) [15] cung cấp thông tin sơ bộ về tình trạng quần thể của 5 loài thú móng guốc ngón chẵn được ghi nhận ở Khu bảo tồn, gồm: Lợn rừng, Nai, Hoẵng, Cheo cheo và Bò tót. Như vậy, ở KBTTN-VH Đồng Nai, chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về tình trạng quần thể và sinh học, sinh thái của các loài thú móng guốc ngón chẵn nói chung và Cheo cheo nhỏ nói riêng.
  13. 12 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu của đề tài Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được đặt ra là: - Mô tả một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Cheo cheo nhỏ ở KBTTN -VH Đồng Nai - Đánh giá tình trạng quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai - Xác định các đe dọa trực tiếp đến quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai và đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn 2.2. Đối tượng nghiên cứu Đố i tượng nghiên cứu là quần thể Cheo cheo nhỏ (Tragulus kanchil) trong điều kiện tự nhiên và điều kiện nuôi ở KBTTN-VH Đồ ng Nai. 2.3. Nội dung nghiên cứu 2.3.1. Một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Cheo cheo nhỏ trong điều kiện KBTTN-VH Đồng Nai • Đặc điểm hình thái cơ thể - Hình thái ngoài, màu lông, các số đo cơ thể,... • Đặc điểm dinh dưỡng - Thành phần thức ăn - Lượng thức ăn tiêu thụ trong ngày-đêm • Đặc điểm sinh sản - Tuổi thành thục sinh sản - Mùa sinh sản (tháng nào trong năm) - Động dục, biểu hiện động dục, giao phối - Thời gian mang thai
  14. 13 - Số lứa đẻ trong năm, số con trong mỗi lứa đẻ • Đặc điểm sinh trưởng - Tuổi bú sữa, tuổi bắt đầu tự ăn ngoài và tuổi bắt đầu sống độc lập - Khối lượng và dài thân theo lứa tuổi • Tập tính hoạt động - Các dạng tập tính hoạt động chính (kiếm ăn, vận động, nghỉ, ngủ,...) - Chu kỳ hoạt động ngày-đêm 2.3.2. Một số đặc điểm sinh thái của quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai - Vùng phân bố của Cheo cheo - Đặc điểm sinh cảnh của Cheo cheo 2.3.3. Các đe dọa đối với quần thể Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai - Săn bắn, bẫy bắt (mục đích, mức độ) - Phá hoại sinh cảnh (kể cả các điểm khoáng) - Quấy nhiễu sinh cảnh 2.3.4. Đề xuất một số giải pháp quản lý bảo tồn Cheo cheo nhỏ 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Tham khảo chọn lọc và phân tích các tài liệu liên quan Các tài liệu trong và ngoài nước (báo cáo điều tra, luận án, tài liệu khoa học đã công bộ) liên quan đến nội dung nghiên cứu được thu thập để tham khảo. Tất cả các thông tin và kết quả nghiên cứu về thú, đặc biệt là về Cheo cheo nhỏ ở KBTTN-VH Đồng Nai sẽ được thu thập, phân tích và đánh giá để sử dụng trong luận văn. Danh sách các tài liệu đã thu thập và tham khảo nêu trong phần Tài liệu tham khảo của Luận văn. 2.4.2. Theo dõi đàn Cheo cheo nhỏ tại khu nuôi của KBTTN-VH Đồng Nai • Điều kiện nuôi và đàn Cheo cheo nhỏ nuôi tại KBTTN Đồng Nai:
  15. 14 Cheo cheo nhỏ được nhân nuôi tại Trung tâm cứu hộ Động vật hoang dã thuộc KBTTN-VH Đồng Nai từ năm 2009 với số lượng cá thể Cheo cheo được nuôi dao động từ 32 đến 44 cá thể. Cheo cheo nhỏ được nuôi bán hoang dã trong diện tích hơn 500m2. Chuồng nuôi Cheo cheo được xây dựng dưới tán rừng tự nhiên phục hồi có nhiều cây nhỏ, râm mát. Xung quanh chuồng được bao bọc bởi lưới B40 và khung sắt chắc chắn. Ngoài lợi dụng cây cối tự nhiên làm nơi sống cho loài, trong chuồng nuôi có đặt thêm 10 hốc cây rỗng và những nhà nhỏ để làm chỗ trú ngụ cho Cheo cheo. Đồng thời, để cung cấp nguồn nước uống cho Cheo cheo, trong chuồng nuôi cũng được đặt thêm các máng nước Trong Trung tâm cứu hộ có 3 nhân viên thường xuyên để chăm sóc các loài. Cheo cheo được cho ăn hàng ngày, mỗi ngày một lần vào khoảng 15 giờ. Cheo cheo là loài ăn thực vật nên ngoài thức ăn chính hàng ngày là rau, quả… thì trong chuồng nuôi Cheo cheo luôn có đặt thêm 6 cục muối khoáng, mỗi cục nặng 5kg để cung cấp thêm muối khoáng cho chúng, giúp chúng phát triển tốt. Nơi cho ăn được dọn vệ sinh hàng ngày, những thức ăn thừa của ngày hôm trước được dọn sạch trước khi cho ăn tiếp. Các máng nước được thay hàng tuần. Nước uống của Cheo cheo được pha thêm muối hột để cung cấp thêm muối khoáng và giúp giảm vi khuẩn bất lợi trong nước. Các cục khoáng sẽ được bổ sung khi hết. Chuồng Cheo cheo được thu dọn định kỳ 1 lần/tháng để dọn bớt lượng lá, cành khô và lượng phân Cheo cheo thải ra. Sau hơn 2 năm nuôi bán hoang dã thì chưa phát hiện các bệnh của Cheo cheo. Cheo cheo bị chết chủ yếu là do đánh nhau,. Việc theo dõi sức khỏe của Cheo cheo được tiến hành thường xuyên do một bác sỹ thú y đảm nhiệm. • Nghiên cứu đặc điểm hình thái
  16. 15 Quan sát trực tiếp và đo đếm kích thước cá thể mẫu. Số cá thể mẫu nghiên cứu là 3 cá thể cho mỗi lứa tuổi và giới tính: 3 cá thể cái trưởng thành, 3 cá thể đực trưởng thành, 3 cá thể gần trưởng thành, 3 cá thể 2-3 tháng tuổi và 3 cá thể mới sinh. Số lượng cá thể mẫu để đo đếm ít vì Cheo cheo là loài rất nhút nhát và dễ bị tác động bất lợi nếu làm chúng hoảng sợ nên không nghiên cứu được nhiều cá thể. Sử dụng cân để xác định trọng lượng mỗi cá thể, sử dụng thước dây và compa để đo kích thước các số đo cơ thể. • Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng Xác định thành phần thức ăn của Cheo cheo trong điều kiện nuôi bằng cách tiến hành cho ăn thử nhiều loài thức ăn và ghi nhận mức độ ưa thích của từng loại và ghi vào phiếu theo dõi. Để xác định lượng thức ăn tiêu thụ trong một ngày, tiến hành cân lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa trong một ngày. Từ đó, xác định được lượng thức ăn thiêu thụ của 1 cá thể Cheo cheo bằng hiệu số lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa chia cho tổng số cá thể. Hoặc xác định được lượng thức ăn tiêu thụ của 1kg trọng lượng cơ thể Cheo cheo bằng hiệu số lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa chia cho tổng trọng lượng các cá thể Cheo cheo. • Nghiên cứu tập tính hoạt động của Cheo cheo Tiến hành quan sát các cá thể nuôi trong nhiều ngày liên tục theo từng mùa. Từ kết quả ghi nhận sẽ tổng hợp các tập tính hoạt động chủ yếu của Cheo cheo và tính trung bình từng tập tính của loài theo từng mùa. 2.4.3. Khảo sát thực địa tại KBTTN-VH Đồng Nai Nghiên cứu khảo sát thực địa được phối hợp với Dự án của KBTTN-VH Đồng Nai do Quỹ Bảo tồn Rừng đặc dụng Việt Nam (VCF) tài trợ "Giám sát, đánh giá và bảo tồn một số loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, loài chỉ thị sinh cảnh và môi trường có sự tham gia của người dân địa phương tại KBTTN-VH Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai, KBTTN-VH Đồng Nai".
  17. 16 Khảo sát được tiến hành từ tháng 4/2010 đến tháng 4/2011. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau: • Khảo sát theo tuyến để xác định vùng phân bố và các đe dọa với loài Sử dụng các tuyến đường có sẵn hoặc cắt rừng để làm tuyến điều tra. Mỗi tuyến có chiều dài từ 3-10km. Khi đi điều tra chú ý quan sát về 2 phía của tuyến điều tra để phát hiện Cheo cheo và các dấu vết của chúng (dấu chân, phân) và ghi vào phiếu điều tra chuẩn bị sẵn. Trong quá trình điều tra cũng ghi nhận các tác động của con người như: săn bắt, chăn thả gia súc, phá rừng,... Tất cả có 9 tuyến khảo sát được thực hiện với tổng chiều dài các tuyến khoảng 41.7 km.
  18. 17 Hình 2.1. Phân bố tuyến điều tra Cheo cheo nhỏ
  19. 18 • Khảo sát theo ô xác định độ phong phú của Cheo cheo Để xác định độ phong phú của Cheo cheo gián tiếp qua chỉ số phong phú của các dấu chân và bãi phân của chúng trên hiện trường, tại các khu vực đã từng phát hiện được Cheo cheo cư trú điều tra một số ô mẫu , kích thước mỗi ô lớn là 50m x 50m. Mô tả tóm tắt đặc điểm của mỗi ô: vị trí, tọa độ, nền đất, đặc điểm thảm thực vật như loài ưu thế, độ đa dạng loài, độ rậm rạp, độ che phủ tán rừng,..... Trong mỗi ô lớn, tiến hành lập 25 ô nhỏ, mỗi ô 100m2 để tiến hành điều tra Cheo cheo. Tiến hành khảo sát tìm kiếm các dấu vết của Cheo cheo nhỏ (phân, dấu chân) có trong các ô nhỏ đã lập. Khi phát hiện dấu chân, xác định dấu mới hay cũ theo các cấp: dưới 30 ngày (M), trên 30 ngày (C); đo kích thước dài và rộng của dấu chân để phân biệt cá thể trưởng thành và cá thể non. Khi phát hiện phân Cheo cheo cũng xác định phân mới hay cũ theo các cấp: dưới 30 ngày là mới (M), trên 30 ngày là cũ (C). Tổng số có 12 ô điều tra giám sát Cheo cheo được thiết lập: khu vực Mã Đà có 4 ô, khu vực Hiếu Liêm 4 ô và khu vực Vĩnh An 4 ô. Thông tin chi tiết về các ô được nêu trong phụ lục 05, ví trí các ô được thể hiện trên Hình 2.2. Xác định mật độ dấu chân Cheo cheo (Dc): bằng tổng số các dấu chân Cheo cheo phát hiện trên tất cả các ô (C) chia cho tổng diện tích các ô mẫu đã khảo sát (So): Dc = C /So (dấu chân/ha) Xác định mật độ các bãi phân của Cheo cheo (Dp) bằng tổng số các bãi phân Cheo cheo phát hiện trên tất cả các ô (P) chia cho tổng diện tích các ô mẫu đã khảo sát (So): Dp = P / So (bãi phân /ha)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2