intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc cơ bản của rừng tự nhiên ở vùng Tây Bắc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

24
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn “Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc cơ bản của rừng tự nhiên ở vùng Tây Bắc” nhằm góp phần bổ sung cơ sở lý luận về cấu trúc rừng tự nhiên. Đồng thời, kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở đề xuất các biện pháp nuôi dưỡng rừng, làm giàu rừng tại vùng Tây Bắc nói riêng và ở các vùng sinh thái của Việt Nam nói chung. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc cơ bản của rừng tự nhiên ở vùng Tây Bắc

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN THỊ HƯỜNG NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC CƠ BẢN CỦA RỪNG TỰ NHIÊN Ở VÙNG TÂY BẮC Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Vũ Tiến Hinh Hà Nội, 2009
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Theo xu hướng phát triển của xã hội, kiến thức về rừng của con người ngày càng sâu sắc hơn, quan điểm và mục tiêu sử dụng rừng ngày một đúng đắn và toàn diện, các biện pháp sử dụng rừng cũng dần được hoàn thiện. Tuy nhiên, những đổi mới và tiến bộ chưa kịp thời và chưa đủ ngăn chặn nạn suy thoái rừng, gây ra những nguyên nhân mang tính xã hội, dẫn đến tình trạng phá vỡ cân bằng sinh thái, gây tổn hại môi trường sống. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1990-1995, ở các nước đang phát triển đã có hơn 65 triệu ha rừng tự nhiên và rừng trồng bị mất. Năm 1995, diện tích rừng của toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng, chỉ còn 3.454 triệu ha (FAO 1997), tỷ lệ che phủ khoảng 35%. Ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong giai đoạn vừa qua diện tích rừng đã giảm đáng kể, với tốc độ khoảng trên dưới 100.000 ha/năm. Tỷ lệ che phủ của rừng giảm từ 43% vào năm 1943 xuống còn 27,1% vào năm 1980 và 26,2% vào năm 1985 (Bộ Lâm nghiệp, 1991). Nhờ các chương trình trồng rừng (chương trình 327 giai đoạn 1992-1998 và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 1998-2010), tính đến năm 2005, cả nước có trên 12,6 triệu ha rừng (trong đó: rừng tự nhiên có gần 10,3 triệu ha, rừng trồng hơn 2,3 triệu ha), nâng độ che phủ rừng đạt 37% (nguồn - Cục Kiểm lâm). Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên hiện có đa phần là rừng nghèo, rừng kém chất lượng, cấu trúc rừng ở nhiều nơi đã bị phá vỡ, khả năng phòng hộ cũng như cung cấp lâm sản rất hạn chế. Diện tích rừng bị mất làm cho chất lượng rừng bị suy giảm cả về tổ thành các loài cây quý hiếm có giá trị cũng như tổng trữ lượng gỗ của rừng. Ngoài ra, nạn mất rừng diễn ra liên tục trong nhiều thập kỷ qua đã làm cho nhiều khu rừng lớn bị chia cắt thành từng mảnh rừng nhỏ hoặc bị khai thác quá mức làm mất cấu trúc rừng, hoặc cấu trúc của rừng đã biến đổi theo chiều hướng xấu. Theo quan điểm sinh thái học, đặc điểm cấu trúc thể hiện rõ những mối quan hệ qua lại giữa các thành phần của hệ sinh thái rừng và giữa chúng với môi trường. Việc nghiên cứu cấu trúc rừng nhằm duy trì rừng như một hệ sinh thái ổn định, có sự hài hoà của các nhân tố cấu trúc, lợi dụng tối đa mọi tiềm năng của điều kiện lập
  3. 2 địa và phát huy bền vững các chức năng có lợi của rừng về kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, một trong những vấn đề cần được nghiên cứu là tìm hiểu quy luật cấu trúc của rừng làm cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm sử dụng và phát triển tài nguyên rừng bền vững. Tây Bắc nói chung và Điện Biên, Sơn La nói riêng, trong những năm qua tỷ lệ mất rừng cao, độ che phủ thấp, cụ thể tỷ lệ che phủ của cả vùng Tây Bắc đạt 39,87%, Điện Biên đạt 39,7%, Sơn La đạt 41,2% (theo Kết quả điều tra đánh giá và theo dõi diến biến rừng tự nhiên toàn quốc – 2007). Hơn nữa, điều kiện tự nhiên ở đây tương đối khắc nghiệt, tập quán sản xuất của đồng bào dân tộc còn nhiều lạc hậu như đốt nương làm rẫy, du canh du cư… dẫn tới khả năng nâng độ che phủ bằng trồng rừng và phục hồi rừng tự nhiên còn chậm. Rừng của vùng Tây Bắc được coi là mái nhà xanh của đồng b»ng Bắc Bộ. Bên cạnh đó, vai trò phòng hộ của rừng Tây Bắc hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn sinh thủy của 2 thủy điện lớn là thủy điện Hòa Bình và Sơn La. Do đó, rất cần có sự tác động của con người một cách tích cực, chủ động và hiệu quả để nâng cao ®é che phñ vµ chÊt l­îng cña rừng. Muốn vậy, cần có những hiểu biết sâu về cÊu tróc rừng để từ đó có thể đề xuất các giải pháp lâm sinh một cách hợp lý, đồng bộ. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc cơ bản của rừng tự nhiên ở vùng Tây Bắc” nhằm góp phần bổ sung cơ sở lý luận về cấu trúc rừng tự nhiên. Đồng thời, kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở đề xuất các biện pháp nuôi dưỡng rừng, làm giàu rừng tại vùng Tây Bắc nói riêng và ở các vùng sinh thái của Việt Nam nói chung.
  4. 3 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Hệ sinh thái rừng tự nhiên là một hệ sinh thái rất đa dạng, phong phú và phức tạp cả về cấu trúc và đặc điểm tái sinh. Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần thể thực vật theo không gian và theo thời gian [23]. Cấu trúc rừng bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu trúc thời gian. Muốn sử dụng và quản lý bền vững các hệ sinh thái rừng tự nhiên, chúng ta cần phải dựa trên sự hiểu biết về hai nhóm nhân tố cơ bản: - Nhóm nhân tố nội tại của hệ sinh thái rừng (các đặc trưng, quy luật cấu trúc và động thái: tăng trưởng, tái sinh, diễn thế của hệ sinh thái rừng). - Nhóm nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng (cơ cấu xã hội, các chính sách sử dụng rừng…). Hiểu biết về nhóm nhân tố thứ nhất là cơ sở quan trọng để xây dựng các biện pháp kỹ thuật tác động nhằm sử dụng bền vững tài nguyên rừng; Hiểu biết về nhóm nhân tố thứ hai giúp xây dựng các giải pháp kinh tế - xã hội thích hợp cho từng điều kiện sinh thái – nhân văn cụ thể. Để góp phần quản lý rừng bền vững và phục vụ công tác kinh doanh rừng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu về kinh tế, xã hội, sinh thái đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Dưới đây đề tài xin đề cập một cách tổng quát những nghiên cứu có liên quan đến nội dung nghiên cứu. 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Phân loại rừng phục vụ kinh doanh Phân loại rừng là công việc rất cần thiết trong kinh doanh rừng, nhất là rừng tự nhiên nhiệt đới phức tạp. Phân loại rừng nhằm mục tiêu xác định các đơn vị kinh doanh để đi tới hoạt động lâm nghiệp có hiệu quả. Phân loại rừng theo điều kiện tự nhiên trên thế giới rất đa dạng với các trường phái khác nhau như:
  5. 4  Trường phái Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu G.F.Môrôdốp (1912) với tác phẩm: “ Học thuyết về kiểu lâm phần ” đã đặt cơ sở khoa học cho việc phân loại kiểu rừng và gắn liền nó với mục đích kinh doanh. Ông đi sâu vào bản chất của rừng và tiến hành phân loại rừng dựa vào 5 nhân tố hình thành:  Đặc tính sinh thái học của loài cây cao;  Hoàn cảnh địa lý (khí hậu, thổ nhưỡng, ...);  Quan hệ giữa các thực vật tạo nên quần lạc và quan hệ qua lại giữa chúng với khu hệ động vật rừng;  Nhân tố lịch sử, địa chất;  Tác động của con người. Xuất phát từ quan điểm của G.F.Môrôdốp coi rừng là thể thống nhất giữa sinh vật rừng và hoàn cảnh, P.S. Pôgrepnhiac phân loại rừng tự nhiên ra 3 cấp: 1. Kiểu lập địa: là cấp phân loại lớn nhất, bao gồm mọi khu đất có điều kiện thổ nhưỡng giống nhau, kể cả khu đất có rừng hay không có rừng. 2. Kiểu rừng: là tổng hợp những khu đất có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu giống nhau. 3. Kiểu lâm phần: bao gồm những khoảnh rừng giống nhau cả về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và quần lạc thực vật rừng.  Trường phái Bắc Âu: có hai trường phái + Trường phái sinh thái học: Phân loại kiểu rừng căn cứ vào hai nhân tố: độ ẩm và độ phì. Độ ẩm chia làm 5 cấp: rất khô, khô, hơi ẩm, ẩm, ướt; độ phì chia làm 4 cấp: xấu, tốt, giàu, rất giàu. Sự kết hợp các chỉ tiêu độ ẩm, độ phì, cùng với các loài cây gỗ và thực vật thảm tươi chỉ thị là cơ sở để phân loại kiểu rừng. + Trường phái Quần xã thực vật: Phân loại kiểu rừng dựa vào đặc trưng chủ yếu là tổ thành thực vật và coi quần hợp thực vật là đơn vị phân loại cơ bản. [23].
  6. 5 1.1.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng Cấu trúc rừng được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và đã thu được những kết quả nhất định. Trong nghiên cứu về cấu trúc rừng, người ta chia thành ba dạng cấu trúc: cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu trúc theo thời gian. Cấu trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa thực vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng. Nhìn chung, các nghiên cứu về cấu trúc rừng đều có chung một hướng là xây dựng cơ sở có tính khoa học và lý luận phục vụ công tác kinh doanh rừng hiệu quả, đáp ứng mục tiêu ngày càng đa dạng. Những nghiên cứu này bước đầu chủ yếu là định tính, sau chuyển sang định lượng. Khi chuyển đổi từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng, nhiều tác giả đã sử dụng các công thức và hàm toán học để mô hình hóa cấu trúc rừng, xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc của rừng. Điều đó có ý nghĩa là các quy luật cấu trúc lâm phần ngày càng được mô tả nhiều hơn bằng các mô hình toán học, để từ đó thông qua việc tác động các giải pháp kỹ thuật lâm sinh dẫn dắt rừng đi tới một mô hình có lợi nhất cho từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể.  Cấu trúc tầng thứ Khi nghiên cứu cấu trúc tầng thứ rừng tự nhiên, việc xác định tầng thứ còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có nhiều tác giả cho rằng, rừng lá rộng thường xanh có từ 3 đến 5 tầng. Có tác giả phân tầng thứ theo hướng định tính với các tầng sinh thái khác nhau và đưa ra giới hạn độ cao của các tầng như: Richards P.W (1952) [35] phân rừng ở Nigeria thành 6 tầng với cự ly chiều cao giữa các tầng là 6m. Webb (1956) [57] thống nhất quan điểm của Richards đã phân chia rừng thành 3 - 4 tầng, trong đó có tầng trội hoặc không, nhưng lại cho rằng việc phân chia tầng thứ là tùy ý mà thôi.
  7. 6 Ngược lại với ý kiến trên, có tác giả cho rằng ở kiểu rừng này chỉ có một tầng cây gỗ. Odum E.P (1971) [27] cho rằng không có sự tập trung khối tán ở một tầng riêng biệt nào cả. Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ rừng tự nhiên đều nhắc đến sự phân tầng nhưng mới dừng lại ở mức nhận xét hoặc đưa ra những kết luận định tính, phân chia tầng thứ dựa vào cấp chiều cao mang tính cơ giới nên phần nào chưa phản ánh đúng tính phức tạp của cấu trúc rừng nhiệt đới.  Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3) Việc mô phỏng phân bố số cây theo đường kính là quy luật kết cấu cơ bản của lâm phần được nhiều tác giả quan tâm, kiểu phân bố này thường được biểu diễn dưới dạng hàm toán học phong phú. Meyer (1934) đã mô tả phân bố N/D1.3 bằng phương trình toán học có dạng đường cong giảm liên tục và được gọi là phương trình Meyer. Pierlot (1966) cho rằng, việc nắn đường thực nghiệm bằng phương trình mũ sẽ mất đi những sai số ở những cỡ kính nhỏ và đề xuất nên dùng hàm Hyperbol để nắn đường thực nghiệm là tốt hơn cả. Balley (1973) [51] sử dụng hàm Weibull, Schiffel biểu thị đường cong cộng dồn phần trăm số cây bằng đa thức bậc ba. J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992) trong khi nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo-Brazin đã dùng hàm Weibull để nắn phân bố số cây theo đường kính và nhận xét rằng: hàm Weibull mô phỏng rất tốt phân bố này.  Quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N/Hvn) Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng đứng đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. P.W.Richards (1952) [35] đã dùng phương pháp vẽ các phẫu diện đồ đứng với các kích thước khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu. Các phẫu đồ đã mang lại hình ảnh khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các nhận xét và đề xuất ứng dụng thực tế.
  8. 7 Việc mô phỏng phân bố N/H bằng hàm toán học cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu, song việc sử dụng hàm nào tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của từng tác giả và đối tượng cụ thể. Nhìn chung, các nghiên cứu về cấu trúc theo hướng định lượng trên cơ sở thống kê sinh học vẫn tập trung vào phân bố số cây theo đường kính và chiều cao. Các hàm toán học được sử dụng để mô phỏng rất đa dạng và phong phú, nhưng khi kiểm tra bằng tiêu chuẩn phù hợp của thống kê toán học thường chỉ đạt ở mức trung bình. Xu hướng nghiên cứu các quy luật phân bố của nhân tố điều tra chủ yếu tập trung vào tìm các hàm toán học thích hợp để mô phỏng.  Tương quan giữa chiều cao với đường kính (Hvn – D1.3) Tiurin.Đ.V (1927) đã phát hiện hiện tượng chiều cao tương ứng với mỗi cỡ kính cho trước luôn tăng theo tuổi, đó là kết quả tự nhiên của phân cấp sinh trưởng; đường cong biểu thị quan hệ giữa H - D có thể thay đổi dạng và luôn dịch chuyển lên phía trên khi tuổi lâm phần tăng lên, khi ông xác lập đường cong chiều cao các cấp tuổi khác nhau. Tiourin.A.V (1932) và Krauter.G. (1958) nghiên cứu tương quan giữa chiều cao với đường kính ngang ngực dựa trên cơ sở cấp đất và cấp tuổi. Kết quả cho thấy, khi dãy phân hóa thành các cấp chiều cao thì mối quan hệ này không cần xét đến cấp đất hay cấp tuổi, cũng như không cần xét đến tác động của hoàn cảnh và tuổi, vì những nhân tố này đã được phản ánh trong kích thước của cây, nghĩa là đường kính và chiều cao trong quan hệ đã bao hàm tác động của hoàn cảnh và tuổi. Petterson.H (1955) (Nguyễn Trọng Bình, 1996), đề xuất phương trình tương quan: 1 b a (1.1) 3 h  1 .3 d Curtis.R.O (1967) [52] đã mô phỏng quan hệ chiều cao (H) với đường kính (D) và tuổi (A) theo dạng phương trình: 1 1 1 LogH = D + b1* + b2 * + b3 * (1.2) D A DA
  9. 8 Trong đó: bi là các tham số của phương trình Sau đó, tác giả nắn theo từng định kỳ 5 năm, tương ứng với định kỳ kiểm tra tài nguyên rừng Linh sam. Tại từng tuổi nhất định phương trình có dạng: 1 LogH = b0 + b1* (1.3) D Kennel.R (1971) [53] kiến nghị một cách khác mô phỏng tương quan H-D là: tìm một phương trình thích hợp cho lâm phần, sau đó xác lập mối liên hệ giữa các tham số phương trình với tuổi.  Tương quan đường kính tán với đường kính thân cây (Dt-D1.3) Zieger [58], Ilvessalo [59], Willing [56] qua nghiên cứu đã đi đến kết luận là, có mối quan hệ mật thiết giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực. Tùy theo loài cây và điều kiện sống, mối liên hệ này được thể hiện khác nhau nhưng phổ biến nhất là dạng phương trình đường thẳng: DT = a + b.D1.3 (1.4) 1.1.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lâm học, hiệu quả của tái sinh rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố. Vai trò của cây con là thay thế cây già cỗi, vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Lịch sử nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên trên thế giới đã trải qua hàng trăm năm nhưng đối với rừng nhiệt đới mới chỉ đề cập đến từ những năm 1930 trở lại đây. Kết quả nghiên cứu được tóm tắt như sau: Richards.P.W (1952) [35] đã nghiên cứu tái sinh ở rừng mưa nhiệt đới. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các ô dạng bản, thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống hoặc khác biệt cây mẹ.
  10. 9 Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbread, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubresville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Jones, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969) 55. Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong thực tiễn lâm sinh người ta chỉ tập trung khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định. Vansteenis (1956) [55] khi nghiên cứu về rừng mưa đã nhận xét, đặc điểm hỗn loài của rừng mưa nhiệt đới là nguyên nhân dẫn đến đặc điểm tái sinh phân tán liên tục. Ngược lại, tái sinh phân tán liên tục ở rừng mưa lại là tiền đề để tạo thành một rừng mưa hỗn loài khác tuổi. Tổ thành những loài cây tái sinh mọc ở lỗ trống là những loài cây ưa sáng mọc nhanh, đời sống ngắn, không có mặt trong tổ thành rừng, mà nguồn gốc có thể là do chim, những động vật từ xa mang tới… Tỉ lệ cây ưa sáng tỉ lệ thuận với kích thước lỗ trống, tức là kích thước lỗ trống càng lớn, thì tỉ lệ cây ưa sáng càng nhiều. Đây là loài cây tiên phong làm nhiệm vụ hàn gắn các lỗ trống ở trong rừng. Sau khi các loài cây ưa sáng đã tạo ra bóng, cây tái sinh của những loài cây chịu bóng có trong thành phần của rừng nguyên sinh xuất hiện, vươn lên thay thế các loài cây ưa sáng. Khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Châu Á, tác giả cho thấy có hai đặc điểm tái sinh phổ biến, đó là tái sinh vệt và tái sinh phân tán liên tục. Khi nghiên cứu ở Châu Phi, A.Obrevin (1938) nhận thấy: cây con của những loài cây ưu thế trong rừng có thể cực hiếm hoặc vắng hẳn. Đây là hiện tượng không sinh con đẻ cái của cây mẹ trong rừng mưa. Mặt khác, trong rừng mưa tổ thành rừng thường thay đổi theo không gian và thời gian, ngay cả trong cùng một địa điểm, cùng một thời gian nhất định, tổ hợp các loài cây sẽ được thay thế bằng tổ hợp loài cây khác hẳn. Nếu xét trên diện tích nhỏ, tổ hợp loài cây tái sinh không mang tính chất thừa kế. Nhưng nếu xét trên một phạm vi rộng, thì tổ hợp các loài cây sẽ thừa kế nhau theo phương thức tuần hoàn. Thành công của A.Obrevin đã khái quát được hiện tượng bức khảm tái sinh. Ông coi đó là “Hiện tượng thuần tuý ngẫu nhiên”.
  11. 10 M.Loeschau (1977) 18 đã đưa ra một số đề nghị để đánh giá một khu rừng có tái sinh đạt yêu cầu hay không phải áp dụng phương pháp điều tra ngẫu nhiên, trừ trường hợp đặc biệt có thể dựa vào những nhận xét tổng quát về mật độ tái sinh như nơi có lượng cây tái sinh rất lớn. Tóm lại, trên thế giới có nhiều phương pháp nghiên cứu tái sinh, nhưng đều dựa trên cơ sở thu thập số liệu tái sinh trên ô dạng bản để phân tích, đánh giá. Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng phải dùng cả ba chỉ tiêu: mật độ, sức sống, khả năng sinh trưởng của cây con để đánh giá. Thực chất chỉ tiêu mật độ mới chỉ phản ánh số lượng cây con của các loài ở các tuổi khác nhau tồn tại ở một thời điểm nhất định, mà chưa phản ánh được khả năng tồn tại, sinh trưởng ở giai đoạn tiếp theo. Do vậy, cần kết hợp cả ba chỉ tiêu trong một thể thống nhất, khi phân tích có thể tách riêng. Kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế giới đã cung cấp các thông tin về phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự nhiên ở một số vùng. Mặc dù vậy, thảm thực vật rừng nhiệt đới rất đa dạng và phức tạp, đời sống của nó gắn liền với điều kiện tự nhiên ở từng vùng địa lý. Vì thế cần tiếp tục nghiên cứu quy luật tái sinh tự nhiên của hệ sinh thái rừng ở các vùng địa lý khác nhau, làm cơ sở cho việc phân tích và đề xuất các luận điểm khoa học một cách chính xác. 1.2. Ở Việt Nam Ở nước ta, rừng tự nhiên là đối tượng đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu. Trong đó, đã có nhiều công trình được công bố và có giá trị khoa học cũng như thực tiễn ở mức độ này hay mức độ khác. Có thể kể tên một số tác giả và tóm tắt kết quả đạt được như sau: 1.2.1. Phân loại rừng phục vụ kinh doanh Loeschau (1966) [19] đã đưa ra hệ thống phân loại rừng theo trạng thái hiện tại nhằm phục vụ cho công tác điều tra, điều chế rừng gỗ mỏ ở Quảng Ninh. Đến năm 1966, công trình được chính tác giả bổ sung và mang tên: Phân chia kiểu trạng thái và phương hướng kinh doanh rừng hỗn giao lá rộng thường xanh nhiệt đới.
  12. 11 Đây là hệ thống phân loại được sử dụng trong thời gian dài và phổ biến ở nước ta. Việc mở rộng phạm vi sử dụng đã làm rõ những điểm không hợp lý của hệ thống phân loại này. Viện Điều tra Quy hoạch rừng đã dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau, cải tiến cho phù hợp hơn với đặc điểm rừng tự nhiên nước ta và cho đến nay vẫn áp dụng hệ thống này vào việc phân loại trạng thái rừng hiện tại phục vụ công tác quy hoạch, thiết kế kinh doanh rừng tự nhiên. Thái Văn Trừng (1978) [42] trên quan điểm sinh thái đã xây dựng hệ thống phân loại thảm thực vật. Tác giả chia rừng tự nhiên Việt Nam thành 14 kiểu thảm thực vật. Công trình này đặt nền móng cho việc phân chia rừng tự nhiên của nước ta một cách tổng quát. Xuất phát từ tính đa dạng, phong phú của rừng nhiệt đới, kết luận: không thể dùng quần hợp thực vật làm đơn vị phân loại cơ bản như các tác giả đã sử dụng ở vùng ôn đới. Ông đề xuất dùng kiểu thảm thực vật làm đơn vị phân loại cơ bản và lấy hình thái, cấu trúc quần thể làm tiêu chuẩn phân loại. Những nhóm nhân tố sinh thái tham gia tác động trong quá trình hình thành các kiểu thảm thực vật gọi là những nhóm nhân tố sinh thái phát sinh. Thái Văn Trừng phân biệt thành 5 nhóm nhân tố: Địa lý - địa hình; Khí hậu – thuỷ văn; Đá mẹ – thổ nhưỡng; Khu hệ thực vật; Sinh vật và con người. Đây là cấp phân loại lớn, kiểu thảm thực vật chưa phải là cấp phân loại cơ bản nhỏ nhất, để từ đó đề xuất biện pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho từng đối tượng. Vũ Đình Huề (1984) [11] đã tiến hành phân chia trạng thái rừng phục vụ công tác kinh doanh rừng căn cứ vào trạng thái hiện tại (những trạng thái này thường được phân chia theo hệ thống phân loại rừng của Loeschau). Vũ Biệt Linh (1984) [21] khi bàn về vấn đề phân chia rừng theo hệ thống phân loại kinh doanh đã xác định cần phân chia rừng, đất rừng theo mục đích, nội dung, phương thức biện pháp kinh doanh nhằm tổ chức và định hướng tác nghiệp kinh doanh theo các đối tượng khác nhau để đạt được hiệu quả cần thiết. Vũ Đình Phương (1987-1988) [30] đã dựa vào các đặc trưng như: nhóm sinh thái tự nhiên, giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo rừng bằng
  13. 12 con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình, đặc điểm thổ nhưỡng để phân chia rừng thành những lô khác nhau phục vụ điều chế rừng. Bảo Huy (1993) [12] đã xác định trạng thái rừng hiện tại của các lâm phần Bằng lăng ở Tây nguyên theo hệ thống của Loeschau, đồng thời tác giả cũng xác định các loại hình xã hợp thực vật với các ưu hợp khác nhau thông qua trị số IV%. Đào Công Khanh (1996) [17] đã căn cứ vào tổ thành các loài cây mục đích để phân loại rừng phục vụ cho việc xác định các biện pháp lâm sinh. Lê Sáu (1996) [36] khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc để đề xuất phương thức khai thác chọn cho rừng kín thường xanh ở Kon Hà Nừng, đã phân loại trạng thái các lâm phần dựa trên bảng phân loại Loeschau. Tóm lại, các tác giả đều cho rằng: việc phân loại tài nguyên rừng ở Việt Nam là rất cần thiết cho nghiên cứu, cũng như phục vụ sản xuất kinh doanh. Tuỳ mục tiêu cụ thể mà xây dựng các phương pháp phân chia khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích làm rõ thêm các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. 1.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng Nghiên cứu về cấu trúc rừng chính là cơ sở để quản lý và sử dụng rừng bền vững. Vì thế trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về cấu trúc rừng ở nước ta đã được nhiều tác giả quan tâm.  Cấu trúc tầng thứ Ở Việt Nam, cấu trúc tầng thứ được nghiên cứu chưa nhiều, nhất là theo hướng lượng hóa. Có thể điểm qua một số công trình của các tác giả sau: Thái Văn Trừng (1978) [42] đã phân rừng nhiệt đới nước ta thành 5 tầng: Tầng vượt tán, tầng ưu thế, tầng sinh thái, tầng dưới tán, tầng cây bụi thấp, tầng cỏ quyết và chỉ ra độ cao giới hạn cho các tầng nhưng cũng chỉ mang tính chất định tính. Nguyễn Văn Trương (1973, 1983, 1984) [43, 44, 45] khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài cũng xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng. Tác giả đã phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ giới.
  14. 13 Vũ Đình Phương (1988) [30], xuất phát từ các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước nhận định rằng: việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng thường xanh là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Nhưng bằng phương pháp định lượng để xác định giới hạn của các tầng này chỉ có thể làm được khi có sự phân tầng “rõ rệt”, có nghĩa là khi rừng đã phát triển ổn định và theo tác giả thì rừng lá rộng thường xanh ở miền Bắc nước ta ở vào giai đoạn ổn định thường có 3 tầng. Lê Minh Trung (1991) [46] cũng xuất phát từ quan điểm của Vũ Đình Phương, áp dụng phân chia tầng thứ cho các lâm phần phục hồi ổn định ở Gia Nghĩa – Đắk Nông và đã đi đến kết quả là xác định tầng thứ cho 3 dạng ưu hợp: Giổi xanh, Dầu đỏ và Bằng lăng. Nhìn chung, sự phân tầng rừng nhiệt đới đã được các tác giả trên đề cập và giải quyết bằng nhiều phương hướng khác nhau, nhưng đều chung một quan điểm, đó là: có sự phân tầng trong rừng tự nhiên nhiệt đới và sự phân tầng này cần phải được định lượng hóa thông qua các trắc đồ và công cụ toán học.  Phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3) Thống kê các công trình nghiên cứu về rừng tự nhiên ở Việt Nam cho thấy, phân bố N/D1.3 của tầng cây cao (D6cm) có 2 dạng chính sau: - Dạng giảm liên tục và có nhiều đỉnh phụ hình răng cưa. - Dạng một đỉnh hình chữ J. Với mỗi dạng cụ thể, các tác giả chọn những mô hình toán học thích hợp để mô phỏng. Khi lập biểu thể tích cây đứng rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam, Đồng Sỹ Hiền (1974) [10] đã nghiên cứu nhiều lâm phần trên các địa phương khác nhau và đi đến kết luận chung là: dạng tổng quát của phân bố N/D là phân bố giảm nhưng do quá trình khai thác chọn thô không theo quy tắc, nên đường thực nghiệm thường có dạng hình răng cưa. Với kiểu phân bố thực nghiệm như vậy, tác giả đã dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để mô phỏng quy luật cấu trúc đường kính cây rừng.
  15. 14 Nguyễn Văn Trương (1983) [44] đã thử nghiệm dùng các hàm mũ, logarit, phân bố Poisson và phân bố Pearson để biểu thị cấu trúc N/D của rừng tự nhiên hỗn loài. Nguyễn Hải Tuất (1986) [48] sử dụng phân bố khoảng cách mô tả phân bố thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ kính bắt đầu đo. Trần Văn Con (1991) [6] đã sử dụng phân bố Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính cho rừng khộp ở Tây Nguyên. Lê Minh Trung (1991) [46] thử nghiệm mô phỏng phân bố N/D rừng tự nhiên ở Gia Nghĩa – Đắk Nông bằng 4 dạng hàm: Poisson, Weibull, Hyperbol và Meyer và đã cho nhận xét là: phân bố Weibull là thích hợp nhất. Bảo Huy (1993) [10] thử nghiệm mô phỏng phân bố thực nghiệm N/D cho rừng ưu thế Bằng lăng ở Đắk lắk theo các dạng phân bố: Poisson, Khoảng cách, Hình học, Weibull và Meyer và đã rút ra nhận xét: So với các phân bố khác thì phân bố khoảng cách thích hợp hơn cả. Trần Xuân Thiệp (1996) [49], Lê Sáu (1996) [36] đã khẳng định phân bố Weibull là tốt hơn hẳn các phân bố khác trong việc mô tả phân bố N/D cho tất cả các trạng thái rừng tự nhiên, cho dù phân bố thực nghiệm có dạng giảm liên tục hay một đỉnh. Đào Công Khanh (1996) [17] thì cho rằng, mô tả phân bố N/D theo dạng tần số lũy tích thích hợp hơn, vì biến động của đường thực nghiệm này nhỏ hơn rất nhiều so với biến động số cây hay % số cây ở các cỡ kính.  Phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N/Hvn) Những nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) [10] cho thấy phân bố số cây theo chiều cao (N/H) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu tầng phức tạp của rừng chặt chọn. Một số tác giả khác như Bảo Huy (1993) [12], Đào Công Khanh (1996) [17], Lê Sáu (1996) [36] đã nghiên cứu phân bố N/H để tìm tầng tích tụ tán cây. Các tác giả đều đi đến nhận xét chung là, phân bố N/H có dạng một đỉnh, nhiểu đỉnh phụ hình răng cưa và mô tả thích hợp nhất bằng hàm Weibull.
  16. 15 Trần Xuân Thiệp (1996) [49] sau khi thử nghiệm các hàm Meyer, Weibull để mô phỏng kết cấu N/H cho rừng Hương Sơn – Hà Tĩnh cũng đã nhận định: sự phù hợp giữa phân bố lý thuyết và thực tế cho phép dựa vào hàm Weibull để điều tiết rừng trong giai đoạn quá độ chuyển hóa về rừng chuẩn cũng như trong quá trình kinh doanh rừng bền vững.  Xây dựng mô hình cấu trúc mẫu Nguyễn Văn Trương (1973, 1986) [43, 44, 45] đã đề xuất mô hình cấu trúc mẫu định lượng bằng toán học phục vụ công tác khai thác, nuôi dưỡng rừng. Theo tác giả, mô hình cấu trúc mẫu là những mô hình hoàn thiện nhất đã có trong thiên nhiên và trên cơ sở khắc phục những tồn tại lớn mà sự ngẫu nhiên của thiên nhiên mang lại. Nguyễn Hồng Quân (1982-1984) [32, 33, 34] đã xây dựng mô hình cấu trúc cho các kiểu rừng trên cơ sở sử dụng hàm mũ theo dạng Meyer để phân cấp các lâm phần chặt chọn bằng cách thay đổi hệ số góc của phương trình khi điều kiện hoàn cảnh thay đổi. Lê Minh Trung (1991) [41] đã vận dụng phương pháp này để xây dựng cấu trúc mẫu trên 3 cấp năng suất cho rừng tự nhiên hỗn loài ở Đắk Nông, làm cơ sở đề xuất hướng khai thác và nuôi dưỡng rừng. Vũ Biệt Linh (1984) [21] đưa ra kết cấu chuẩn và coi đó là kết cấu được lấy làm mức cần phải đạt được trong mục tiêu tạo rừng cho mỗi loại rừng mục đích, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi loại rừng đó và đặc biệt là ở giai đoạn đưa vào sử dụng. Nguyễn Ngọc Lung (1985) [22] đã cho rằng, trong thực tiễn sản xuất, sau khi phân chia rừng ra các loại, mỗi loại thuần nhất về một số mặt nào đó như tổ thành, tầng thứ, phân bố số cây theo kích cỡ có thể chọn được một loại trong lô tốt nhất, có trữ lượng cao, năng suất cao, sinh trưởng tốt, tổ thành hợp lý nhất, có đủ thế hệ cây gỗ và cho sản lượng ổn định, ta coi là mẫu chuẩn tự nhiên. Và đây cũng chính là cái mà con người cần hướng tới trong quá trình kinh doanh rừng. Xuất phát từ lý thuyết mẫu chuẩn tự nhiên của Nguyễn Ngọc Lung, Bảo Huy (1993) [12] đã lựa chọn và xác lập các mô hình N/D mẫu cho từng đơn vị phân loại của rừng Bằng lăng ở Tây
  17. 16 Nguyên. Từ đó, tác giả đã đề xuất điều chỉnh cấu trúc N/D theo cấu trúc mẫu hoặc đồng dạng trong phạm vi bé hơn đường kính giới hạn khai thác. Phùng Ngọc Lan (1986) [23] đã quan niệm: mô hình cấu trúc mẫu là mô hình có khả năng tận dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa, có sự phối hợp hài hoà giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra một quần thể rừng có sản lượng, tính ổn định và chức năng phòng hộ cao nhất, nhằm đáp ứng mục tiêu kinh doanh nhất định. Vũ Đình Phương (1987) [29] cũng đồng quan điểm trong việc xây dựng mô hình cấu trúc rừng và vốn rừng, cho rằng cần phải tìm trong tự nhiên những cấu trúc mẫu có năng suất cao đáp ứng mục tiêu kinh tế trong từng khu vực. Quan điểm này cũng được tác giả Nguyễn Hồng Quân đồng thuận khi cho rằng: Cấu trúc rừng lý tưởng là cấu trúc mà ở trạng thái đó rừng đạt năng suất gỗ cao nhất hay nói cách khác là tăng trưởng rừng về thể tích đạt cao nhất (Báo cáo tư vấn cho SFDP Sông Đà, 8/2004). Phạm Văn Điển (2006) đã quan niệm mô hình cấu trúc rừng chuẩn là mô hình: (a) - phân bố tiết diện ngang thân cây trên bề mặt đất tương đối đồng đều, chênh lệch không quá hai lần giữa các ô thứ cấp; (b) - phân bố số cây theo cỡ đường  D kính tuân theo luật giảm hàm Meyer (N =  .e ); và đảm bảo tổng tiết diện ngang, trữ lượng rừng đạt tới một trị số nhất định sao cho rừng không bị suy thoái. Tác giả đã chứng minh được sự đảm bảo của hai điều kiện (a) và (b), từ đó đề xuất mô hình cấu trúc rừng chuẩn cho rừng sản xuất gỗ tại xã Quyết Chiến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Dựa trên các mô hình lý thuyết này, Helvetas và cộng đồng địa phương đã tổ chức điều tra và lập kế hoạch khai thác rừng, đã có hơn 50 ha rừng được cộng đồng khai thác nhằm phục vụ những nhu cầu thiết yếu trong đời sống và một ít cho thương mại. Bảo Huy (2007) đã nghiên cứu thiết lập mô hình rừng ổn định nhằm phục vụ cho việc quản lý rừng cộng đồng. Mô hình này dựa vào cấu trúc N/D có dạng phân bố giảm. Tác giả đã đề xuất mô hình rừng ổn định có dạng đồng dạng chuẩn trên cơ sở vốn rừng tối thiểu được tính bằng tổng tiết diện ngang.
  18. 17 Trong lĩnh vực này các tác giả đều xây dựng các cấu trúc mẫu từ nghiên cứu cơ sở, các quy luật kết cấu, từ đó đề xuất các giải pháp tác động vào rừng. Các mẫu này đều được xây dựng trên cơ sở các mẫu tự nhiên đã chọn lọc và được coi là ổn định, có năng suất cao nhất thông qua số liệu quan sát. Cấu trúc mẫu được quan tâm nhiều nhất là quy luật phân bố N/D1.3, nó là cơ sở cho việc khai thác và nuôi dưỡng thông qua việc điều chỉnh cấu trúc này.  Tương quan giữa chiều cao với đường kính (Hvn-D1.3) Thực tiễn điều tra cho thấy, có thể dựa vào quan hệ H-D xác định chiều cao tương ứng cho từng cỡ kính mà không cần thiết đo cao toàn bộ. Tuy nhiên, về phương trình toán học cụ thể biểu thị quan hệ này lại phong phú và đa dạng. Với rừng tự nhiên nước ta, Đồng Sỹ Hiền (1974) [10] đã sử dụng phương trình Logarit hai chiều hoặc hàm mũ để mô tả quan hệ H-D đồng thời cho thấy khả năng sử dụng một phương trình chung cho cả nhóm loài cây có tương quan H-D thuần nhất với nhau. Vũ Đình Phương (1985) [28] cho rằng, có thể lập biểu cấp chiều cao lâm phần Bồ đề tự nhiên từ phương trình Parabol bậc 2 mà không cần phân biệt cấp đất và tuổi. Vũ Nhâm (1988) [26], Phạm Ngọc Giao (1995) [9] dùng phương trình Logarit một chiều xác lập quan hệ H-D cho các lâm phần Thông đuôi ngựa. Bảo Huy (1993) [12], khi nghiên cứu tương quan H-D của một số loài cây ưu thế: Bằng lăng, Cẩm xe, Kháo và Chiêu liêu ở rừng rụng lá và nửa rụng lá khu vực Tây Nguyên đã thử nghiệm 4 phương trình: H = a + b.D1.3 (1.5) H = a + b.logD1.3 (1.6) LogH = a + b.logD1.3 (1.7) LogH = a + b.D1.3 (1.8) Kết quả đã chọn được dạng phương trình thích hợp nhất, là phương trình (1.7).
  19. 18 Bảo Huy (1993) [12], Đào Công Khanh (1996) [17] đã sử dụng phương trình (1.7) để biểu diễn quan hệ H-D cho rừng ưu thế Bằng lăng ở Đắk Lắc và rừng tự nhiên hỗn loài ở Hương Sơn – Hà Tĩnh.  Tương quan đường kính tán với đường kính ngang ngực (DT – D1.3) Vũ Đình Phương (1985) [28] đã khẳng định giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực của cây rừng tự nhiên Việt Nam tồn tại mối quan hệ mật thiết theo dạng đường thẳng. Tác giả đã thiết lập phương trình cho một số loài cây lá rộng như: Ràng ràng, Vạng, Lim xanh, Chò chỉ trong lâm phân hỗn giao khác tuổi để phục vụ công tác điều chế rừng. Nguyễn Ngọc Lung và các cộng sự (1985) [22] đã xây dựng biểu tỉa thưa tạm thời và biểu thể tích cây đứng tạm thời cho Keo lá tràm, trên cơ sở xác lập mối quan hệ giữa DT – D1.3 và mối quan hệ giữa các nhân tố điều tra với thể tích thân cây.  Cấu trúc tổ thành Đây là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc sinh thái và hình thái khác của rừng. Tổ thành rừng là chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá mức độ đa dạng sinh học, tính ổn định, tính bền vững của hệ sinh thái rừng. Cấu trúc tổ thành đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam đề cập trong công trình nghiên cứu của mình. Trần Ngũ Phương (1963) [31] đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên được nghiên cứu là tổ thành và thông qua đó một số quy luật phát triển của các hệ sinh thái rừng được phát hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất. Bảo Huy (1993) [12] và Đào Công Khanh (1996) [17] khi nghiên cứu tổ thành loài cây đối với rừng tự nhiên ở Đắk Lăk và Hương Sơn – Hà Tĩnh đều xác định tỷ lệ tổ thành của các nhóm loài cây mục đích, nhóm loài cây hỗ trợ và nhóm loài cây phi mục đích cụ thể, đề từ đó đề xuất biện pháp khai thác thích hợp cho từng đối tượng theo hướng điều chỉnh tổ thành hợp lý.
  20. 19 Lê Sáu (1996) [36] và Trần Cẩm Tú [50] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở Kon Hà Nừng – Gia Lai và Hương Sơn – Hà Tĩnh đều xác định danh mục các loài cây cụ thể theo cấp tổ thành và các tác giả đều kết luận sự phân bố của một số loài cây theo cấp tổ thành tuân theo hàm phân bố giảm. Cấp tổ thành càng cao số loài càng giảm. Ngô Minh Mẫn (2005) [24] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tại Vườn Quốc gia Cát Tiên đã kết luận, phân bố của số lượng loài cây theo cấp tổ thành của trạng thái IIIA1, IIIA2 tuân theo phân bố khoảng cách. Võ Văn Sung (2005) [37] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ven biển tại khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu cũng cho thấy cấu trúc tổ thành ở trạng thái IIB và IIIA2 tuân theo phân bố khoảng cách. 1.2.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng Rừng nhiệt đới Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới nói chung, nhưng do phần lớn là rừng thứ sinh bị tác động của con người nên những quy luật tái sinh đã bị xáo trộn nhiều. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tái sinh rừng nhưng tổng kết thành quy luật tái sinh cho từng loại rừng thì còn rất ít. Các kết quả nghiên cứu về tái sinh mới chỉ đề cập trong các công trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học hoặc công bố trên các tạp chí lâm nghiệp. Nổi bật có công trình của Thái Văn Trừng (1963, 1978) 42 khi nghiên cứu về “Thảm thực vật rừng Việt Nam” đã kết luận: ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng. Nếu các điều kiện khác của môi trường sống như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và theo thời gian mà diễn thế theo những phương thức tái sinh có quy luật nhân quả giữa sinh vật và môi trường. Vũ Đình Huề (1975) 11] từ kết quả điều tra tái sinh tự nhiên theo các “loại hình thực vật ưu thế” rừng thứ sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn (1969) của Viện Điều tra – Quy hoạch rừng từ năm 1962 – 1969, đã tổng kết và rút ra nhận xét: Tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2