intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật nhân nuôi dúi mốc Lớn (Rhizomys pruinosus Blyth, 1851)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

82
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu chung của đề tài là tạo lập cơ sở khoa học góp phần phát triển nghề chăn nuôi động vật hoang dã của Việt Nam, phát triển kinh tế xã hội và bảo tồn đa dạng sinh học. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật nhân nuôi dúi mốc Lớn (Rhizomys pruinosus Blyth, 1851)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN THANH TÂN Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật nhân nuôi dúi mốc Lớn (Rhizomys pruinosus Blyth, 1851) CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2008
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus) thuộc họ Dúi Rhizomyidae, bộ Gặm nhấm (Rodentia), là loài gặm nhấm có phân bố rộng ở nhiều tỉnh rừng núi của cả nước. Dúi mốc sống trong hang ở các khu rừng hoặc trảng cây bụi, thức ăn chủ yếu là thực vật như rễ cây tre nứa, măng vầu, bương, cây thân thảo, củ sắn, khoai… nên dễ thích nghi với sinh cảnh bị con người tác động. Dúi mốc lớn có giá trị kinh tế cao, cho thịt thơm ngon, được người dân vùng rừng núi khai thác sử dụng từ lâu đời. Ngày nay, thịt dúi vẫn là món ăn đặc sản cho nhiều người ưa chuộng và có giá trị cao hơn nhiều so với thịt lợn và gia cầm. Ngoài ra, mỡ dúi còn được dùng để trị bỏng và chứng vô sinh, thũng độc (Võ văn Chi, 1998). Cho đến nay, dúi mốc chỉ được khai thác trong tự nhiên và do khai thác quá mức trong nhiều năm liền nên nguồn tài nguyên này đã và đang bị cạn kiệt không còn đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng cao. Vì vậy, việc nhân nuôi loài dúi mốc nhằm chủ động cung cấp nguồn thực phẩm và dược phẩm quí cho xã hội, đồng thời góp phần bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn lợi dúi mốc trong tự nhiên là rất cần thiết. Hiện nay, ở nước ta chưa có cơ sở nào chăn nuôi dúi mốc với qui mô lớn, ngoài một số hộ thu gom từ rừng về nuôi tạm thời chờ tiêu thụ. Một số hộ khác đã thử nghiệm nuôi dúi nhưng đều không thành công. Nguyên nhân là do thiếu hiểu biết về các đặc điểm sinh học, sinh thái của loài dúi mốc nên việc nhân nuôi thiếu cơ sở khoa học, dễ thất bại. Vì vậy, chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật nhân nuôi dúi mốc lớn (Rhyzomys pruinosus Blyth, 1851)” nhằm tìm hiểu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của loài làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng qui trình nhân nuôi loài thú kinh tế này, góp phần phát triển nghề chăn nuôi động vật hoang dã ở nước ta.
  3. 2 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NHÂN NUÔI ĐỘNG VẬT HOANG DÃ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1.1. Tình hình nhân nuôi động vật hoang dã trên thế giới Theo các tài liệu lịch sử, loài người đã biết săn bắt, thuần dưỡng các loài động vật hoang dã từ 4000-5000 năm trước công nguyên. Đến nay trên thế giới đã có một tập đoàn các loài động vật nuôi rất đa dạng với hàng ngàn loài và giống gia súc, gia cầm, thủy sản, động vật cảnh, nhằm chủ động tạo ra nguồn sản phẩm động vật đa dạng, phong phú và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Trên thế giới nhân nuôi động vật hoang dã đã trở thành một ngành sản xuất rất phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế cao như nuôi hươu sao (Cervus nippon), hươu xạ (Moschus berezovski), cá sấu (Crocodylus sp.), trăn (Python sp.), các loài rắn, Gấu, chim cảnh… ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Đức,Thái Lan và nhiều quốc gia khác. Do nhu cầu của xã hội ngày càng tăng về các sản phẩm có nguồn gốc động vật hoang dã, con người đã khai thác, săn bắn quá mức làm cho nguồn tài nguyên này trở nên cạn kiệt, hầu hết các loài quý hiếm, có giá trị cao đều đứng trước nguy cơ tuyệt chủng hoặc không còn khả năng khai thác. Trước thực tế đó, nghề nhân nuôi các loài động vật hoang dã không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, đồng thời làm giảm áp lực săn bắt động vật hoang dã, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH). Ngày nay, nhân nuôi động vật hoang dã còn là giải pháp quan trọng nhằm bảo tồn hoặc cứu nguy các loài động vật đang có nguy cơ bị tiệt chủng. Theo Conway (1998), hiện nay tại các vườn động vật trên thế giới đang nuôi khoảng 500.000 động vật có xương sống ở cạn, đại diện của 3.000 loài chim,
  4. 3 thú, bò sát, ếch nhái. Mục đích của phần lớn các vườn động vật hiện nay là gây nuôi các quần thể động vật quý hiếm, đang có nguy cơ bị tuyệt chủng và phục vụ thăm quan du lịch, giải trí và bảo tồn đa dạng sinh học. Việc nghiên cứu trong các vườn động vật cũng đang được chú trọng. Các nhà khoa học đang cố gắng tìm các giải pháp tối ưu để nhân giống, phát triển số lượng. Tuy nhiên, về kỹ thuật nhân nuôi, sinh thái và tập tính cũng như việc thả chúng về môi trường tự nhiên còn có nhiều vấn đề đặt ra cho công tác nhân nuôi cần phải giải quyết. 1.2. Tình hình nhân nuôi động vật hoang dã ở Việt Nam Nghề gây nuôi sinh sản động vật hoang dã ở Việt Nam đã xuất hiện từ lâu và đã đạt được những thành công quan trọng như nuôi hươu sao, nai, khỉ vàng, trăn, rắn, ba ba, ếch đồng, cá sấu,... Trong những thập niên gần đây, hoạt động gây nuôi sinh sản động vật hoang dã được phát triển mạnh và phổ biến ra hầu hết các tỉnh trong cả nước. Theo số liệu của CITES Việt Nam (Bộ NN và PTNT, 2007), hiện nay toàn quốc có 4.321 cơ sở chăn nuôi (bao gồm nuôi tăng trưởng, nuôi sinh sản) được CITES Việt Nam cấp giấy phép, có quy mô vừa và nhỏ (chủ yếu là tư nhân), đang nhân nuôi 2.116.000 cá thể động vật thuộc 97 loài, thuộc 4 lớp (Thú, Chim, Bò sát và Ếch nhái). Trong đó lớp Ếch nhái có 7 loài, 602.000 con; Bò sát 32 loài, 1.473.000 con; Chim 24 loài, 2.000 con, Thú 34 loài 38.000 con. Trên thực tế, số lượng các cơ sở chăn nuôi lớn hơn nhiều, song vì nhiều lý do phần lớn chưa đăng ký với các cơ quan chức năng. Trong số 97 loài ĐVHD hiện đang được chăn nuôi trên toàn quốc, chỉ có 39 loài có tiềm năng nhân nuôi, trong đó Ếch nhái: 2 loài, Bò sát: nhiều nhất với 19 loài, Chim: 4 loài và Thú: 14 loài. Hiện nay, ở nước ta có 2 cơ sở nuôi nhốt động vật hoang dã lớn là: Thảo cầm viên Sài Gòn, đã được xây dựng từ hơn 100 năm nay, hiện nuôi hơn 120
  5. 4 loài với khoảng 530 cá thể; Vườn thú Thủ Lệ (Hà Nội), mới được thành lập hơn 30 năm, hiện đang nuôi khoảng 100 loài với 500 cá thể. Nhiệm vụ chính của các Vườn thú là phục vụ tham quan, công tác nghiên cứu về kỹ thuật chăn nuôi, nhân giống một số loài (Hổ, Nai, Hươu sao, Khỉ, các loài Cầy…) cũng được tiến hành, nhưng kết quả nghiên cứu ít được phổ biến. Ngoài ra, cũng có một số cơ sở tương đối lớn khác như: Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Đảo Rều (Quảng Bình), Hòn Tre (Nha Trang), Trung tâm Giống Thụy Phương Hà Nội, Trung tâm Cứu hộ Động vật hoang dã Sóc Sơn (Hà Nội). Chăn nuôi nhỏ lẻ quy mô hộ gia đình ở nhiều địa phương như: Nuôi hươu sao ở Quỳnh Lưu (Nghệ An), Hương Sơn (Hà Tĩnh), Hiếu Liêm (Đồng Nai); nuôi rắn hổ mang ở Lệ Mật - Gia Lâm (Hà Nội), Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc), nuôi gấu ở nhiều địa phương như (Hà Nội, Hà Tây cũ, Hòa Bình, Sơn La; nuôi nhím, don ở Ba Vì (Hà Nội), Cúc Phương (Ninh Bình), Công ty Thụy Phương (Hà Nội), Thị xã Sơn La (Sơn La), Cát Bà (Hải Phòng), nuôi ba ba ở nhiều địa phương như Hải Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hà Tĩnh,…. Tuy nhiên, nghề chăn nuôi ĐVHD ở nước ta đang bộc lộ nhiều bất cập: Việc chăn nuôi chủ yếu mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, chưa trở thành một ngành sản xuất hàng hoá; việc lựa chọn loài chăn nuôi thiếu định hướng; thiếu sự hướng dẫn, quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương; người chăn nuôi còn gặp nhiều rủi ro vì thiếu hiểu biết về sinh học, sinh thái loài, về kỹ thuật chăn nuôi. Vì vậy, phương pháp chăn nuôi đơn giản, nuôi nhốt là chủ yếu, chuồng nuôi chưa phù hợp với đặc điểm sinh học, sinh thái và nhu cầu của vật nuôi, chưa có biện pháp phòng và chữa bệnh hữu hiệu, chưa biết áp dụng công nghệ tiên tiến trong nhân nuôi,... Đặc biệt, do chưa có quy trình quản lý đàn giống bố mẹ hợp lý, dẫn đến hiện tượng cận huyết, thoái hoá đàn giống, ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển sinh lý vật nuôi, giảm năng xuất và chất lượng sản phảm. Các dịch vụ
  6. 5 thú y trong nhân nuôi ĐVHD hầu như chưa có nên hạn chế nhiều đến kết quả gây nuôi của các cơ sở. 1.3. Cơ sở pháp lý của nghề nhân nuôi động vật hoang dã Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm quản lý và phát triển nghề gây nuôi động vật hoang dã, kể cả các loài động vật quý hiếm, một số văn bản quan trọng như: • Nghị định 18/HĐBT, ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Nghị định 32/2006/NĐ-CP, ngày 30/3/2006 của Chính phủ đã qui định danh mục các loại động vật rừng, thực vật rừng quí, hiếm và qui chế quản lý, bảo vệ. Theo tinh thần của các nghị định này: - Nhà nước cho phép khai thác hạn chế các loài động vật quí hiếm thuộc nhóm IIB phục vụ mục đích gây nuôi, nghiên cứu khoa học, trao đổi quốc tế về giống... nhưng phải được phép của Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) (Điều 8, khoản 2c). - Đối với động vật rừng thuộc nhóm IIB do tổ chức, cá nhân tự bỏ vốn nuôi trồng, ngoài mục đích sử dụng gây nuôi làm giống, được sử dụng động vật sống từ thế hệ hai trở đi (Điều 9, khoản c). • Chỉ thị số 359-TTg, ngày 29/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển động vật hoang dã quy định: Nhà nước khuyến kích các tổ chức, cá nhân gây nuôi phát triển các loài động vật hoang dã, bao gồm cả động vật quí hiếm để kinh doanh, xuất khẩu và phải thực hiện đúng qui định của Nghị định 18/HĐBT ngày 17/1/1992 và các qui định hiện hành, đúng công ước CITES. • Nghị định 11/2002/NĐCP, ngày 22/1/2002 của Chính phủ về Quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu và quá cảnh các loài động, thực vật hoang dã qui định: Trại nuôi sinh sản hoặc cơ sở gây trồng nhân tạo các loài động vật, thực vật được qui định trong phụ lục I của Công ước CITES phải đăng ký
  7. 6 với cơ quan thẩm quyền quản lý CITES Việt Nam (Điều 6); trại nuôi sinh sản và cơ sở trồng cấy nhân tạo các loài động, thực vật qui định trong phụ lục II và III của Công ước CITES phải đăng ký với cơ quan kiểm lâm cấp tỉnh được cơ quan thẩm quyền quản lý CITES Việt Nam uỷ quyền (Điều 7). • Chỉ thị số 1284/CT-BNN-KL ngày 11/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tăng cường công tác quản lý các trại nuôi sinh sản, sinh trưởng và cơ sở trồng cấy nhân tạo động vật, thực vật hoang dã. • Công văn số 3270/BNN-KL ngày 6/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, về việc tăng cường công tác quản lý các cơ sở gây nuôi và trồng cấy nhân tạo động vật và thực vật hoang dã. 1.4. Các loài dúi ở Việt Nam Việc khảo sát vùng phân bố của các loài dúi ở Việt Nam được tiến hành phối hợp trong đợt khảo sát nghiên cứu thú nói chung (Lê Hiền Hào 1973, Cao Văn Sung và cs. 1980, Đào Văn Tiến 1985, Đặng Huy Huỳnh và cs. 1994,…). Cho đến nay, ở Việt Nam đã thống kê được 4 loài dúi: • Dúi nâu - Cannomys badius (Ảnh 1.1): Ảnh 1.1. Dúi nâu (Cannomys badius)
  8. 7 Loài cỡ nhỏ trong họ Dúi. Dài thân-đầu: 175- 215 mm, dài bàn chân sau: 27-32 mm, dài đuôi: 54-67mm, dài tai: 5-11mm, khối lượng thân: 210 – 340 g (Smith et al., 2008). Cơ thể thích nghi với đời sống dưới đất. Mắt và tai nhỏ, đuôi ngắn. Chân có móng sắc và ngắn. Bộ lông dày và mền. Mặt lưng có màu nâu xám nhạt, mặt bụng có lông thưa, màu nhạt hơn. Bàn chân trước và chân sau màu nâu. Đuôi ngắn hơn 1/3 chiều dài thân, trần không phủ lông. Dúi nâu rất hiếm gặp, cho đến nay mới phát hiện được ở Lai Châu. • Dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus) Ảnh 1.2. Dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus) Là loài lớn trong họ Dúi. Dài thân-đầu: 200- 398 mm, dài bàn chân sau: 39- 55 mm, dài đuôi: 60-198 mm, dài tai: 15-25 mm, khối lượng: 1.000 – 1.500g (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2008). Cơ thể khoẻ, đầu ngắn hầu như không có cổ. Mắt nhỏ, tai và đuôi ngắn. Bộ lông dày, dài và mềm, có màu nâu xám mốc được hình thành bởi các lông xám tại gốc và trắng ở chóp. Bụng nhạt hơn mặt lưng. Bàn chân nâu, ngắn với 5 ngón và có đệm, vuốt rất dài và khoẻ. Đuôi đen nhạt. Dúi mốc lớn có phân bố rộng ở Việt Nam từ các tỉnh phía Bắc tới các tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh.
  9. 8 • Dúi mốc nhỏ, dúi trung quốc (Rhizomys sinensis) Dúi mốc nhỏ(ảnh 1.3), nhỏ hơn dúi mốc lớn. Dài thân đầu 230- 450mm, dài bàn chân sau 38-60mm, dài đuôi 50-90mm, dài tai 12 -14mm (Đặng Huy Huỳnh và cs. 2008). Đuôi chỉ bằng 1/3 dài thân-đầu và hầu như không có vẩy. Mặt lưng phủ lông dày với gốc lông xám thẩm, chóp lông trắng. Lông lưng mềm và rậm, màu lông sáng thẫm hơn mặt bên và phần trước thân. Bụng xám nhạt với lông thưa. Mu bàn chân trắng bẩn, có lông ngắn, trắng. Ngón giữa chân trước rất dài hơn các ngón khác.Ngón thứ 2 chân sau dài nhất. Bàn chân có 5 đệm với 3 đệm nhỏ ở hàng trước và 2 đệm lớn ở hàng sau. Đệm hình quả dâu. Loài này rất phổ biến ở Trung Quốc nhưng rất hiếm gặp ở Việt Nam, mới chỉ phát hiện ở Hà Giang và Bắc Giang Ảnh 1.3 Dúi Trung Quốc(Rhizomys sinensis) * Dúi Má Đào (Rhizomyssumatrensis Raffles,1821) R Ảnh 1.4 Dúi Má Đào, má vàng (Rhizomyssumatrensis Raffles,1821) Đây là loài lớn nhất trong họ Dúi. Dài thân-đầu 380-480 mm, dài bàn chân sau 50-68 mm, dài đuôi 118- 192 mm, dài tai 15-28 mm, khối lượng 2.000g đến 4.000 gam (Smith et al , 2008). Bộ lông ngắn, thưa, đặc biệt ở mặt bụng, màu trắng xám hơi phớt vàng đất, có điểm trắng bạc. Mặt lưng nâu
  10. 9 xám, má hung. Có đốm thẫm ở trán hình tam giác với cạnh đáy hoà lẫn với vùng vai sẫm. Đầu đỏ nhạt. Tai và đuôi nâu thẫm, ngắn khoảng 40% dài thân- đầu. Chân trước rộng khoẻ với các móng sắc; ngón thứ 3 và 4 dài nhất. Chân sau, ngón thứ 3 dài nhất. Nệm chân có vẩy. Về sinh học và sinh thái của các loài dúi ở Việt Nam, cho đến nay vẫn còn rất ít các công trình nghiên cứu. Chỉ có một số công trình đề cập đến sinh học, sinh thái của các loài dúi đáng chú ý như: “Thú kinh tế miền Bắc Việt Nam” của Lê Hiền Hào (1973), “Những loài gậm nhấm ở Việt Nam” của Cao Văn Sung và cộng sự (1980), “Động vật, tạp chí Việt Nam, Tập 25 (Lớp Thú – Mammalia), của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (2008). Ngoài ra, còn có một số bài báo nhỏ của các tác giả Cao Văn Sung và Trương Minh Hoạt (1979), Cao Văn Sung (1984), Cao Văn Sung và cộng sự (1982, 1983). Nhìn chung, các loài dúi đều có cấu tạo cơ thể thích nghi với đời sống dưới đất. Mắt và tai nhỏ, đuôi ngắn, cổ không phân biệt rõ. Chân ngắn và có móng khoẻ. Bộ lông mềm. Răng cửa được sử dụng để ăn và đào đất nên rất khoẻ và chắc. Thị giác kém phát triển hơn thính giác. Dúi thường sống ở các rừng nhiều tre nứa. Dúi chủ yếu sống trong hang tự đào dưới các bụi tre, về ban đêm có thể lên mặt đất. Thức ăn của dúi chủ yếu là tre nứa (rễ, măng, hạt). Dúi cũng ăn cỏ, hạt và quả một số loài cây rừng khác. Dúi đực và cái thường sống riêng và chỉ gặp nhau vào thời kỳ sinh sản. Dúi má vàng sinh sản tháng 12, đẻ 3-5 con/lứa. Thời gian mang thai ít nhất 21 ngày (Walker, 1964, trong Đặng Huy Huỳnh và cộng sự, 2008). Dúi mốc lớn đẻ 2 - 4 con/lứa. Sau 3 tháng tuổi dúi con có thể sống tự lập (Cao Văn Sung et al., 1980).
  11. 10 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung của đề tài là tạo lập cơ sở khoa học góp phần phát triển nghề chăn nuôi động vật hoang dã của Việt Nam, phát triển kinh tế xã hội và bảo tồn đa dạng sinh học. Mục tiêu cụ thể của Đề tài bao gồm: • Bổ sung tư liệu khoa học về đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của loài dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus) trong tự nhiên và trong điều kiện nuôi nhốt. • Bước đầu xây dựng hướng dẫn kỹ thuật nhân nuôi loài dúi mốc lớn qui mô nhỏ. • Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình nhân nuôi dúi mốc và đề xuất khuyến cáo về việc nhân nuôi dúi mốc lớn ở Việt Nam. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là loài dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus Blyth, 1851) trong tự nhiên và trong điều kiện nuôi nhốt. 2.3. Giới hạn của đề tài Do điều kiện kinh phí và thời gian có hạn, nghiên cứu sinh học, sinh thái Dúi mốc trong tự nhiên chỉ tiến hành tại Vườn Quốc gia Tam Đảo và trong điều kiện nuôi nhốt tại Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Cứu hộ động vật rừng (TTNCPT&CHĐVR), thuộc Viện Sinh thái Rừng và Môi trường, Trường Đại học Lâm nghiệp. 2.4. Nội dung nghiên cứu 2.4.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của Dúi mốc lớn - Đặc điểm hình thái ngoài và cấu tạo giải phẫu; - Nơi sống, cấu trúc hang, tổ trong tự nhiên;
  12. 11 - Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng trong tự nhiên và điều kiện nuôi; + Thành phần các loại thức ăn; + Lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày; + Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong thức ăn như nước, protein thô, gluxit, … - Nghiên cứu tập tính, các dạng hoạt động của dúi như ăn uống, đi lại, ngủ nghỉ, nô đùa, vv. Sự phân bố thời gian cho các dạng tập tính theo mùa, theo giới tính và lứa tuổi; - Sinh sản, tuổi trưởng thành sinh dục của dúi đực, dúi cái, các biểu hiện động đực, sự giao phối, thời gian mang thai và sinh con, số con / một lứa trọng lượng con sơ sinh, thời gian dúi mẹ nuôi con bằng sữa; - Quá trình sinh trưởng và phát triển của dúi mốc lớn; 2.4.2. Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật nhân nuôi dúi mốc lớn - Chuồng nuôi và yêu cầu cấu trúc chồng nuôi, môi trường xung quanh. - Thức ăn, khẩu phần ăn, cách chế biến thức ăn, phát thức ăn. - Cách chọn giống nuôi và cách phân biệt con đực con cái, xác định số cá thể nuôi trong từng ô chuồng. - Chăm sóc dúi sinh sản và dúi non mới sinh - Chăm sóc dúi thương phẩm, khai thác và tìm hiểu thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Bệnh tật: các biểu hiện lâm sàng, phương pháp phòng và trị bệnh. 2.4.3. Hiệu quả kinh tế và đề xuất kiến nghị về phát triển nghề nuôi dúi mốc ở Việt Nam - Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi - Khuyến cáo về các điều kiện cần để phát triển nhân nuôi dúi mốc, như chính sách, nguồn vốn, thị trường….. 2.5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Luận văn được thực hiện từ ngày 01 tháng 7 năm 2007 đến ngày 15 tháng 9 năm 2008, bao gồm:
  13. 12 - Thu thập, phân tích tài liệu liên quan: từ ngày 01/07/2008 đến ngày 30/08/2008. - Khảo sát thực địa tại VQG Tam Đảo: từ ngày 02/10/2007 đến 15/11/2007. - Nghiên cứu dúi nuôi tại Trường Đại học Lâm nghiệp từ ngày 01/08/2007 đến ngày 30/06/2008. - Xử lý số liệu và hoàn thiện luận văn: từ ngày 01/07/2008 đến 10/09/2008. 2.6. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ mục tiêu, đối tượng của đề tài nghiên cứu đã sử dụng phương pháp sau. 2.6.1. Kế thừa chọn lọc tài liệu Tiến hành thu thập các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau như: các sách, báo đã công bố; các bài viết, báo cáo chưa công bố của các tác giả khác, tìm kiếm trên các trang web. Các công trình nghiên cứu về sinh học, sinh thái của dúi mốc lớn, đặc biệt là kỹ thuật nhân nuôi chúng rất ít. Vì vậy, chúng tôi chỉ sưu tầm và phân tích được 30 tài liệu có liên quan đến Đề tài nghiên cứu. 2.6.2. Nghiên cứu đặc điểm hình thái Các đặc điểm hình thái, giải phẫu của dúi mốc lớn được mô tả thông qua quan sát trực tiếp các cá thể dúi và giải phẫu một số cá thể dúi. Các chỉ tiêu mô tả bao gồm: - Hình dạng chung của cơ thể, màu sắc lông, kích thước và khối lượng cơ thể. Các số đo kích thước bao gồm: dài thân-đầu, dài đuôi, dài bàn chân sau, dài tai và khối lượng cơ thể được đo theo phương pháp chuẩn (Phạm Nhật, Nguyễn Xuân Đặng, 2000) - Các nội quan được tách riêng và cân bằng cân điện tử hoặc đo bằng thước Palme điện tử với độ chính xác đến 1/10 gam và milimét tương ứng
  14. 13 Hình 2.1. Cân, thước, kỹ thuật 2.6.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh thái dúi mốc trong tự nhiên Phỏng vấn các cán bộ kiểm lâm của VQG Tam Đảo và người dân địa phương về thức ăn và một số đặc điểm hoạt động của dúi trong tự nhiên. Quan sát các sinh cảnh của dúi trong tự nhiên tại VQG Tam Đảo, lập 30 ô tiêu chuẩn (25m x 40m) theo tuyến ngẫu nhiên, điều tra các hang tổ của dúi, đào để mô tả hang, đếm số hang và số dúi trong các ô tiêu chuẩn để tính mật độ dúi trong vùng nghiên cứu. 2.6.4. Bố trí thí nghiệm Đàn dúi nuôi tại TTNCPT&CHĐVR là 130 cá thể, gồm 75 đực và 55 cái được mua gom từ dúi bắt trong tự nhiên. Dúi mua về được ghép nuôi thành đôi (1 đực, 1 cái) ngay trong các ô chuồng. Việc ghép nuôi đôi nhằm tạo điều kiện cho dúi thích nghi với cuộc sống đôi tránh hiện tượng đánh nhau gây thương tích khi ghép đôi sinh sản. Chuồng nuôi dúi có kích thước: rộng 1,5m x dài 2,55m x cao 0,92m. Một chuồng lớn như vậy được chia thành 5-6 ngăn ô chuồng nhỏ với kích thước bằng nhau (rộng 38cm x dài 1,5m x cao 0,44 m). Mỗi ô chuồng nhỏ lại được phân thành 2 ngăn: Ngăn ngoài dùng để đưa thức ăn vào còn ngăn bên trong lớn hơn là khu vực hang tổ của Dúi. Hai ngăn được thông với nhau bằng một cửa hang có kích thước: cao 22cm x rộng 10cm. Mặt trên của các hang nhỏ này được đậy bằng hai loại vật dụng: ngăn bên trong được đậy bằng
  15. 14 tấm bê tông tạo độ tối cho hang, ngăn bên ngoài được đậy bằng tấm phên lưới sắt mắt cáo để tạo độ sáng cũng như thông thoáng cho chuồng. Nội thất trong ô chuồng nhỏ được bố trí rất đơn giản, trong các chuồng nhỏ này được bố trí một ống đất nung (loại ống dẫn nước) có chiều dài 40 cm, đường kính đầu nhỏ 14 cm và đường kính đầu to 18 cm làm hang cho dúi. Vật liệu để lót trong các hang tổ của Dúi mốc là lá của cây cỏ voi đã được phơi khô và các loại thức ăn như: tre và cỏ voi là những thành phần không thể thiếu trong vật liệu tạo nên hang tổ. Mỗi ô chuồng nhỏ như vậy được bố trí nuôi 2 cá thể ( 1đực và 1 cái). Hình 2.2. Chuồng nuôi dúi mốc lớn tại TTN CPT&CHĐVR 2.6.5. Nghiên cứu về thức ăn và nhu cầu dinh dưỡng của dúi Thành phần thức ăn của dúi trong tự nhiên được xác định qua phỏng vấn dân địa phương và quan sát các dấu vết ăn hoặc thức ăn do dúi lưu trữ trong hang tổ của dúi. Trong điều kiện nuôi, cho dúi ăn thử các loại thức ăn khác nhau để xác định những loại thức ăn dúi ăn. Nhu cầu ăn hàng ngày của dúi được xác định dựa trên lượng thức ăn dúi tiêu thụ trong một ngày. Để tính được nhu cầu ăn của Dúi chúng tôi cân lượng
  16. 15 thức ăn cấp mỗi loại và cân lượng thức ăn thừa của chúng vào ngày hôm sau. Cách bố trí thí nghiệm: Lựa chọn 5 ô chuồng trong tổng số 18 ô chuồng để thí nghiệm. Mỗi đợt nghiên cứu được tiến hành trong 5 ngày liên tục. Xác định lượng thức ăn hàng ngày của dúi theo công thức: P=C–T N = P/Pđv Trong đó: P: Lượng thức ăn tiêu thụ; C: Lượng thức ăn cung cấp trong một ngày (g), T: Lượng thức ăn dư thừa sau một ngày (g). Pđv: Khối lượng cơ thể Dúi; N: Nhu cầu thức ăn trong ngày (gam thức ăn/kg động vật/ngày) 2.6.6. Nghiên cứu tập tính của dúi mốc lớn trong điều kiện nuôi nhốt Quan sát dúi hàng ngày để phát hiện và mô tả các dạng tập tính hoạt động của dúi, như: - Tập tính vận động, ăn uống, nghỉ ngơi và ngủ của Dúi - Các dạng tập tính xã hội: chơi đùa, đánh nhau,.. Xác định chu kỳ hoạt động ngày đêm của Dúi mốc lớn trong điều kiện nuôi nhốt bằng quan sát trực tiếp 24 giờ trong ngày. Tiến hành quan sát trong 3 ngày liên tục bằng phương pháp quét, chu kỳ 15 phút một lần. Nghiên cứu được tiến hành trên 6 cá thể (3 đực, 3 cái) nuôi trong 03 ô chuồng.
  17. 16 Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Đặc điểm sinh học, sinh thái của dúi mốc lớn 3.1.1. Đặc điểm hình thái của dúi mốc lớn • Hình thái ngoài dúi mốc lớn Dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus), còn có tên khác là: chuột tre, năng leo (H’Mông), tu ủn (Thái), tô ổn (Tày, Nùng), nà cú biến (Mán). Dúi mốc có thân hình mập mạp, đầu ngắn cổ không rõ, tai và mắt rất nhỏ. Mắt nhỏ đen tròn. Toàn thân phủ lớp lông dày mịn, gần như đồng màu xám đen phớt mốc trắng, do các sợi lông có phần gốc màu xám và phần chóp trắng. Mặt bụng nhạt màu hơn mặt lưng. Đuôi đen nhạt và dài bằng khoảng 1/3 chiều dài thân-đầu. Chân ngắn, bàn chân nâu và to với 5 ngón có vuốt sắc dài, khoẻ. Kết quả lấy các số đo cơ thể của 8 cá thể dúi trưởng thành cho thấy, dúi mốc lớn có các số đo trung bình như sau: dài thân-đầu 317,5mm; dài đuôi 125,0 mm; dài bàn chân sau 53,63 mm; cao tai 16,0 mm và khối lượng thân 1.112,5g (Bảng 3. 1). Số liệu này cũng tương đương với số liệu đã công bố của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (2008) là dài thân-đầu: 313mm (200-398mm), dài bàn chân sau: 49mm (39-55mm), dài đuôi: 117mm (60-198mm), dài tai: 21mm (15-21) và khối lượng: 1.133g (900-1500g). Chưa có tác giả nào ghi nhận về sự khác biệt giữa dúi đực và dúi cái về kích thước cơ thể. Số liệu của chúng tôi cũng không cho thấy điều đó. Ở Thái Lan và Trung Quốc, đã ghi nhận dúi mốc lớn có chiều dài thân đầu tương đương với dúi mốc lớn ở Việt Nam, nhưng khối lượng cơ thể có thể đạt tới 2.500g (Trung Quốc, Smith et al., 2007) hoặc 3.000g (Thái Lan, Lekagul et al. 1988). Có thể, do bị khai thác quá mức nên dúi mốc lớn ở Việt
  18. 17 Nam không còn kịp lớn đến khối lượng tối đa nữa. Dúi có 1 đôi vú ngực và 3 đôi vú bụng. Bảng 3.1. Số đo hình thái ngoài của dúi mốc lớn (mm),(N = 8) Dài Dài Dài bán Khối lượng TT Giới tính Cao tai thân-đầu đuôi chân sau thân (g) 1 Đực 325 125 55 16 1300 2 Đực 340 135 60 18 1400 3 Đực 335 130 56 17 1200 4 Cái 330 130 55 17 1200 5 Cái 280 115 50 15 800 6 Cái 315 120 51 15 1100 7 Cái 295 125 52 14 900 8 Cái 320 120 50 16 1000 Trung bình: 317,5 125,0 53,62 16,0 1.112,5 * Công thức răng của dúi mốc lớn là: i1/1 c0/0 p0/0 m 3/3 x 2 = 16 Bộ răng của dúi mốc có cầu tạo thích nghi với chế độ ăn các loại thức ăn thực vật cứng. Răng cửa dày, khoẻ và dài thò ra khỏi môi. Răng cửa phát triển suốt đời vì thường xuyên bị mài mòn do dúi dùng răng cửa không chỉ để ăn mà còn để đào hang. Dúi không có răng nanh và răng trước hàm. Răng hàm to, mặt nhai có nhiều nếp gấp đề nghiền thức ăn. • Các nội quan Các số đo nội quan của 5 cá thể dúi trưởng thành (2 đực là dúi tự nhiên, 3con cái là dúi nuôi) được thể hiện ở (Bảng 3. 2.). Dúi mốc lớn có ruột khá dài: ruột già trung bình 1.050 mm, ruột non 710mm và ruột tịt 130mm. Theo Schieck et al. (1985), kích thước của ruột già và ruột tịt, phản ánh chế độ ăn
  19. 18 của động vật. Động vật ăn nhiều chất xơ (thực vật) có ruột già và ruột tịt dài hơn so với các loại động vật ăn thức ăn động vật. Như vậy, độ dài lớn của ruột già và ruột tịt ở dúi mốc lớn có thể giải thích bằng chế độ ăn các thức ăn thực vật nhiều chất xơ (rễ, thân tre nứa, hạt,..). Bảng 3.2. Số đo một số nội quan của dúi mốc lớn trưởng thành(N =5) Cơ quan Tối thiểu - tối đa Trung bình Ruột thừa (ruột tịt) (mm) 125 – 135 130 Ruột già (mm) 925 - 1.125 1.050 Ruột non (mm) 690 – 730 710 Tim (g) 8.5 – 11.5 10 Phổi (g) 9 – 11 10 Gan (g) 28 – 32 30 Thực quản (mm) 143 - 157 150 Lá lách (g) 45 - 49 47 Dài dạ dày (mm) 69 - 75 72 Rộng dạ dày (mm) 38 - 42 40 Khối lượng dạ dầy (g) 35 - 45 40 Thận (2 quả) (g) 8 - 12 10 Dài dịch hoàn dài (mm) 13 - 17 15 Rộng dịch hoàn (mm) 9 – 11 10 Khối lượng dịch hoàn (g) 4.5 – 5.5 5 Tuyến xạ (2 chiếc) (g) 4-6 5 Dúi có 2 tuyến xạ ở gần cơ quan sinh dục, khá phát triển. Chức năng của các tuyến này chưa được nghiên cứu, nhưng vị trí của tuyến cho thấy
  20. 19 chức năng của tuyến có thể liên quan đến hoạt động sinh sản của dúi như thu hút bạn sinh sản,… 3.1.2. Đặc điểm sinh cảnh và hang tổ • Sinh cảnh ưa thích Theo các nghiên cứu trước đây (Lê Hiền Hào 1973, Cao Văn Sung và cộng sự (1980), Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (2008,…), dúi mốc lớn thường sống ở vùng đồi núi thấp, các sườn núi thấp thoải, ven các sông suối, trong các khu rừng, trảng cây bụi hay nương rẫy gần rừng. Sinh cảnh thích hợp là rừng tre, nứa, giang, vầu, sặt, ở độ cao từ 100m đến 1000m so với mặt biển. Để hiểu rõ thêm về đặc điểm nơi sống của dúi mốc lớn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sinh cảnh của dúi tại sườn phía tây của VQG Tam Đảo vào tháng 9 năm 2007. Tại khu vực khảo sát có 4 dạng sinh cảnh chính như sau: - Sinh cảnh rừng tự nhiên trên đá - Sinh cảnh rừng tự nhiên trên núi đất - Sinh cảnh rừng trồng - Sinh cảnh trảng cỏ-cây bụi Kết quả khảo sát tại 30 ÔTC (25x40m2) cho thấy, chỉ phát hiện được một loài dúi duy nhất là dúi mốc lớn. Theo thông tin phỏng vấn dân địa phương thì dúi mốc lớn cũng có thể gặp cả ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi, nhưng trong quá trình khảo sát chúng tôi không phát hiện được hang dúi nào ở sinh cảnh này. Tất cả các mẫu dúi đều được phát hiện ở sinh cảnh Rừng tự nhiên trên núi đất. Sinh cảnh rừng tự nhiên trên núi đất bao gồm chủ yếu là rừng tre nứa thuần loại hoặc hỗn gia tre nứa cây gỗ (Hình 3.3). Đây là sinh cảnh rất phù hợp cho dúi mốc lớn sinh sống.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2