intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

15
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu góp phần xây dựng cơ sở lý luận; giải quyết mối quan hệ giữa người dân sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng tại điểm nghiên cứu nói riêng và các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam nói chung, kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ khoa học và thực tiễn cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR trên cơ sở cộng đồng của địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP Khuất Thị Lan Anh NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN KIM HỶ, TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, năm 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP Khuất Thị Lan Anh NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN KIM HỶ, TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Bá Ngãi Hà Nội, năm 2009
  3. ĐẶT VẤN ĐỀ Các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học và mang lại lợi ích cho con người. Các khu bảo tồn là nơi lưu trữ các vật liệu thiên nhiên cho sự phát triển của các ngành y tế, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp…, đồng thời gìn giữ các chức năng của hệ sinh thái tự nhiên. Mặc dù các khu bảo tồn có tầm quan trọng như vậy, nhưng quản lý các khu bảo tồn đã và đang gặp rất nhiều khó khăn từ phía các cộng đồng địa phương, đặc biệt đối với những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam [22, trang 15-20]. Việt Nam là một nước nhiệt đới với 3/4 diện tích đất đai là đồi núi, rất giàu về đa dạng sinh học. Việt Nam được công nhận là đất nước đa dạng về nguồn gen động thực vật. Cho tới nay đã có gần 12.000 loài thực vật và 7.000 loài động vật đã được ghi nhận có ở Việt Nam [23]. Nguồn tài nguyên này không những có vai trò quan trọng đối với thế giới nói chung, Việt nam nói riêng, mà còn là nguồn sinh kế chủ yếu của cộng đồng, đặc biệt đối với những cộng đồng sống trong và gần rừng. Việc hình thành và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên trong cả nước và đặc biệt là khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ đã có những ảnh hưởng lớn đến sinh kế của người dân sống ở trong và gần các khu bảo tồn. Đó là; nơi ở, tập quán canh tác, truyền thống văn hoá, tập quán khai thác và sử dụng các sản phẩm từ rừng…. Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn, là hệ sinh thái rừng kín thường xanh trên núi đá vôi vùng Đông Bắc, thuộc 51 khu dự trữ thiên nhiên của Việt Nam, với nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ sinh cảnh đặc hữu rừng trên núi đá vôi với các loài động vật quý hiếm. Khu bảo tồn có tổng diện tích 18.555 ha, trong đó có 7.104 ha rừng tự nhiên trên núi đá vôi, có giá trị bảo tồn cao, là sinh cảnh phù hợp cho quần thể các loài chim, linh trưởng và thú móng guốc sinh sống. Đồng thời, khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ còn có 9.146 ha đất không có rừng và có hơn 6 nghìn người dân sinh sống. Mặt khác, tài nguyên rừng xung quanh các thôn bản bị tác động mạnh nên giá trị bảo tồn còn có những hạn chế nhất định.
  4. Thực tế là các hoạt động sử dụng đất và khai thác tài nguyên rừng thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ trong những thập kỷ gần đây đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, hiện tượng xói mòn xảy ra nghiêm trọng ở nhiều diện tích đất và các diện tích đất màu mỡ suy giảm đã làm giảm sút năng suất cây trồng. Từ khi khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ được thành lập đến nay, mặc dù diện tích đất và rừng đã thuộc quyền quản lý của khu bảo tồn, nhưng việc sử dụng đất và khai thác tài nguyên rừng bởi người dân địa phương vẫn còn diễn ra và tiếp tục làm giảm tài nguyên. Từ những thực tế trên cho thấy việc tìm ra giải pháp, đồng thời bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng và đảm bảo đời sống của người dân sống ở gần và trong khu bảo tồn là vấn đề cấp thiết. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn ”
  5. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TRÊN THẾ GIỚI Trong nhiều thập kỷ qua, cộng đồng quốc tế đã có những công trình nghiên cứu nhằm nỗ lực làm thay đổi chiến lược bảo tồn từ. Một chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định. Nhìn chung các khu bảo tồn đều được thiết lập vì mục đích chung của các Quốc gia, mà ít nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Dựa trên mô hình của Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác TNR. Tại các nước Đông Nam Á phương thức này tỏ ra không thích hợp vì để duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa phương bị mất quyền tiếp cận với nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn [40]. Các kết quả nghiên cứu trên thế giới của các KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa phương. Ở VQG Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của VQG và được tham gia quản lý VQG thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. [8] Các tác giả Dorji, D.C. Chavada, B. Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ yếu là nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả và chuồng trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về thức ăn gia súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất và nước trên vùng đất dốc [35]. Theo Gadgil và VP. Vartok năm cho rằng: Người dân địa phương ở Ấn Độ đã bảo vệ được các diện tích rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm cây. Việc lấy ra bất cứ sản phẩm nào đều bị cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những lùm cây đó đã trở thành
  6. những di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đã trở nên quan trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng, gỗ khô…Việc khai thác gỗ đã bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai thác gỗ trộm [35]. Tác giả Apple Gate, G.B và Gilmour, D.A 1987 trong khi nghiên cứu kinh nghiệm tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nêpan đã trình bày mối quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du miền núi. Tác giả cho rằng các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị suy thoái nhanh. Sự bền vững lâu dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc gia tăng về diện tích dưới bất cứ các dạng che phủ thực vật nào [35]. Sự tham gia của người dân địa phương tại một số nước khu vực Đông Nam Á vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học là một biện pháp cần thiết và thường có hiệu quả. Nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội. Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này [40]. Ở Thái Lan, vào khoảng những năm 1945, độ che phủ của rừng đạt tới 60%, nhưng đến năm 1995 giảm xuống còn 26%. Hơn 170.000 km2 rừng bị tàn phá. Năm 1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng gia Thái Lan thành lập khu bảo tồn để bảo vệ diện tích rừng còn lại. Điều này dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa phương. Một thử nghiệm của Dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác” thực hiện tại tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [44]. Các nguyên tắc được lập ra trong công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia năm 1992 - 1996 là: "Khuyến khích người dân cộng tác với chính phủ, trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc đề cao vai trò của các tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ, từ trung ương đến địa phương. Trong việc quyết định các dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng như trong việc theo
  7. dõi, giám sát và đánh giá thành công của dự án này". Nhận rõ sự cần thiết phải xem xét điều kiện kinh tế, xã hội xung quanh KBT, các nhà quy hoạch quản lý KBT đã bắt đầu đề xuất và thiết lập các vùng đệm để ngăn chặn sự xâm hại từ bên ngoài vào các KBT [39]. Trong chiến lược Quốc gia của Philippines về bảo tồn đa dạng sinh học chi ra rằng: "Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn đa dạng sinh học là phải bảo đảm rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học" [39]. Tác giả Peluso (1986) tại Indonesia đã công bố “ Các ảnh hưởng qua lại giữa đất và rừng của nhà nước như: Rừng sản xuất, rừng trồng, rừng tự nhiên đều đã được nghiên cứu. Sản phẩm là những mặt hàng sinh lời được và khó quản lý đối với các cơ quan lâm nghiệp nhưng có giá trị to lớn đối với nhân dân địa phương. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở Indonesia cũng ghi nhận rằng: "Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch [35]. Bink Man W.1988 trong tài liệu giới thiệu nghiên cứu định hình chi tiết về làng Ban Pong tỉnh S. Risaket Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và hoa quả trong rừng. Đây là một minh hoạ rất cần thiết của người dân địa phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển [35]. Tác giả Colfer. C.J.P mô tả việc đi thu hái lâm sản phụ, tác giả đã nhận định rằng những sản vật đó được coi như là những mặt hàng không phải trả tiền, ai cũng có thể thu lượm được. Mặc dù vậy những quyền đó không được quy định cụ thể, nó đã trở thành một thông lệ, trong đó có cả việc dùng gỗ làm nhà, có lúc dùng để biện hộ cho việc thu hoạch gỗ và bán [35]. Năm 1980, Conklin, H.C. trong tập ATLAT, cung cấp một mô tả chi tiết về các mối tương quan giữa rừng, lương thực và nước, giữa những người xây dựng ruộng bậc thang làm lúa nước và những người canh tác nương rẫy [35].
  8. Các nghiên cứu trên thế giới mới chỉ có những phân tích định tính về sự phụ thuộc của các cộng động dân cư vào tài nguyên và khẳng định cần thiết phải có sự tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy nhiên, chưa có các nghiên cứu định lượng xác định những tác động của cộng đồng vào TNR và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tác động đó vào TNR. 1.2. Ở VIỆT NAM So với nhiều nước trên thế giới và khu vực thì lịch sử thành lập các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam tương đối sớm. Tháng 7/1962, Quyết định số 72/TTg của thủ tướng chính phủ thành lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng 25.000 ha, sau này trở thành VQG đầu tiên của nước ta. Bên cạnh đó, Chính phủ còn ra các quyết định thành lập các khu rừng cấm Nam Bãi Cát Tiên (1978); VQG Cát Bà (1986); VQG Côn Đảo (1984); VQG YokDon (1991); KBTTN đất ngập nước Xuân Thuỷ (1994); KBTTN Tràm Chim Tam Nông (1994)… Ngoài ra, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã phát hiện nhiều khu rừng có giá trị cao về đa dạng sinh học không những đối với Việt Nam mà còn cả trong khu vực và thế giới như: KBTTN Vũ Quang (Hà Tĩnh); Pù Mát (Nghệ An); Phong Nha (Quảng Bình); Xuân Liên Phù Luông (Thanh Hoá)… Từ đó đến nay, Việt Nam đã có 128 khu rừng đặc dụng được thành lập [37]. Trước hết để công tác bảo tồn đạt hiệu quả thì các quy định phải được thể chế hóa. Trong đó bao gồm luật và các văn bản dưới luật. Đó là các điều khoản được ghi trong Luật bảo vệ và phát triển rừng ban hành ngày 12/08/1991, Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi ban hành ngày 03/12/2004. Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc Ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT. Gần đây nhất, Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 186/2006/QĐ - TTg ban hành ngày 14/08/2006 về quy chế quản lý rừng, thay thế Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg. Trong đó, quản lý rừng đặc dụng được quy định rất cụ thể: [23]. - Rừng đặc dụng bao gồm các loại: VQG, KBTTN, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học. - Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng sau:
  9. + Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:  Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái.  Đối với rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và điều kiện thuỷ văn. + Phân khu phục hồi sinh thái: là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để khôi phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh cần thiết. + Phân khu dịch vụ - hành chính: là khu vực để xây dựng các công trình làm việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí. Diễn biến TNR ở các khu rừng đặc dụng nước ta đã có nhiều thay đổi do sức ép của sự gia tăng dân số, nhu cầu về gỗ, LSNG ngày một gia tăng đối với cộng đồng dân cư sinh sống trong KBT. Việc đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển các khu rừng đặc dụng còn hạn hẹp. Việc triển khai, thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước đối với hệ thống này chưa đồng bộ, kịp thời. Vì thế, dẫn đến có nhiều vi phạm nghiêm trọng vào các khu rừng đặc dụng. Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát triển. Đó là việc dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội của người dân địa phương. Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1997), đã đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng. Tác giả đã chỉ ra rằng: Diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [4]. Qua kết quả nghiên cứu của Trần Ngọc Lân (1999) và các cộng sự, đã đưa ra kết luận: Các nông hộ trong vùng đệm Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ với rừng, nguồn thu nhập từ khai thác lâm sản và canh tác nương rẫy đóng vai trò quan
  10. trọng trong tổng thu nhập của mỗi nông hộ. Hiện nay, các nông hộ đang có sự chuyển đổi về sinh kế, song mới chỉ có rất ít ở các hộ có hiểu biết và có vốn đầu tư [10]. Một nghiên cứu điểm tại KBT Pù Mát tác giả Đỗ Anh Tuân (2001) về: Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng địa phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn. Tác giả đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự hưởng lợi của KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên rừng. Nghiên cứu xác định các tỷ trọng thu nhập từ tài nguyên rừng trong tổng thu nhập chung của thôn nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng nhóm kinh tế hộ. Tác giả cho rằng hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, 34% tổng thu nhập hàng năm của một HGĐ trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một HGĐ trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương. Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [40]. Nói tóm lại, các nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và TNR cả trên Thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua, đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau. Một số công trình nghiên cứu đã phân tích phương pháp lý luận và thực tiễn để nghiên cứu mối quan hệ giữa rừng và TNR. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu, chỉ số để đánh giá mức độ tác động của các dân tộc khác nhau, loại hộ khác nhau nên các giải pháp còn chung chung, chưa tập trung vào giải quyết những khó khăn thực tế của người dân. Vì vậy, vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện và đưa ra được các giải pháp hữu ích là cấp thiết.
  11. CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu góp phần xây dựng cơ sở lý luận; giải quyết mối quan hệ giữa người dân sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng tại điểm nghiên cứu nói riêng và các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam nói chung, kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ khoa học và thực tiễn cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR trên cơ sở cộng đồng của địa phương. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau: (1) Xác định được các hình thức và mức độ tác động của các HGĐ đồng bào các dân tộc tại KBTTN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn (2) Tìm ra các nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi tới TNR. (3) Đề xuất các giải pháp giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân tham gia vào quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR của KBTTN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn 2.2. ĐỐI TƯỢNG,GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những tác động bất lợi của các HGĐ đồng bào các dân tộc tại KBT TN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn. 2.2.2. Giới hạn nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên tại 2 thôn là Nà Dường và Thẳm Mu xã Ân Tình, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, trong đó đề cập đến thành phần dân tộc và mức độ kinh tế của các HGĐ. 2.2.3. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu đề cập đến những tác động của người dân địa phương đến TNR bao gồm những tác động có lợi và tác động bất lợi. Tuy nhiên, những tác động có lợi đã không ngăn cản được sự suy giảm TNR do những tác động bất lợi gây ra. Vì vậy, đề tài này tập trung nghiên cứu những tác động bất lợi tới TNR,
  12. phân tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. Những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR Yếu tố kinh tế Yếu tố xã hội Yếu tố công nghệ Hình 2.1: Những yếu tố chi phối tác động bất lợi củangười dân địa phương tới TNR Tất cả những yếu tố về kinh tế, xã hội và kỹ thuật đều chi phối tới những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. Do năng lực, thời gian và kinh phí hạn chế nên trong đề tài này chỉ nghiên cứu những yếu tố về kinh tế và xã hội, đây là những yếu tố quyết định tới những hình thức tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. Vì vậy, đề tài tập trung nghiên cứu các nguyên nhân và giải pháp về mặt kinh tế - xã hội tại KBT TN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn chi phối tới những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. 2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: (1) Điều tra tác động của các HGĐ đồng bào dân tộc vào TNR của KBT TN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn. (2) Điều tra phân tích các nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi tới TNR. (3) Đề xuất các giải pháp làm giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân tham gia vào quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR của KBT TN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn. 2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.4.1. Phương pháp luận
  13. Nghiên cứu được thực hiện dựa trên lý luận về tiếp cận hệ thống, quan điểm sinh thái - nhân văn, quan điểm bảo tồn - phát triển và tiếp cận có sự tham gia. 2.4.1.1. Quan điểm tiếp cận hệ thống Hệ thống được hiểu là một cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự, tồn tại và vận động theo những quy luật thống nhất [10]. Một hệ thống luôn bao gồm những hệ thống thành phần (nhỏ hơn) hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn. Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế - xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế, bởi mức độ tác động của người dân địa phương gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như: sử dụng đất rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc…Sự tác động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận trước mắt và hiệu quả kinh tế thường quyết định tới hình thức sử dụng TNR của người dân địa phương. Ngược lại, mức độ giàu có và đa dạng của TNR cũng tác động mạnh mẽ tới nguồn thu của người dân địa phương. Chính vì mối quan hệ chặt chẽ giữa những tác động của người dân địa phương đến TNR với các yếu tố kinh tế nên có thể làm giảm thiểu tác động bất lợi tới TNR bằng cách tác động vào những yếu tố kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên cứu các nguyên nhân kinh tế dẫn tới những tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp kinh tế để giảm thiểu sự tác động bất lợi này. Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động xã hội vì các hoạt động này là của con người. Sự tác động này bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội như nhận thức của người dân về tầm quan trọng của TNR, ý thức về luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, những thói quen sử dụng TNR tại KBT TN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn. Sự tác động của người dân địa phương đến TNR còn phụ thuộc vào những vấn đề về thể chế và chính sách như chính sách đối với người dân trong KBTTN, hệ thống quản lý TNR, việc thực thi luật BVPTR. Sự hiện
  14. diện của chúng sẽ hỗ trợ Nhà nước trong việc tuyên truyền các chính sách, gắn kết người dân thành cộng đồng thống nhất trong việc thực thi quản lý bảo vệ TNR. Những tác động của người dân địa phương đến TNR liên quan chặt chẽ với các yếu tố xã hội, vì vậy đề tài tiến hành nghiên cứu các nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động của người dân địa phương đến TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiểu những tác động bất lợi này. TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ tương tác chặt chẽ. Bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng dẫn đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. TNR vốn tồn tại khách quan và vận động theo những quy luật tự nhiên. Vì vậy, để bảo tồn TNR, những tác động của con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên và giảm thiểu những tác động bất lợi tới nó. 2.4.1.2 Quan điểm sinh thái – nhân văn Ảnh hưởng Các nhân tố thích hợp Phát triển kinh tế - xã hội địa - Các yếu tố văn phương và hoá - Các yếu tố thể bảo tồn TNR chế, chính sách - Các yếu tố Tác động Bậc đạo đức kinh tế bất lợi của - Các yếu tố sinh Bậc thể chế thái, công nghệ người dân TNR Bậc kinh tế ĐP tới TNR Bậc sinh thái Hình 2.2: Tháp sinh thái nhân văn nghiên cứu sự tác động của người dân địa phương đến TNR Các hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng hay trong mỗi HGĐ đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái và mối quan hệ kinh tế - xã hội. Điều này chỉ ra rằng các hoạt động trong cộng đồng chịu sự chi phối của
  15. nhiều yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng này vào thời điểm này nhưng lại không phải quan trọng trong thời điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để nghiên cứu sự tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR, chúng tôi dựa theo tháp sinh thái - nhân văn của Park, đề xuất năm 1936. Theo Teherani Kroenner (1992), mô hình sinh thái - nhân văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các hoạt động xã hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố theo trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mô hình này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các hoạt động của cá nhân và sự bền vững (Hình 2.2) [13]. Dựa trên hình tháp này có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động bất lợi của cộng đồng đến TNR và phát triển kinh tế - xã hội địa phương - bảo tồn TNR là quan hệ có xu hướng nghịch. Tức là khi kinh tế - xã hội địa phương càng phát triển, điều kiện sống về vật chất, tinh thần được đảm bảo và công tác bảo tồn TNR được thực hiện tốt thì những tác động bất lợi tới TNR sẽ càng giảm. Sự tác động bất lợi của người dân địa phương vào TNR đều có cơ sở sinh thái và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Cơ sở sinh thái được được giải thích bằng các yếu tố vật lý sinh học, được chia làm 2 loại: Những yếu tố không thể kiểm soát được như khí hậu, thuỷ văn, địa hình...và những yếu tố có thể kiểm soát được hoặc hạn chế được như xói mòn, lũ lụt, sâu bệnh, lửa rừng, hạn hán.... Các yếu tố kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương, nhu cầu thị trường. Những yếu tố này rất có ý nghĩa đối với sự tác động của người dân địa phương tới TNR . Bậc thể chế được giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ chức cộng đồng... ảnh hưởng gián tiếp tới những tác động của người dân địa phương đến TNR. Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức cao hơn nữa là văn hoá của các cộng đồng. Mọi tác động của các yếu tố khác đều có thể làm thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.
  16. Theo tháp sinh thái - nhân văn (hình 2.2) thì bất kỳ một giải pháp nào nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn và phát triển bền vững TNR đều phải dựa trên cơ sở sinh thái và đảm bảo được các yếu tố về kinh tế và xã hội của người dân địa phương. 2.4.1.3. Quan điểm bảo tồn – phát triển Theo Gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và phát triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển địa phương, bao gồm 3 thành phần chính (cách tiếp cận) như sau [6]: - Thứ nhất là nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể được đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên sẽ được giảm bớt và tài nguyên được bảo tồn: Cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế. - Thứ hai là nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào quan tâm đến việc bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng sống vẫn còn chưa được đáp ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tế - xã hội của họ đủ tốt để họ có thể quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên: Cách tiếp cận phát triển kinh tế. - Thứ ba là cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên nếu như họ có thể được tham gia một cách tích cực vào việc quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài nguyên đó. Theo cách này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số nhu cầu cơ bản của người dân địa phương được đáp ứng thông qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp lý và bền vững: Cách tiếp cận tham gia quy hoạch. 2.4.1.4. Tiếp cận có sự tham gia trong nghiên cứu Sự tham gia được định nghĩa như là một quá trình, thông qua đó các chủ thể cùng tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định. Điều quan trọng là người dân địa phương có khả năng trao đổi các triển vọng của họ về TNR với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lại, các cơ quan này có thể hiểu và đáp ứng các triển vọng được nêu ra. Năm 1996, Hosley đưa ra 7 mức độ của sự tham gia từ thấp đến đến cao, đó là: tham gia có tính chất vận động, tham gia bị động, tham gia qua hình thức
  17. tư vấn, tham gia vì mục tiêu được hưởng các hỗ trợ vật tư từ bên ngoài, tham gia theo chức năng, tham gia hỗ trợ, tự huy động và tổ chức [36]. Trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng. Trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua hình thức tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) được sử dụng để thu thập thông tin cho nghiên cứu. Các phương pháp này giúp thu thập được các thông tin và phân tích của chính người dân địa phương, nên thông tin có thể được sử dụng cho nhiều nhu cầu của địa phương như sự ủng hộ về quyền sử dụng TNR, các giải pháp giải quyết xung đột. 2.4.2. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo các bước trong hình 2.3: 2.4.2.1. Thu thập các tài liệu thứ cấp - Các tài liệu và các nguồn cung cấp + Các văn bản, chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề nghiên cứu. + Các báo cáo của tỉnh, huyện, xã về quản lý rừng tại KBT. + Các tài liệu liên quan đến điểm nghiên cứu được thu thập tại địa phương như: điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế xã hội, báo cáo về công tác quản lý bảo vệ rừng, tình hình giao đất giao rừng... + Các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Tài liệu hội thảo về phát triển các KBTTN và VQG, các báo cáo nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam… - Phương pháp thu thập tài liệu + Liệt kê các số liệu thông tin cần thiết để có thể thu thập, hệ thống hoá theo nội dung hay địa điểm thu thập và dự kiến địa điểm cơ quan cung cấp thông tin. + Liên hệ với các cơ quan cung cấp thông tin + Tiến hành thu thập bằng ghi chép, sao chụp + Kiểm tra tính thực tiễn của thông tin thông qua quan sát trực tiếp và kiểm tra chéo.
  18. XĐ vấn đề nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu Nội dung nghiên cứu Lựa chọn điểm NC Thu thập TT, số liệu Phỏng vấn cá nhân Phỏng vấn HGĐ Thảo luận nhóm Phân tích số liệu Phân tích định tính theo Phân tích định lượng bằng PRA SPSS, Excel Hình thức tác động Nguyên nhân tác động Kinh tế Xã hội Giải pháp kinh tế xã hội Kết luận, tồn tại và Khuyến nghị Hình 2.3: Các bước thực hiện nghiên cứu
  19. 2.4.2.2. Chọn điểm nghiên cứu Chọn điểm nghiên cứu là công việc được thực hiện trước khi điều tra thu thập số liệu. Nguyên tắc của chọn điểm nghiên cứu là đại diện tương đối cho khu vực nghiên cứu. Vì vậy, các tài liệu thứ cấp liên quan đến khu vực được nghiên cứu nhằm tìm hiểu chung về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khu vực và một đợt khảo sát nhanh được tiến hành tại các địa điểm thuộc khu vực nghiên cứu nhằm tìm hiểu những đặc trưng về địa hình và điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa điểm. Theo Donovan (1997), tiêu chuẩn chọn điểm nghiên cứu là: thành phần dân tộc, khả năng tiếp cận và địa hình [5]. Để kết quả nghiên cứu một cách khách quan, đề tài chọn điểm nghiên cứu tại các địa điểm là 2 thôn: Thôn Nà Dường, Thẳm Mu thuộc xã Ân Tình nằm trong KBTTN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn vì: + Là nơi cộng đồng địa phương có mức sống trung bình trong tất cả các xã trong KBTTN Kim Hỷ (về tỷ lệ hộ khá, trung bình, nghèo) + Có đầy đủ các thành phần dân tộc, trong đó có đại diện của 3 dân tộc chủ đạo là Dao, Tày, Kinh. + Mỗi thôn đại diện cho một dạng địa hình: Thôn Thẳm Mu do nằm sâu trong núi nên điều kiện giao thông khó khăn người dân chủ yếu sống trên các sườn núi, rải rác, không tập trung. thôn Nà Dường đại diện cho nơi thuận lợi về giao thông. + Khả năng tiếp cận tương đối đồng nhất Các điểm nghiên cứu đều có nhiều dân tộc sinh sống, trong đó có dân tộc Dao, Tày, và một số dân tộc khác cùng sinh sống. Thành phần dân tộc là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới việc lựa chọn hệ thống sản xuất, sinh kế của cộng đồng và đặc biệt là các hình thức tác động của cộng đồng tới TNR. Dân tộc và tập tục văn hoá có thể ảnh hưởng đến quá trình đổi mới, việc chấp nhận các kỹ thuật mới và sự tham gia vào các hoạt động phát triển. 2.4.2.3. Thu thập thông tin và số liệu điều tra hiện trường Sử dụng các công cụ PRA sau đây để thu thập các thông tin và số liệu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2