intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh của quần xã thực vật rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi, làm cơ sở đề xuất giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động tại tỉnh Quảng Ninh

Chia sẻ: Tri Lễ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

9
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm xác định được một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh của quần xã thực vật rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi, làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp lâm sinh hợp lý. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh của quần xã thực vật rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi, làm cơ sở đề xuất giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động tại tỉnh Quảng Ninh

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu cấu trúc và tái sinh rừng nhằm duy trì rừng như một hệ sinh thái ổn định, có sự hài hoà của các nhân tố cấu trúc, lợi dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa và phát huy bền vững các chức năng có lợi của rừng cả về kinh tế, xã hội và sinh thái là rất cần thiết. Do sự tác động vào rừng ngày càng tăng của con người và xã hội đã làm cho rừng ở nước ta bị suy giảm về số lượng và chất lượng, làm hạn chế các lợi ích thu được từ rừng. Theo tài liệu thống kê năm 2008 của Cục Kiểm Lâm, tổng diện tích rừng của Việt Nam vào khoảng 12 triệu hecta, trong đó có 10 triệu hecta là rừng tự nhiên và có tới 60% diện tích rừng tự nhiên của nước ta là rừng nghèo kiệt, có trữ lượng thấp. Đứng trước thực trạng đó, trong những năm qua, chủ trương của nhà nước hạn chế khai thác, tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên nhằm bảo vệ và phục hồi rừng, nhưng trên thực tế việc khoanh nuôi phục hồi rừng chủ yếu là khoanh vùng bảo vệ, hầu như ít tác động bằng biện pháp kỹ thuật. Theo nhiều tài liệu, ở các tỉnh Bắc bộ có gần 500.000 ha rừng đã được khoanh nuôi thì có đến 70-80% diện tích rơi vào thực trạng đó. Đây là nguyên nhân làm cho tốc độ phục hồi rừng còn chậm, nhiều khu rừng sau khoanh nuôi vẫn không thành công hoặc thành công ở mức độ rất hạn chế. Do đó, yêu cầu cấp thiết là cần có những biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng sau khoanh nuôi để sớm đạt được các mục tiêu đặt ra nhằm kinh doanh rừng có hiệu quả. Xã Sơn Dương và Tân Dân thuộc Huyện Hoành Bồ - Tỉnh Quảng Ninh có diện tích rừng tương đối phong phú và đa dạng, là hai xã miền núi chủ yếu có rừng phòng hộ và một số diện tích rừng sản xuất. Về cơ bản diện tích đất lâm nghiệp đã được giao cho các lâm trường, ban quản lý rừng phòng hộ và các hộ gia đình quản lý, nguồn thu chủ yếu dựa vào sản xuất nông - lâm. Trong đó lâm nghiệp là thế mạnh tiềm năng của hai xã. Nhưng việc khai thác chưa hợp lý, phương thức canh tác chủ yếu là đốt nương làm rẫy, chăn thả gia súc bừa bãi người dân chưa có ý thức bảo vệ… đã làm cho diện tích rừng tự nhiên trên địa bàn bị thu hẹp, chất lượng và khả năng phòng hộ của rừng bị suy giảm, đặc biệt là diện tích rừng thứ sinh nghèo tăng lên rõ rệt.
  2. 2 Từ thực tế trên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh của quần xã thực vật rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi, làm cơ sở đề xuất giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động tại tỉnh Quảng Ninh” làm cơ sở đề xuất các biện pháp nuôi dưỡng, phục hồi rừng tự nhiên ở khu vực nghiên cứu.
  3. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Ở ngoài nước 1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng Cấu trúc rừng được nhiều tác giả trên thế giới và Việt Nam đề cập từ đầu thế kỷ 20. Những nghiên cứu này đều có xu hướng xây dựng các cơ sở lý luận có tính khoa học phục vụ công tác quản lý kinh doanh rừng. Bước đầu đi từ định tính, sau đó đến định lượng với quy luật phát triển tự nhiên của hệ sinh thái rừng, góp phần làm sáng tỏ, giải quyết được nhiều vấn đề trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn. Cấu trúc rừng là hình thức biểu hiện bên ngoài của những mối quan hệ qua lại bên trong giữa thực vật với nhau và giữa chúng với môi trường sống (chủ yếu là mối quan hệ qua lại giữa các cá thể cây rừng với môi trường sống) đã tạo nên một hệ sinh thái rừng có cấu trúc ổn định, bền vững. Từ đó làm cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp vào rừng nhằm duy trì hay cải tạo mối quan hệ đó theo hướng có lợi để phát huy hết tiềm năng, chức năng của rừng phục vụ lợi ích con người. Trong một thời gian dài, vấn đề duy trì, điều tiết cấu trúc rừng được bàn luận và có rất nhiều quan điểm khác nhau, đặc biệt là việc đề xuất các tác động xử lý đối với rừng tự nhiên nhiệt đới. Nhiều phương thức lâm sinh ra đời và được thử nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như phương thức rừng đều tuổi ở Malaysia (MUS, 1945), phương thức chặt cải thiện tái sinh (RIF, 1927)… Baur G (1964) [1] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học nói chung và cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Theo tác giả các phương thức xử lý đều có hai mục tiêu rõ rệt: “Thứ nhất là cải thiện rừng nguyên sinh vốn thường hỗn loài và không đồng tuổi bằng cách đào thải những cây quá thành thục và vô dụng để tạo không gian sống thích hợp cho các loài cây còn lại sinh trưởng”, “Thứ hai là tạo lập tái sinh bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh nhân tạo hoặc giải phóng lớp cây tái sinh sẵn có đang ở trạng thái ngủ để thay thế cho những cây đã lấy ra khỏi rừng trong khai
  4. 4 thác hoặc trong chăm sóc nuôi dưỡng rừng sau đó”. Từ đó tác giả đã đưa ra những tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý cải thiện rừng mưa. Cationt R, (1965), [7] nghiên cứu cấu trúc rừng, hình thái rừng thông qua việc biểu diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến. Odum E.P (1971) [39] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh thái học. Khi nghiên cứu tổ thành rừng tự nhiên nhiệt đới thành thục, Evans, J, (1984) xác định, có tới 70 - 100 loài cây gỗ trên 1 ha, nhưng hiếm có loài nào chiếm hơn 10% tổ thành loài. Richards P.U, (1952) [24] đã đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng mưa nhiệt đới về mặt hình thức. Theo tác giả này một đặc điểm nổi bật của rừng mưa nhiệt đới là tuyệt đại bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Rừng mưa thường có nhiều tầng (ba tầng, ngoại trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong đó, các loài có đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây. “Rừng mưa thực sự là một quần lạc hoàn chỉnh và cầu kỳ nhất về mặt cấu tạo và cũng phong phú nhất về mặt loài cây”. Khi nghiên cứu định tính chuyển sang nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng nhiều tác giả đã sử dụng các công thức và hàm toán học để mô hình hoá cấu trúc rừng, nhằm xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng. Các nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng còn phát triển mạnh mẽ khi các hàm toán học được đưa vào sử dụng để mô phỏng các quy luật kết cấu lâm phần. Rollet B.L (1971) [41] là tác giả có nhiều công trình đi sâu vào lĩnh vực và đối tượng này. Ông đã biểu diễn mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng các hàm hồi quy, phân bố đường kính ngang ngực, đường kính tán bằng các dạng phân bố xác xuất, Belly (1973) [32] sử dụng các hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc đường kính thân cây Thông, tuy nhiên việc sử dụng các hàm toán học không thể phản ánh hết những mối quan hệ sinh thái giữa các cây rừng với nhau và giữa chúng với hoàn cảnh xung quanh. Meyer (1934) đã mô tả phân bố N - D1.3 bằng phương trình toán học có dạng đường cong giảm liên tục và được gọi là phương trình Meyer.
  5. 5 Nhìn chung các nghiên cứu về cấu trúc theo định lượng trên cơ sở thống kê sinh học vẫn tập trung vào giải quyết phân bố số cây theo cỡ kính. Các hàm toán học được sử dụng để mô phỏng quy luật này rất đa dạng và phong phú. Xu hướng nghiên cứu các quy luật phân bố của các nhân tố điều tra thông qua các hàm toán học để tìm ra hàm phù hợp nhất. Qua thực tế nghiên cứu thì rất khó có một hàm toán học nào có thể phù hợp một cách tuyệt đối các quy luật này của rừng tự nhiên. Việc nghiên cứu tầng thứ ở rừng nhiệt đới có nhiều quan điểm trái ngược nhau trong việc xác định tầng thứ, trong đó có ý kiến cho rằng, rừng nhiệt đới chỉ có một tầng cây gỗ vì không thể tìm thấy ở đây một giới hạn rõ rệt nào trong tầng cây gỗ. Beard (1964) không thừa nhận sự phân tầng trong rừng Trindad. Odum E.P (1971) [39] nghi ngờ sự phân tầng rừng rậm nơi có độ cao dưới 600m ở Puecto - Rico và cho rằng không có sự tập trung khối tán ở một tầng riêng biệt nào cả. Nhưng ngược lại với ý kiến trên, có nhiều tác giả cho rằng rừng lá rộng thường xanh có từ 3 - 5 tầng. Có tác giả giới thiệu tầng thứ theo hướng định tính với các tầng sinh thái khác nhau. Richards (1939) phân rừng ở Nigeria thành 6 tầng với các giới hạn chiều cao là 6 - 12m, 12 - 18m, 18 - 24m, 24 - 30m, 30 - 36m và 36 - 42m. Nhưng thực chất đây chỉ là các lớp chiều cao. Đến năm (1952) Richard [24] đã phân tầng ở Sarawk thành 3 tầng cây gỗ với giới hạn chiều cao 8m, 18m, 34m, một tầng cây bụi, có hay không có tầng cỏ dưới cùng. Stevenson (1940) đã chia rừng rậm ở Honduras thành 4 tầng (không nên giới hạn các tầng), Schulz (1960) cũng nói đến tầng thứ nhưng cũng nghi nhận những trạng thái trung gian (phân tầng không rõ nét ở một số tầng thứ). Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ, các tác giả thường đưa ra những nhận xét mang tính định tính, phân chia tầng theo chiều cao mang tính cơ giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự nhiên nhiệt đới. Tóm lại, trên thế giới các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú đa dạng, có nhiều công trình nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng. Tuy nhiên, chưa thấy một công trình nào nghiên cứu đầy đủ.
  6. 6 1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện cả một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những nơi có hoàn cảnh rừng, dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Sự xuất hiện lớp cây con là nhân tố mới làm phong phú thêm về số lượng và thành phần loài cây, đóng góp vào việc hình thành tiểu hoàn cảnh rừng, làm thay đổi quá trình trao đổi vật chất và năng lượng diễn ra trong hệ sinh thái. Do đó, tái sinh rừng hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng. Về phương pháp điều tra tái sinh nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống do Lowdermik (1927) đề nghị, với diện tích ô đo đếm thông thường từ 1 - 4m2. Diện tích ô đo đếm như vậy thuận lợi trong điều tra nhưng dung lượng mẫu (số ô đo đếm) phải đủ lớn thì mới phản ánh được hiện tượng tái sinh. Phương pháp điều tra theo dải hẹp cũng được sử dụng với các ô đo đếm có diện tích từ 10 - 100m2. Phương pháp này trong điều tra tái sinh sẽ khó xác định quy luật phân bố lớp cây tái sinh trên bề mặt đất rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê, Barnard (1950) đã đề nghị một phương pháp “Điều tra chẩn đoán” mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau. Hiệu quả tái sinh phụ thuộc bởi mật độ, tổ thành, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, như Mibbread (1930), Richards (1933-1939), Beard (1946), Lebrun và Gilbert, (1954) Baur (1964). Do tính phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa. Về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards. P. W (1952) [24], Bernard Rollet (1974), đã tổng kết các quá trình nghiên cứu về phân bố cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: Trong các ô có kích
  7. 7 thước nhỏ (1m x 1m; 1m x 1,5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây con. Trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ. V.G Karkov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh dưỡng khoáng trong đất, ánh sáng và độ ẩm và tính không thuần nhất giữa các loài thực vật tuỳ thuộc vào đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của quần thể thực vật. Có nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến tái sinh rừng, trong đó nhân tố được đề cập nhiều nhất là ánh sáng, độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, dây leo và thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình tài sinh rừng. Trong rừng nhiệt đới sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng tới quá trình tái sinh rừng, quá trình phát triển của cây con, cây mầm hay sự nảy mầm là rất rõ (Baur G 1976) [2]. Khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên, các tác giả nhận định thảm cỏ và cây bụi đã ảnh hưởng tới tái sinh của loài thân gỗ. Ở quần thụ kín, tuy thảm cỏ phát triển kém nhưng sự cạnh tranh dinh dưỡng của nó vẫn ảnh hưởng xấu tới tái sinh rừng. Những lâm phần đã qua khai thác, thảm cỏ có điều kiện phát triển mạnh là nhân tố ảnh hưởng xấu tới tái sinh rừng. Ghent, A.W (1969) [35] nhận xét thảm mục, chế độ nhiệt, tầng đất mặt có quan hệ với tái sinh rừng cũng cần được làm rõ. Đối với rừng nhiệt đới, số lượng loài cây trên một đơn vị diện tích và mật độ tái sinh thường khá lớn, nhưng số lượng cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp lại ít được quan tâm mặc dù chúng có vai trò sinh thái quan trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên cần phải đề cập một cách đầy đủ các loài cây xuất hiện trong lớp cây tái sinh để có những đánh giá chính xác tình hình tái sinh rừng và có những biện pháp tác động phù hợp. Các công trình nghiên cứu trên đã phần nào làm sáng tỏ về phương pháp nghiên cứu, đặc điểm tái sinh tự nhiện ở rừng nhiệt đới. Đó là những cơ sở để xây dựng các phương thức tái sinh. Trong nghiên cứu, việc điều tra đánh giá tái sinh cần lựa chọn những phương pháp phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Cần phân chia các giai đoạn tái sinh và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh tự nhiên và lựa chọn những phương pháp phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Thứ 2 là cần phân chia
  8. 8 các giai đoạn tái sinh, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh tự nhiên. Trong điều kiện nhất định, cần xác định đối tượng và giới hạn nghiên cứu cho từng loại hình rừng cụ thể. Đặc biệt sự vận dụng các quy luật tái sinh để xây dựng các giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm phục hồi và quản lý rừng bền vững. 1.1.3. Nghiên cứu về các giải pháp kỹ thuật tác động đối với rừng phục hồi sau khoanh nuôi. Trên thế giới có 2 thuật ngữ "Degraded Secondary Forest" và "Low-Value Secondary Forest" thường được sử dụng để mô tả khái niệm rừng thứ sinh nghèo như là kết quả của quá trình diễn thế rừng thứ sinh theo hướng suy thoái. Các yếu tố liên quan đến cấu trúc rừng (như cấu trúc tầng thứ, mật độ và tổ thành loài) và sản lượng rừng (trữ lượng và năng suất) thường được coi là các chỉ thị mô tả và phân loại rừng thứ sinh nghèo. Phục hồi rừng thường được hiểu là quá trình ngược lại của diễn thế thoái hóa của rừng thứ sinh nghèo nhằm khôi phục lại cấu trúc và sản lượng rừng đến gần trạng thái ban đầu. Có 3 thuật ngữ thường được sử dụng trong phục hồi rừng là Restoration (khôi phục), Rehabilitation (phục hồi), Reclamation (cải tạo). Thuật ngữ Rehabilitation nhấn mạnh đến việc phục hồi hệ sinh thái rừng tới một cấu trúc bền vững nào đó nhưng không nhất thiết phải giống như hệ sinh thái ban đầu. Trên thực tế rất khó có thể cải tạo rừng theo quan điểm "Restoration" tuyệt đối vì sẽ rất khó và rất lâu mới tạo lập được trạng thái rừng như ban đầu do đã có sự thay đổi sâu sắc về các quá trình vật chất và năng lượng ở rừng thứ sinh. Vì vậy thuật ngữ "Rehabilitation" thường được chấp nhận rộng rãi trong nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo vì đã có quan điểm thực tế hơn, không nhằm tới việc khôi phục nguyên trạng hệ sinh thái ban đầu mà chỉ nhằm đưa rừng đến trạng thái ổn định nào đó và nâng cao sản lượng lâm phần. Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về phục hồi rừng như Baur (1962), Lamprecht (1989), (38) Heikki (1995), Tucker (1997), Kruse (2003) [36], Brenman (2005)... Các nghiên cứu này tập trung vào các hướng chính: nghiên cứu về tái sinh và động thái tái sinh ở rừng thứ sinh nghèo, phân loại rừng thứ sinh nghèo, đề xuất và thử nghiệm các nhóm biện pháp kĩ thuật lâm sinh tác động (chủ yếu làm
  9. 9 giàu và cải tạo rừng), đánh giá hiệu quả sinh thái của biện pháp áp dụng. Hai hướng tác động chính trong các hoạt động phục hồi rừng là duy trì rừng tự nhiên không đều tuổi hoặc đơn giản hóa tổ thành theo hướng dẫn dắt đến rừng đồng tuổi thông qua hệ thống các biện pháp kĩ thuật lâm sinh chủ yếu là chặt cải thiện nuôi dưỡng và tái tạo lập tái sinh. Việc phục hồi rừng được thực hiện qua việc can thiệp của con người vào rừng chứ không đơn thuần là việc bảo vệ giản đơn (khoanh đóng). 1.1.3.1. Phân loại rừng thứ sinh và tác động xử lý lâm sinh: Hai nhóm nhân tố: Đặc điểm lớp thảm thực vật và đặc điểm quá trình tác động hình thành rừng thứ sinh thường được coi là cơ sở để phân loại rừng thứ sinh nghèo trên thế giới. Tùy từng tác giả mà có thể dựa vào 1 trong 2 nhóm nhân tố. Ví dụ như ITTO (2002), Cruenig (1998), IUCN (2001)), hoặc cả 2 để phân loại rừng ví dụ như của Lamprecht (1989) [38], Dư Thân Hiểu (2001) phân chia rừng làm 8 trạng thái (từ rừng thành thục đến rừng sau khai thác) và đề xuất hướng tác động kĩ thuật cho mỗi trạng thái. Ông coi các trạng thái từ 2-7 là rừng thứ sinh nghèo cần phục hồi. Nhìn chung hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đều cho thấy rừng thứ sinh nghèo là rừng ở giai đoạn diễn thế thứ sinh, nghèo về năng suất, sản lượng (của tầng cây gỗ) và không phát huy tốt sức sản xuất của lập địa. Việc tác động xử lý lâm sinh cho các rừng thứ sinh nghèo trên thế giới cũng rất đa dạng, nhưng có thể gộp thành 2 hướng xử lý lâm sinh chính: đơn giản hóa tổ thành (homogennization) và duy trì cấu trúc hỗn loài khác tuổi (Uneven-Aged Structure). Theo hướng tới mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng trữ lượng lâm phần có các phương thức như CELOS, chặt cải thiện, làm giàu rừng theo rạch với mục tiêu thúc đẩy tái sinh có các phương thức tái sinh nhân tạo (ví dụ như Method Martineau) hay tái sinh tự nhiên (ví dụ như Malayan Uniform System, Tropical Shelterwood System TSS, TSS Trinidad) theo hướng có các phương thức chặt chọn như Indonesian Selective Logging, Quesland System, hay các phương thức chặt chọn dựa vào cấp kính tối thiểu hoặc tỉa thưa cải thiện (Lamprecht, 1989) [38] Ngoài ra các phương thức liên quan đến nông lâm kết hợp cũng được đề xuất và áp dụng như Taungya System ứng dụng Kenya, Ivory Coast ...
  10. 10 Nhìn chung các xử lý lâm sinh cho rừng thứ sinh nghèo ở nước ngoài cho các kết quả không phải đều là tích cực, và rất khác nhau. Nhiều nghiên cứu khá thành công như phương thức CELOS ứng dụng ở Surinam, tuy nhiên chi phí rất cao, là cả một quá trình dài, có thiết kế cho hàng chục năm. 1.1.3.2. Xử lý lâm sinh cho rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi Hiện nay rừng sau khoanh nuôi ở một số nước châu Á như Trung Quốc, Malaysia, v.v…được phân chia thành các đối tượng kèm theo các giải pháp tác động dưới đây: - Khoanh nuôi thành công: + Rừng cây lá rộng gỗ mềm dưới 10 tuổi, rừng cây lá rộng, rừng cây lá rộng gỗ cứng dưới 20 tuổi, rừng sào, rừng trung niên có tương đối nhiều cây ưu việt mà độ tàn che dưới 0,7 đều phân chia vào loại hình nuôi dưỡng. + Đối với những lâm phần sau khoanh nuôi, nếu số lượng cây lưu giữ lại đạt đến hoặc vượt quá tiêu chuẩn cây cần lưu giữ trong chặt trung gian (chặt nuôi dưỡng) rừng thứ sinh, thì phân chia vào loại hình chăm sóc nuôi dưỡng. + Những lâm phần mà cây lưu giữ được từ 300 cây/ha trở lên có đường kính ngang ngực 6-8 cm, hoặc từ 225 cây/ha trở lên có đường kính ngang ngực lớn hơn 16cm, thì phân chia vào loại hình cải tạo chặt chọn. Phương thức cải tạo chặt chọn có ý nghĩa là, sau khi chặt chọn sẽ trồng thêm cây lá Kim chịu bóng tán các cây rừng còn lưu giữ lại, để tác động thành một rừng hỗn giao cây lá kim cây lá rộng. - Khoanh nuôi không thành công: + Nếu sau khoanh nuôi, lâm phần có số lượng cây tốt, có triển vọng tương đối ít, sau khi chặt trung gian (chặt nuôi dưỡng) không thể duy trì được ngoại hình hoàn chỉnh, hoặc đối với rừng thưa (độ tàn che nhỏ hơn 0,3) thì phân chia vào loại hình cải tạo. + Đối với những lâm phần hoặc trảng cây bụi trên đất rừng có độ dốc hơn 300 được phân chia vào loại hình cải tạo. Căn cứ vào số lượng cây mạ, cây con của loài cây mục đích nhiều có thể áp dụng phương pháp tái sinh nhân tạo, tái sinh thiên nhiên hoặc xúc tiến tái sinh thiên nhiên để cải tạo chúng thành rừng lá kim thuần loại, hoặc rừng lá rộng thuần loại, hoặc rừng hỗn giao cây lá kim cây lá rộng.
  11. 11 + Đối với những lâm phần hoặc trảng cây bụi trên đất rừng có độ dốc lớn hơn 300 được phân chia vào loại hình tái sinh trước khi chặt hoặc loại hình cải tạo theo dải (theo băng). + Một lô rừng mà có hai loại hình cải tạo lâm phần sẽ được phân chia vào loại hình cải tạo tổng hợp. 1.2. Ở trong nước 1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng Nghiên cứu cấu trúc rừng là nội dung quan trọng, làm cơ sở khoa học trong việc đề xuất các giải pháp kỹ thuật tác động phù hợp nhằm xây dựng các mô hình kiểu rừng ổn định bền vững. Tuy nhiên, các kiểu rừng phong phú đa dạng do đó cấu trúc rừng là một vấn đề có nội dung phức tạp khó bao quát toàn bộ. Chỉ những đặc trưng cấu trúc có liên quan đến đề tài mới được đề cập. Các công trình nghiên cứu về cơ sở khoa học như: Trần Ngũ Phương (1970) [22] đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình rừng miềm Bắc Việt Nam từ năm 1961 - 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên được nghiên cứu là tổ thành và thông qua đó phát hiện một số quy luật phát triển của hệ sinh thái rừng và được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất. Khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở nước ta, Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) [27] đã mô tả cấu trúc tầng thứ gồm: Tầng vượt tán (A1), tầng ưu thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3), tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Thái Văn Trừng đã tiến hành vận dụng và cải tiến, bổ sung phương pháp biểu đồ và mặt cắt của David và Richards để nghiên cứu cấu trúc rừng Việt Nam. Trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được vẽ và có ghi kí hiệu thành phần loài cây của quần thể đối với những đặc trưng sinh thái và vật hậu cùng biểu đồ khí hậu, ví trị địa lí, địa hình. Bên cạnh đó, tác giả này còn dựa vào 4 tiêu chuẩn để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt Nam, đó là dạng sống ưu thế của những thực vật trong tầng cây lập quần, độ tàn che của tầng thứ ưu thế sinh thái, hình thái của nó và trạng thái của tán lá. Với những quan điểm trên Thái Văn Trừng đã phân chia thảm thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu. Như vậy, các nhân tố cấu trúc rừng được vận
  12. 12 dụng triệt để trong phân loại rừng theo quan điểm sinh thái phát sinh quần thể. Nguyễn Văn Trương (1983) [26] khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài đã xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ giới. Từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Vũ Đình Phương (1978) đã nhận định, việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng thường xanh là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Nhưng chỉ trong trường hợp rừng có sự phân tầng rõ rệt (khi đã phát triển ổn định) mới sử dụng phương pháp định lượng để xác định giới hạn của các tầng cây. Đào Công Khanh (1996) [17] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn - Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất biện pháp lâm sinh phục vụ khai thác và nuôi dưỡng. Nguyễn Anh Dũng (2000) [8] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng là: IIA và IIA1 ở lâm trường Sông Đà, Hoà Bình. Trong những năm gần đây, do có sự hỗ trợ của các phần mềm tính toán, nên có rất nhiều công trình nghiên cứu định lượng cấu trúc thì việc mô hình hoá cấu trúc đường kính D1.3 được nhiều người quan tâm nghiên cứư và biểu diễn chúng theo các dạng hàm phân bố xác suất khác nhau như: Theo Đồng Sỹ Hiền (1974) [13] dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson để nắm phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên làm cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam. Nguyễn Hải Tuất (1982, 1986) [31] sử dụng phân bố giảm, phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh và áp dụng quá trình Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng để mô tả phân bố thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ đường kính bắt đầu đo. Trần Xuân Thiệp (1996), Lê Sáu (1996) [25] , Trần Cẩm Tú (1991) lại cho rằng hàm Weibull là thích hợp hơn cả. Đào Công Khanh (1996) [17] cho rằng, dạng tần số tích luỹ là thích hợp hơn vì biến động của đường thực nghiệm rất nhỏ hơn nhiều so với sự biến động của số cây hay phần trăm số cây ở các cỡ kính... Phân bố số cây theo chiều cao (N/H) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn (Đồng Sỹ Hiền - 1974) [13], Thái Văn Trừng (1978) [28], trong nghiên cứu của mình đã đưa ra các kết quả nghiên cứu cấu trúc của tầng cây gỗ rừng loại IV. Đào Công Khanh (1996) [17], Trần Cẩm Tú (1999) [30] đã phân bố quy luật
  13. 13 N/H để tìm tầng tích tụ tán cây. Các tác giả đều đi đến một nhận xét chung là phân bố N/H có dạng đường cong một đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình răng cưa và mô tả bằng hàm Weibull là phù hợp. Như vậy, trong thời gian qua, việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã có những bước phát triển nhanh chóng và có nhiều đóng góp nhằm nâng cao hiểu biết về rừng, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu cũng như sản xuất kinh doanh rừng. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng gần đây thường thiên về việc mô hình hoá toán học để mô tả quy luật cấu trúc rừng. Tại địa bàn nghiên cứu còn rất ít các nghiên cứu đề cập tới vấn đề nghiên cứu cấu trúc rừng chuẩn phục vụ cho mục tiêu quản lý rừng bền vững. Muốn đề xuất được giải pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp, chính xác đòi hỏi phải nghiên cứu cấu trúc rừng một cách đầy đủ. Phải đứng trên quan điểm tổng hợp về sinh thái học, lâm học và sản lượng. Mặt khác, các nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên sau khoanh nuôi thường ít đề cập cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên sau khoanh nuôi không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc nhằm đề xuất những biện pháp lỹ thuật lâm sinh tác động hợp lý. 1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng Rừng nhiệt đới Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới nói chung, nhưng phần lớn là rừng thứ sinh bị tác động của con người nên quy luật tái sinh đã bị xáo trộn nhiều. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tái sinh rừng, nhưng tổng kết thành quy luật tái sinh cho từng kiểu rừng, loại rừng còn rất hạn chế. Một số kết quả nghiên cứu về tái sinh thường được đề cập trong các công trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học và một phần công bố trên các tạp chí. Ở miền Bắc nước ta từ 1962 - 1969, Viện Điều tra Quy hoạch rừng đã điều tra tình hình tái sinh tự nhiên theo các “Loại hình thực vật ưu thế” rừng thứ sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn (1969). Đáng chú ý công trình điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu (1962 - 1964) bằng phương pháp đo điển hình. Kết quả điều tra đã được Vũ Đình Huề (1975) tổng kết trong báo cáo khoa học “Khái quát về tình hình tái sinh tự nhiên ở rừng miền Bắc Việt Nam”. Theo báo cáo, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam cũng mang
  14. 14 những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Cụ thể rừng nguyên sinh, tổ thành loài cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ, dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ mềm giá trị. Hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên mặt đất rừng. Với những kết quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái sinh áp dụng cho các đối tượng rừng là rộng ở miền Bắc nước ta. Nguyễn Hữu Hiến (1970) [12] đã đưa ra phương pháp đánh giá tổ thành rừng nhiệt đới. Tác giả cho rằng loài cây tham gia vào loại hình thì nhiều, trên diện tích 1ha có khi có tới hàng trăm loài, cùng một lúc không thể kể hết được. Vì vậy người ta chỉ kể đến loài nào có số lượng cá thể nhiều nhất trong các tầng quan trọng. Tác giả đưa ra công thức tổ thành là Xtb > N/a với Xtb là trị số bình quân của một loài, N là số cây điều tra, a là số loài điều tra. Một loài được gọi là thành phần chính của một loại hình phải có số lượng cá thể lớn hơn hoặc bằng Xtb. Đây là một cách đánh giá thuận tiện trong khi phân tích nghiên cứu phân bố các loài, diễn thế và sự phân bố các quần lạc thực vật. Mối quan hệ giữa cấu trúc và lớp cây tái sinh trong rừng hỗn loài cũng đã được đề cập trong công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Trương (1983) [26], theo tác giả cần phải thay đổi cách khai thác rừng cho hợp lý vừa cung cấp được gỗ, vừa nuôi dưỡng và tái sinh được rừng. Muốn đảm bảo cho rừng phát triển liên tục trong điều kiện quy luật đào thải tự nhiên hoạt động rõ ràng lớp cây dưới phải nhiều hơn lớp cây kế tiếp nó ở phái trên. Điều kiện này không thể thực hiện được trong rừng tự nhiên ổn định mà chỉ có trong rừng chuẩn bị có sự tái sinh liên tục đã được sự điều tiết khéo léo của con người. Phùng Ngọc Lan (1984) [19] đã nghiên cứu về bảo đảm tái sinh trong khai thác rừng. Tác giả cho biết do cây mạ có tính chịu bóng, cho nên một số lượng lớn cây tái sinh phân bố chủ yếu ở cấp chiều cao thấp trừ một số loài cây ưa sáng cực đoan, tổ thành loài tái sinh dưới tán rừng ít nhiều đều lặp lại và giống tổ thành tầng cây cao của quần thể. Từ kết quả điều tra khu rừng chưa khai thác ở Lạng Sơn đã chứng tỏ tiềm năng phong phú của tái sinh rừng ở nước ta và tác giả đã đưa ra nhận xét phương thức khai thác có ảnh hưởng quyết định đến tái sinh rừng. Trần Cẩm Tú (1998) [29] đã tiến hành nghiên cứu tái sinh sau khai thác chọn ở Hương Sơn – Hà
  15. 15 Tĩnh và đã rút ra kết luận, áp dụng phương thức xúc tiến tái sinh tự nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đáp ứng được mục tiêu sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên, các biện pháp kỹ thuật tác động phải có tác dụng thúc đẩy cây tái sinh mục đích sinh trưởng và phát triển tốt, khai thác rừng phải đồng nghĩa với tái sinh rừng, phải chú trọng đến điều tiết tầng tán của rừng, chặt cây gieo giống, phát dọn dây leo cây bụi và sau khai thác phải tiến hành dọn vệ sinh rừng. Nguyễn Vạn Thường (1991) đã tổng kết và đưa ra kết luận về tình hình tái sinh tự nhiên ở một số khu rừng miền bắc Việt Nam như sau: Hiện tượng tái sinh tự nhiên của những loài cây gỗ đã tiếp diễn liên tục, không mang tính chu kỳ. Sự phân bố cây tái sinh rất không đồng đều, số cây mạ chiếm ưu thế rõ rệt so với số cây ở cấp tuổi khác. Vũ Tiến Hinh (1991) [14] , nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của rừng tự nhiên ở Hữu Lũng Lạng Sơn và vùng Ba Chẽ Quảng Ninh đã nhận xét: Hệ số tổ thành tính theo phần trăm số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên hệ chặt chẽ. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ thành của lớp cây tái sinh cũng tăng theo. Nguyễn Thế Hưng (2003) [16] nhận xét trong lớp cây tái sinh tự nhiên ở rừng non phục hồi thành phần loại cây ưa sáng sống định cư và có đời sống lâu dài chiếm tỷ lệ lớn, thậm chí trong tổ thành cây tái sinh đã xuất hiện các loài cây chịu bóng sống dưới tán rừng rừng như Bứa, Ngát... Sự có mặt với tần số khá cao của một số loài cây ưa sáng mọc nhanh định cư và một số loài chịu bóng là dấu hiệu chuyển biến tích cực của diễn thế rừng. Tác giả kết luận, khả năng tái sinh của rừng tự nhiên của các trạng thái thực vật có liên quan nhiều đến độ che phủ, mức độ thoái hoá của thảm thực vật, phương thức tác động của con người và tổ thành loài trong quần xã. Khi nghiên cứu quy luật phát triển rừng tự nhiện miền bắc Việt Nam, Trần Ngũ Phương đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng tự nhiên như sau "Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng trên già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong, tầng kế tiếp sẽ thay thế, trường hợp chỉ có một tầng thì trong khi nó già cỗi thì có một lớp cây tái sinh xuất hiện thay thế nó sau khi nó tiêu vong hoặc cũng có thể có thảm thực vật trung gian xuất hiện thay thế, nhưng về sau dưới lớp thảm thực vật
  16. 16 trung gian này sẽ xuất hiện lại một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi" . 1.2.3. Nghiên cứu về các giải pháp kỹ thuật tác động đối với rừng phục hồi sau khoanh nuôi Nghiên cứu về rừng thứ sinh nghèo trong nước tập trung vào hai lĩnh vực chính là phân loại rừng thứ sinh nghèo và xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật tác động cho các đối tượng được phân chia. Theo Thái Văn Trừng (1970) [27], Trần Ngũ Phương (1970) [22], Phạm Xuân Hoàn (2003) [15] rừng thứ sinh nghèo được hiểu là rừng thứ sinh diễn thế theo hướng thoái hóa với đặc điểm là có quy luật cấu trúc không rõ ràng và nghèo về tổ thành cây mục đích, trữ lượng và cả sức sản xuất (biểu hiện ở tổ thành và số lượng cây tái sinh giá trị có triển vọng và sự suy giảm sức sản xuất của lập địa). Quan điểm này là khá tương đồng với các quan điểm về rừng thứ sinh nghèo trên thế giới. 1.2.3.1. Phân loại rừng thứ sinh nghèo và tác động xử lý lâm sinh. Ở Việt Nam, các nghiên cứu phân loại trạng thái rừng nói chung và phân loại rừng thứ sinh nghèo nói riêng bắt đầu khá sớm với các nghiên cứu của Loschau (1963), Thái Văn Trừng (1970) [27] và các quy phạm sau này do nhà nước ban hành, như QPN 6-84. Các nghiên cứu và quy phạm này hầu hết đều dựa vào quan điểm đánh giá tài nguyên (như Loschau) trên cơ sở xem xét đặc điểm của tầng cây cao và lớp cây tái sinh (về cả khía cạnh định tính định lượng) để phân chia. Theo QPN 6-84, rừng được chia làm 4 nhóm trạng thái (I-IV). Dưới các nhóm lại được phân chia nhỏ làm các kiểu phụ. Theo khái niệm về rừng thứ sinh nghèo nói trên, các trạng thái rừng thuộc các nhóm Ic đến III đều có thể coi là rừng thứ sinh nghèo, tuy ở các mức độ khác nhau. Theo quy phạm QPN 14-92, các đối tượng rừng cần được đưa vào khoanh nuôi là đất chưa có rừng, đất làm nương rẫy có quá trình tái sinh diễn thế có thể phục hồi thành rừng. Theo quy phạm QPN 21-98 [3] về phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ sung, bao gồm nhiều đối tượng khác nhau, từ đất đã mất rừng do khai thác kiệt cho đến các loại rừng tre nứa phục hồi sau nương rẫy. Như vậy có thể thấy đối tượng đưa vào phục hồi bao gồm trạng thái rừng Ic đến
  17. 17 IIIA1 (vì từ IIIA2 trở đi được coi là rừng "đã có thời gian phục hồi tốt", còn các trạng thái Ia và Ib được coi là đất trống). Quy phạm QPN 21-98 [3] và quyết định số 46/2007/QĐ-BNN đưa ra các tiêu chuẩn công nhận rừng hoàn thành khoanh nuôi. Nghiên cứu của Trần Đình Đại (1990), Viện Khoa Học Lâm Nghiệp (1992), Trường Đại Học Lâm Nghiệp (1993), Trần Đình Lý (1995) [21], Nguyễn Văn Thông (2001), Vũ Tiến Hinh Và Phạm Văn Điển (2005) [11]... Các nghiên cứu này đều có nhận xét chung là khoanh nuôi phục hồi rừng là một biện pháp quan trọng có ý nghĩa trong phục hồi rừng trên cơ sở dựa vào năng lực tái sinh tự nhiên. Trần Văn Con (2008) xây dựng tiêu chí phân loại rừng nghèo để cải tạo thành rừng kinh tế. Đối tượng của đề tài này gỗ và rừng gỗ xen tre nứa nghèo kiệt 1.2.3.2. Xử lý lâm sinh cho rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi Kỹ thuật xử lý rừng tự nhiên sau khoanh nuôi là vấn đề trước đây ít có người quan tâm. Song, do gỗ rừng tự nhiên không còn khả năng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Hơn nữa các trạng thái rừng hiện nay chủ yếu là những cánh rừng đã bị khai thác kiệt. Khả năng tái sinh phục hồi thành rừng ở mức độ thấp, những khu rừng này không có giá trị về kinh tế, nghèo về đa dạng sinh học loài. Hầu hết các khu rừng Việt Nam rừng nghèo là chính. Một số địa phương đã áp dụng biện pháp khoanh nuôi phục hồi rừng đến nay đã kết thúc giai đoạn phục hồi rừng. Vì vậy, áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho xử lý rừng sau khoanh nuôi đã trở thành xu thế tất yếu trong sản xuất lâm nghiệp hiện nay. Những khu rừng này kết thúc thời gian khoanh nuôi chuyển sang nuôi dưỡng và kinh doanh rừng. Xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh xử lý rừng tự nhiên sau khoanh nuôi nhằm phát triển kinh doanh rừng theo hướng ổn định, lâu dài bền vững là giải pháp khoa học cộng nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của rừng và nâng cao hiệu quả kinh doanh rừng. Kỹ thuật xử lý rừng tự nhiên sau khoanh nuôi hiện nay là xây dựng rừng đảm bảo được các yếu tố về mặt kinh tế, sinh thái và môi trường đồng thời làm giảm áp lực về kinh tế cho các hộ gia đình kinh doanh rừng. Rừng sau khoanh nuôi là rừng đã kết thúc thời gian khoanh nuôi bước sang thời kỳ nuôi dưỡng rừng. Quy phạm QPN 14 - 92 & QPN 21 - 98 đã nêu rõ thời hạn khoanh nuôi.
  18. 18 - Rừng non Nuôi dưỡng - R ừng đã khai thác Rừng khoanh nuôi rừng - Đất nương rẫy - Tự phục hồi - Áp dụng các biện Khoanh nuôi pháp lâm sinh thành công - Bảo vệ Hình 1. 1: Sơ đồ biểu diễn các giai đoạn phục hồi rừng Rừng sau khoanh nuôi được thể hiện: - Phản ánh được hiện trạng rừng cơ bản của lâm phần - Giá trị thực tại của khu rừng - Cách quản lý rừng hiện tại - Các giải pháp lâm sinh tác động Xác định các sản phẩm từ rừng sau khoanh nuôi: - Định hướng nhu cầu - Người dân có lợi ích gì từ rừng - Tiếp tục phát triển rừng theo hướng ổn định bền vững - Tính bền vững lâu dài của rừng Hình ảnh cấu trúc rừng sau khoanh nuôi phát triển trong tương lai: - Cấu trúc theo chiều thẳng đứng - Cấu trúc theo chiều nằm ngang - Thành phần loài - Tổng hợp các loài Xây dựng các lựa chọn về các kỹ thuật xử lý lâm sinh - Tiêu chuẩn công nhận rừng sau khoanh nuôi - Phân loại đối tượng sau khoanh nuôi - Kỹ thuật lâm sinh xử lý sau khoanh nuôi - Kế hoạch hoạt động tiếp theo Công tác xử lý rừng tự nhiên sau khoanh nuôi: - Kiểm tra thực địa trên các lô rừng kết thúc thời gian khoanh nuôi - Xây dựng các giải phảp nuôi dưỡng rừng. - Thực hiện công tác xử lý rừng sau khoanh nuôi. Hình 1-2: Trình tự xây dựng mục tiêu xử lý rừng tự nhiên sau khoanh nuôi
  19. 19 Quyết định số 46/2007/QĐ-BNN ngày 28 tháng 05 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Nộng nghiệp và Phát triển nông thôn đã quy định rõ: - Đối với rừng phòng hộ, đặc dụng: + Rừng cây gỗ: Sau thời gian khoanh nuôi có ít nhất 400 cây gỗ mục đích/ha. + Rừng tre nứa, le, giang, vầu, diễn, lồ ô…(gọi chung là rừng tre nứa): Sau thời gian khoanh nuôi độ che phủ của tre nứa lớn hơn hoặc bằng 60%, tổng diện tích đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha. - Đối với rừng sản xuất + Rừng cây gỗ: Sau thời gian khoanh nuôi có ít nhất 500 cây gỗ mục đích/ha, phân bố tương đối đều trên toàn diện tích, chiều cao trung bình lớn hơn hoặc bằng 4m, tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000 m2/ha. + Rừng tre nứa: Sau thời gian khoanh nuôi độ che phủ của tre nứa đạt lớn hơn hoặc bằng 70%, số cây đạt tiêu chuẩn khai thác lớn hơn hoặc bằng 1000m2/ha. Còn đối với các loại rừng không thuộc quy định ở mục hai mục trên thì tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn xây dựng tiêu chí thực hiện. - Kỹ thuật xử lý lâm sinh Hai văn bản được đánh giá là tiêu biểu cho việc phân loại đối tượng tác động, và được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn kinh doanh rừng ở nước ta trong một thời gian dài, đó là quy phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa (QPN 14-92) được Bộ lâm nghiệp nay là Bộ NN&PTNT ban hành ngày ngày 31 tháng 3 năm 1993. Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung (QPN 21-98) [3] ban hành ngày 04 tháng 11 năm 1998. Theo các quy phạm này, các đối tượng rừng được phân loại dựa trên các tiêu chí như sau:
  20. 20 Bảng 1.1: Phân loại đối tượng tác động trong quy phạm lâm sinh Tiêu chí Gỗ lớn Gỗ nhỏ Rừng trồng, rừng tự nhiên tương đối đều tuổi sau khép tán. Rừng phục hồi trên đất nương rẫy. Rừng hỗn loài tự nhiên không đều tuổi sau khai thác chọn không Giải pháp đúng kỹ thuật. Cây cao phẩm chất Cây tái sinh có triển Cây cao Cây tái sinh có triển tôt (cây/ha). vọng (cây/ha). phẩm chất vọng (cây/ ha) tôt (cây/ha). Nuôi dưỡng ≥ 150 - 200 ≥ 500 - 600 ≥ 500 - ≥ 1000 - 1200 rừng. 600 Làm giàu Không có triển vọng xúc tiến tái sinh thành công rừng. < 150 < 500 < 500 < 1000 Xúc tiến tái Có triển vọng xúc tiến tái sinh thành công sinh. < 150 > 500 < 500 > 1000 Khoanh nuôi Đất chưa có rừng, nương rẫy cũ, bãi phù sa mới bồi lấp mà quá trình tái sinh diễn bảo vệ. thế tự nhiên đáp ứng được nhu cầu kinh tế xã hội và môi trường. Khoanh nuôi Đất đã mất rừng do khai thác kiệt. Nương rẫy bỏ hoá còn tính chất đất rừng. xúc tiến tái Trảng cỏ cây bụi xen cây gỗ, tầng đất dày trên 30 cm. sinh có trồng Rừng Tre nứa phục hồi sau khai thác, nương rẫy, có độ che phủ trên 20% diện bổ sung. tích và phân bố đều. Rừng phòng hội ở khu vực xung yếu và rất xung yếu có độ che phủ trên 40% và có khả năng tự phục hồi. Cây con tái sinh Gốc mẹ có khả năng tái sinh chồi Cây mẹ gieo giống tại mục đích (cây/ha). (cây/ha). chỗ (có nguồn gieo giống lân cận). ≥ 300 + h > 50 cm > 150 > 25 Trồng rừng. Đất lâm nghiệp chưa có rừng, đất rừng sau khai thác trắng. Rừng đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật trên nhưng không thành công. 1.3. Thảo luận Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước đã cho thấy những thành quả và tồn tại nghiên cứu nổi bật như sau: Về thành quả nghiên cứu: - Đã nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh của rừng thứ sinh nghèo sau khoanh nuôi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2