intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Sự hình thành và phát triển các hệ thống canh tác của cộng đồng người Mường vùng hồ thủy điện Hòa Bình sau di dân

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

31
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Sự hình thành và phát triển các hệ thống canh tác của cộng đồng người Mường vùng hồ thủy điện Hòa Bình sau di dân” là một nghiên cứu nhằm góp phần phát hiện và bổ sung cơ sở khoa học - thực tiễn trong sự hình thành, phát triển hệ thống canh tác dưới tác động của chính sách di dân tại vùng thủy điện lòng hồ Hòa Bình, từ đó đưa ra các giải pháp tổng hợp để phát triển các hệ thống canh tác theo hướng bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Sự hình thành và phát triển các hệ thống canh tác của cộng đồng người Mường vùng hồ thủy điện Hòa Bình sau di dân

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------------------- ĐỒNG THỊ THANH SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HỆ THỐNG CANH TÁC CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI MƯỜNG VÙNG HỒ THỦY ĐIỆN HÒA BÌNH SAU DI DÂN Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM XUÂN HOÀN Hà Nội, năm 2009
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nhà máy thủy điện Hoà Bình là công trình chiến lược của Việt Nam, được xây dựng trên lưu vực sông Đà năm 1979 và khánh thành năm 1994, có khả năng sản xuất 8,16 tỷ Kwh điện mỗi năm, đã góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới và hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những lợi ích, tiềm năng và triển vọng, sự ra đời của nhà máy kéo theo hàng loạt ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội. Trong đó, cộng đồng địa phương vùng lòng hồ là trung tâm trực tiếp gánh chịu mọi tác động. “Khoảng 58.000 người của 9.305 hộ thuộc 9 huyện, 2 tỉnh đã phải di dời chỗ ở do bị ngập nước, có tới 11.000 ha đất nông nghiệp trong đó 5.000 ha ruộng nước bị ngập” [32]. Để xây dựng nhà máy, người dân phải từ bỏ nơi chôn rau cắt rốn, làng bản, nhà cửa, ruộng vườn đến nơi ở mới, đồng nghĩa với việc thay đổi phương thức sản xuất, tập tục truyền thống, đời sống tâm linh đã được hình thành, phát triển và tồn tại qua nhiều thế hệ. Hoàn toàn đúng khi cho rằng, người dân ở vùng lòng hồ phải làm lại cuộc đời sau khi di chuyển. Mặc dù Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi cũng như đầu tư lớn cho đồng bào vùng lòng hồ trong và sau di dân nhằm tạo điều kiện cho họ có cuộc sống ổn định thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng, định canh định cư và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sự xáo trộn đến đời sống đã gắn liền với tập quán lâu đời của người dân nên những khoản đầu tư này chưa phát huy nhiều tác dụng trong việc nâng cao điều kiện kinh tế xã hội cũng như ngăn chặn việc phá rừng làm nương rẫy. Cộng đồng người Mường vùng lòng hồ sông Đà trước di dân có cuộc sống ổn định gắn liền với tập quán canh tác lúa nước lâu đời, sau tái định cư họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Chính sách di dân đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống, tác động trực tiếp đến đời sống, tập quán sản xuất của người dân và tạo cơ sở hình thành các HTCT mới, đánh dấu sự chuyển đổi từ canh tác lúa nước trên đất bằng sang canh tác ruộng bậc thang, nương rẫy kết hợp cây trồng ngắn ngày và cây lâu năm. Các HTCT mang đặc trưng điều kiện khí hậu, đất, địa hình, được hình thành chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người dân và ảnh hưởng trực tiếp đến diện mạo sử dụng đất chung của địa phương.
  3. 2 Theo tính toán hàng năm hồ thuỷ điện bị bồi lắng trung bình từ 0,3m – 0,4m, với tốc độ này chỉ sau vài chục năm thì lòng hồ sẽ bị bồi lấp đáng kể, ước tính làm giảm tuổi thọ nhà máy từ 100 năm theo thiết kế xuống còn 50 năm (Nguyễn Tường Vân, 1999, trích từ Hans, 1992). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó sự bất hợp lý trong quản lý, sử dụng tài nguyên đất, rừng của người dân trong vùng là một trong những nguyên nhân chính. Đặt trong bối cảnh yêu cầu cao về phòng hộ của vùng xung yếu, cộng đồng tại vùng lòng hồ nói chung và người dân tộc Mường nói riêng chịu nhiều áp lực để giải quyết hài hoà các mục tiêu về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái sao cho vừa phát triển kinh tế HGĐ vừa có những tác động hợp lý đến vùng nhạy cảm - hồ thuỷ điện. Vậy, làm thế nào để gắn công cuộc xoá đói giảm nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân lòng hồ với sự nghiệp bảo vệ và phát triển bền vững những khu rừng phòng hộ đầu nguồn nhằm bảo vệ môi trường cho hồ chứa, nâng cao tuổi thọ của nhà máy? Để giải quyết vấn đề này cần có cách nhìn và quan điểm tổng hợp, việc ổn định đời sống người dân cần được quan tâm hàng đầu, đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất, canh tác và sử dụng đất hợp lý, không thể áp dụng một phương thức canh tác đồng nhất mà cần tính toán đến sự đa dạng và thích nghi với điều kiện khu vực. Xuất phát từ lý do trên, đề tài: “Sự hình thành và phát triển các hệ thống canh tác của cộng đồng người Mường vùng hồ thủy điện Hòa Bình sau di dân” là một nghiên cứu nhằm góp phần phát hiện và bổ sung cơ sở khoa học - thực tiễn trong sự hình thành, phát triển hệ thống canh tác dưới tác động của chính sách di dân tại vùng thủy điện lòng hồ Hòa Bình, từ đó đưa ra các giải pháp tổng hợp để phát triển các hệ thống canh tác theo hướng bền vững.
  4. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG CANH TÁC 1.1.1. Khái niệm về hệ thống canh tác a, Khái niệm HTCT Theo Nguyễn Văn Hiền (2007) [12] HTCT là thể thống nhất hoạt động của con người sử dụng tài nguyên (sinh học, tự nhiên, kinh tế, xã hội) trong một phạm vi nhất định để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc của con người. b, Các yếu tố trong HTCT Con người là yếu tố trung tâm, trực tiếp tạo ra sản phẩm, tác động lớn đến các yếu tố sinh học, tự nhiên, kinh tế, xã hội nhằm tạo ra hiệu quả của HTCT. - Yếu tố sinh học: bao gồm các cây trồng, vật nuôi được nuôi trồng để thoả mãn mục tiêu của con người. Yếu tố sinh học gồm các hệ thống phụ của HTCT: + Hệ phụ trồng trọt: là một phần chủ yếu của HTCT, trong đó hệ thống cây trồng lại là bộ phận quan trọng, là trung tâm của hệ phụ trồng trọt. Để có một hệ thống cây trồng hợp lý, phải tiến hành nghiên cứu mô hình cây trồng thích nghi với điều kiện tự nhiên đồng thời xem xét đến sự tương tác giữa các loài cây trồng với nhau, giữa cây trồng với chăn nuôi trong hệ thống. Điều quan trọng nữa cần phải tính đến là khả năng của nông hộ và tình hình kinh tế, xã hội của địa phương nơi bố trí hệ thống cây trồng. + Hệ phụ chăn nuôi: bao gồm tổng hợp các khâu kỹ thuật từ chọn giống vật nuôi đến thức ăn, thú y, chế biến sản phẩm... Hệ phụ này có quan hệ chặt chẽ đến trồng trọt, chúng tác động qua lại với nhau nhằm thoả mãn mục tiêu và nhu cầu của nông hộ sao cho sự đem lại hiệu quả về mọi mặt là cao nhất. - Yếu tố tự nhiên: gồm các yếu tố quan trọng là khí hậu, đất và nước, các yếu tố này có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành vùng sinh thái nông nghiệp, từ đó là cơ sở bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp.
  5. 4 - Yếu tố kinh tế, xã hội: gồm những yếu tố như tín dụng, thị trường, các phong tục tập quán trong đời sống cũng như trong canh tác, các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các HTCT. Tất cả các yếu tố của HTCT mang những thuộc tính nhất định và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thay đổi của yếu tố này sẽ tác động đến yếu tố khác và dẫn đến sự thay đổi của toàn hệ thống. 1.1.2. Đặc điểm và thuộc tính của HTCT a, Đặc điểm của HTCT - HTCT được giới hạn trong một ranh giới nhất định của HGĐ, nông trại,… tại một vùng sinh thái. - Trong hệ thống bao gồm nhiều thành phần, căn cứ vào sự đa dạng và mối quan hệ giữa các thành phần để phân loại các HTCT. - HTCT bao gồm các hệ phụ nhỏ (hệ phụ trồng trọt, hệ phụ chăn nuôi, hệ phụ khác) và là hệ thống phụ của hệ thống nông nghiệp tại một vùng nhất định. b, Thuộc tính của HTCT - Khả năng sản xuất: khả năng sản xuất hoặc thu nhập trên một đơn vị tài nguyên (đất, lao động, năng lượng, vốn,..) - Tính ổn định: mức độ khả năng sản xuất được duy trì theo thời gian để đáp ứng với các biến động ở qui mô nhỏ về môi trường như điều kiện kinh tế thị trường, thời tiết. - Tính bền vững: khả năng sản xuất của hệ thống được duy trì theo thời gian khi có những đảo lộn xảy ra, những xáo trộn có thể dự đoán được ở qui mô nhỏ. - Tính công bằng: sự phân bố sản phẩm hay lợi nhuận của hệ thống đến những người tham gia quá trình sản xuất hoặc những người hưởng thụ trong cộng đồng. - Tính tự chủ: khả năng tự vận hành sao cho hiệu quả và ít bị lệ thuộc vào các yếu tố môi trường, tự nhiên cũng như kinh tế, xã hội. - Lợi nhuận: khả năng mang lại hiệu quả cho người sản xuất và xã hội.
  6. 5 Conway (1985) [12] đã đánh giá các hệ thống canh tác trong quá trình phát triển nông nghiệp như sau: Bảng 1.1: Thuộc tính của các HTCT trong tiến trình phát triển nông nghiệp Khả năng Tính ổn Tính bền Tính công HTCT sản xuất định vững bằng Du canh (A) Thấp Thấp Cao Cao Truyền thống (B) Trung bình Trunh bình Cao Trung bình Hiện đại (C) Cao Thấp Thấp Thấp Hiện đại (D) Cao Cao Thấp Thấp Lý tưởng cho Trung bình Cao Cao Cao vùng đất khó khăn Từ lý thuyết trên cho thấy, nghiên cứu HTCT là phương pháp nghiên cứu nông lâm nghiệp nhìn toàn bộ nông trại như một hệ thống, tập trung vào những mối liên hệ tương hỗ phụ thuộc giữa môi trường tự nhiên và con người, giữa thành phần cấu tạo của hệ thống trong tầm kiểm soát của nông hộ và cách thức mà những thành phần này chịu tác động bởi các điều kiện vật lý, sinh học, kinh tế xã hội ngoài tầm kiểm soát của nông hộ nhằm hướng tới mục tiêu: bố trí canh tác hợp lý, biện pháp kỹ thuật thích hợp, hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. 1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ HTCT 1.2.1. Trên thế giới Trên thế giới, việc phát triển nông nghiệp hầu hết dựa vào các cơ sở sản xuất tư nhân, chủ yếu là các trang trại, cung cấp sản phẩm nông lâm nghiệp phục vụ cho cuộc sống người dân. Nhà nước, các tổ chức rất quan tâm đến sự tồn tại và phát triển của các trang trại nên đã dành ngân sách không nhỏ để đầu tư cho kỹ thuật, vốn với lãi suất ưu đãi. Việc nghiên cứu về HTCT đã được nhiều tác giả tiến hành và theo nhiều hướng khác nhau. Theo John Dixon và Aidan Gulliver (2001) [42], để các HGĐ nông dân nghèo cải thiện cuộc sống, Chính phủ, Tổ chức phi chính phủ và các cơ quan quốc tế cần phải tìm hiểu rõ hơn vấn đề nông sinh thái, thể chất, kinh tế, môi trường văn hóa mà nông hộ sinh sống – hay chính là cần tìm hiểu hệ thông canh
  7. 6 tác của họ. Chỉ bằng cách này thì các chính sách, đầu tư, chương trình hỗ trợ mới có thể phát triển, triển khai khả thi. Thông qua nhiều thử nghiệm cho thấy cách tiếp cận hệ thống canh tác có thể được sử dụng để xác định các ưu tiên chính của địa phương, khu vực và quốc tế để giảm đói nghèo. John Dixon và Aidan Gulliver (2001) [42], thách thức cho các nước đang phát triển là xác định nhu cầu cụ thể phát triển nông nghiệp nông thôn và các cơ hội để tập trung đầu tư vào các khu vực mà tác động lớn nhất về an ninh lương thực và giảm nghèo sẽ đạt được. Điều này có thể giải quyết bằng cách phân tích hệ thống canh tác để phát triển sự hiểu biết về các yếu tố địa phương và các mối liên kết. Quá trình phân tích này cũng rất hữu ích để có thể đến các điểm tổng hợp với những hạn chế sự phát triển tương tự và cơ hội đầu tư thông qua việc áp dụng một khuôn khổ hệ thống canh tác. John Dixon và Aidan Gulliver (2001) [42], phân loại các HTCT được dựa vào các tiêu chí chính: (i) có sẵn nguồn tài nguyên cơ bản (đất, nước, rừng, khí hậu, cảnh quan, kích thước…), (ii) chi phối hoạt động của mô hình trang trại và sinh kế HGĐ. Với tiêu chí đó, trên thế giới có thể phân thành 7 loại HTCT chính: - Hệ thống tưới tiêu nông nghiệp, bao gồm một loạt thực phẩm và sản xuất cây trồng bằng tiền mặt. - Hệ thống canh tác trên đất ngập nước (trồng lúa). - Hệ thống canh tác trên các khu vực ẩm ướt. - Hệ thống canh tác trên các khu vực dốc và cao nguyên. - Hệ thống canh tác trên vùng khô hoặc lạnh. - Hệ thống canh tác hỗn hợp đánh bắt cá thủ công ven biển. - Hệ thống canh tác nông nghiệp đô thị. Đối với sản xuất nông nghiệp trên đất đồi núi, bao gồm canh tác trên đất có độ dốc, đất bằng trồng cây hàng năm, lâu năm, đất ngập nước ở các thung lũng, các thềm bậc thang có nguồn nước. Theo FAO, ở vùng đồi núi, đất nông nghiệp có độ dốc trên 150 thường chiếm tới 50% - 60% trong tổng số đất nông nghiệp
  8. 7 được khai thác. Do đó, nghiên cứu khai thác đất nông nghiệp ở vùng đồi núi thực chất là vấn đề nghiên cứu canh tác trên đất dốc hay canh tác nương rẫy, nghiên cứu mối quan hệ giữa HTCT với vấn đề xói mòn rửa trôi (FAO, 1990) [9]. Ở Philippin, nghiên cứu HTCT Ifugao ở dải núi cao do Clofsam (1984) mô tả là hệ thống canh tác của người dân tộc Ifugao, họ biết canh tác lúa nước ở ruộng có hệ thống nước tưới kết hợp trồng cây lấy gỗ, lấy củi, cây ăn quả và cây thuốc. HTCT hỗn hợp đã giúp giữ được nước chống xói mòn và trượt đất (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp, 1996) [39]. Ở Myanma, HTCT Taungya được bắt đầu vào năm 1856. Nhà nước đã cho trồng cây gỗ Tếch kết hợp trồng cây lúa cạn, ngô trong 2 năm đầu khi rừng chưa khép tán. Mục tiêu chính của hệ thống này là khôi phục lại rừng bị tàn phá, sản xuất lương thực là thu nhập phụ. Đây là dạng mô hình chuyển tiếp từ canh tác nương rẫy sang canh tác nông lâm kết hợp (Phạm Xuân Hoàn, 1996) [14]. Ở Thái Lan, Hoey. M (1990) đưa ra mô hình sử dụng đất dốc nhấn mạnh việc canh tác trên đường đồng mức, trồng cỏ thành băng, hạn chế làm đất đến mức tối thiểu góp phần phát triển nông lâm nghiệp ổn định trên đất dốc dưới 200. Những kết quả nghiên cứu ở Kanđihult Bắc Thái Lan trồng cây ăn quả, cây cà phê theo băng kết hợp với bón phân đã cho hiệu quả kinh tế cao và có tác dụng cải tạo nâng cao độ phì của đất (Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm, 1999) [22]. Khi phân tích các HTCT theo mô hình nông lâm kết hợp, chăn thả… Agbool. A, 1990 đã cho rằng hệ thống đa dạng hoá cây trồng là tốt nhất. Việc sử dụng đất dốc để trồng các loài cây nào còn tuỳ thuộc vào các yếu tố khác như mưa gây xói mòn, tính chất của đất và nhất là phụ thuộc vào các biện pháp canh tác được sử dụng để chống xói mòn vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Trên các vùng đất dốc thường người ta không gieo trồng độc canh một loại cây liên tục mà trồng gối, trồng xen, luân canh (Phạm Xuân Hoàn, 1996) [14]. Những năm gần đây, các chương trình khoa học của Liên hợp quốc đang ứng dụng một chế độ canh tác hợp lý trên đất dốc, nương rẫy theo hệ thống nông lâm kết hợp và đề xuất kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc theo các mô hình SALT 1, SALT 2, SALT 3, SALT 4 (Phạm Quang Vinh và cs, 2006) [40]. Von Uc Kill Bosshart (1998) sau khi nghiên cứu về sự phát triển nông
  9. 8 nghiệp ở vùng nhiệt đới đã rút ra kết luận: cây lâu năm là những cây trồng có khả năng sản xuất lâu bền và thích hợp với điều kiện khắc nghiệt. Những thí nghiệm ở Pêru chỉ rõ cần tính toán đến các nhân tố: khí hậu, đất đai và gắn với môi trường của HTCT. Bởi canh tác đồi núi khó hơn canh tác ở đồng bằng rất nhiều do địa hình có độ dốc lớn nên khi canh tác việc chọn được các loài cây phối hợp với nhau cần xem xét thật kỹ lưỡng, nên trồng xen canh, luân canh để hiệu quả phối hợp đạt cao nhất. Phương pháp tiếp cận nông thôn một chiều (từ trên xuống) đã được FAO nhận định không phát huy được tiềm năng của nông trại và cộng đồng nông thôn. Thông qua nghiên cứu và thực tiễn đã chỉ ra phương pháp tiếp cận mới khi nghiên cứu các hệ thống canh tác – phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển các hệ thống trang trại và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững (FAO, 1990) [9]. 1.2.2. Ở Việt Nam Nghiên cứu về hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh từ sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục Địa chính đã tiến hành quy hoạch đất 3 lần vào các năm 1978, 1985, 1995. Căn cứ vào điều kiện đất đai đã phân chia toàn quốc thành 7 vùng sinh thái (Trần Văn Châu, 2006) [1]. Trong những năm gần đây, nghiên cứu HTCT ở nước ta cũng đang được Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm, bởi đề xuất một HTCT hợp lý cho từng vùng là vấn đề cấp thiết do tính chất đất ngày càng xấu đi. Nhiều kết quả nghiên cứu về HTCT của các Trường, Viện và các cơ quan nông nghiệp địa phương đã đưa ra các mô hình HTCT phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng, từng địa phương và từng nông hộ. Phạm Chí Thành, Đoàn Văn Điểm, Phạm Tiến Dũng, Trần Đức Viên (1996) [38], khi nghiên cứu về phương pháp luận trong nghiên cứu xây dựng hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam đã chỉ ra việc xây dựng hệ thống canh tác phải được tiến hành ở từng biến sinh thái và cân đối trong phạm vi các nhóm biến sinh thái, nếu làm đúng và có phương pháp chuyển giao tốt sẽ trở thành lượng vật chất thực sự góp phần tăng năng suất cây trồng.
  10. 9 Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đậu và các cộng sự về HTCT nông lâm nghiệp ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam cho thấy hiệu quả của các mô hình canh tác trên đất dốc như sau: Mô hình canh tác cây lương thực sắn xen đậu đỗ, lạc với các cây phân xanh chống xói mòn trên các loại đất phát triển trên sa thạch, phiến thạch sét và phù sa cổ là biện pháp giải quyết phân bón tại chỗ có hiệu quả cao để thâm canh tăng năng suất sắn trên đất dốc. Theo Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên (1999) [22], đối với vùng cao, dân cư thưa, trình độ dân trí thấp, sản xuất còn ở mức thô sơ, cơ sở hạ tầng thấp, an toàn lương thực là vấn đề cấp bách vì vậy các mô hình canh tác có triển vọng là trồng cây đặc sản, cây ăn quả, cây dược liệu phối hợp với bảo vệ rừng đầu nguồn, cây trồng dưới tán rừng lâu năm, hạn chế du canh, chuyển đổi du canh thành nương định canh với các loài cây họ đậu cải tạo đất. Nguyễn Văn Chương (1982) [22], cơ cấu cây trồng được chọn vào mô hình nông lâm kết hợp bao gồm cây phòng hộ (muồng đen, keo dậu, so đũa, phi lao, keo lá tràm,…), cây dài ngày (chè, cà phê, trám, hồ tiêu, cây ăn quả,…) cây ngắn ngày (lúa nước, ngô, lúa nương, cây có củ, đậu đỗ,…) và sắp xếp như sau: + Đất dốc trên 250 - 300 tốt nhất là để rừng che phủ, rừng cây rậm kín, hỗn giao nhiều tầng tán, nhiều cỏ cây trong đó phải có những cây gỗ lớn với số lượng đông đủ sẽ là chủ thể trong hệ sinh thái rừng và đất dốc. + Đất dốc từ 150 - 250 có thể tạo ra quần xã thực vật theo kiểu vườn rừng với tỷ lệ cây to khoảng 30% - 40 % còn lại là cây phòng hộ và mương máng giữ đất, giữ nước. + Đất dốc dưới 150 nếu sườn đồi ngắn nên san bằng thành ruộng bậc thang ở phía dưới, có rừng ở phía trên càng tốt. Có thể sử dụng 60% - 70% đất nông nghiệp, cây công nghiệp từ 20% - 30% cho cây lớn và 10% - 15% đất đai dành cho bờ cây và mương máng. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) [1] đã đưa ra hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống kỹ thuật sử dụng đất bền vững trong điều kiện Việt Nam. Trong đó tác giả đã đi sâu phân tích về các vấn đề: Quan điểm về tính bền vững, khái niệm bền vững và phát triển bền vững, hệ thống sử dụng đất bền
  11. 10 vững, kỹ thuật sử dụng đất bền vững, các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất. Nhóm tác giả Nguyễn Hữu Đông, Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng (1996) [38] khảo sát một số mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên hệ thống canh tác ruộng chờ mưa tại Tràng Định - Lạng Sơn đã chỉ ra: các loại hình sử dụng đất ruộng chờ mưa phổ biến (gồm ruộng bậc thang canh tác 1 vụ lúa và 1 vụ cây trồng cạn, đất thung lũng và đất phiến bãi); các hạn chế khi canh tác trên hệ thống canh tác này là hệ số quay vòng sử dụng đất và tỷ trọng của hệ canh tác cải tiến thấp, các tác giả cũng đưa ra một số mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Nhóm tác giả YNguyên Mlô, Phạm Văn Hiền, Nguyễn Văn Quý (1996) [38] đã lựa chọn mô hình phù hợp với 3 cấp độ dốc khác nhau: cấp 1 (00 – 50): lúa rẫy xen cây phân xanh, cấp 2 (60 – 150): lúa rẫy xen đậu đỏ và cấp 3 (> 150): canh tác nông lâm kết hợp; đồng thời cũng phân tích được ảnh hưởng của các mô hình canh tác môi trường và kinh tế hộ, trong nghiên cứu về HTCT trên đất dốc bạc màu góp phần định canh cho đồng bào dân tộc ở Đăklak. Nhóm tác giả Trần Đức Hạnh, Văn Tất Tuyên, Phạm Văn Phê (1996) [38] đã có những kiến nghị về tập đoàn cây trồng nông lâm nghiệp cho xã Thái Thịnh và vùng ven hồ Hòa Bình, bao gồm: cây nông nghiệp (lúa, sắn, đậu, ngô), cây ăn quả (chuối, mơ mận, dứa), cây lâm nghiệp (luồng, nứa, vầu, bương, keo). Vương Văn Quỳnh (2002) [25], khi nghiên cứu luận cứ phát triển kinh tế - xã hội vùng xung yếu hồ thủy điện Hòa Bình đã chỉ ra được các chính sách kinh tế xã hội đã được triển khai tại khu vực và tác động của các chính sách đó đến đời sống người dân và sự phát triển của khu vực. Nghiên cứu tác động của từng hệ canh tác đến các yếu tố chính của môi trường vật lý và kinh tế - xã hội cho thấy mô hình canh tác ruộng nước, nông lâm kết hợp, rừng trồng là có hiệu quả tác động dương đến môi trường vật lý. Mô hình nương rẫy có biểu hiện tiêu cực đến môi trường nhưng ở mức độ thấp. Những phương thức canh tác vườn, canh tác màu, canh tác rừng trồng có hiệu quả tổng hợp chưa cao nên cần được cải tạo phát triển theo hướng chuyển dần thành canh tác nông lâm kết hợp. Theo Võ Đại Hải (2003) [11] việc cải tiến các hệ thống canh tác nương rẫy theo hướng sử dụng đất bền vững chính là việc thiết lập các hệ thống nông lâm
  12. 11 kết hợp và hiệu quả do nó mang lại là cơ cấu thu nhập của người dân thay đổi, thời hạn sử dụng đất kéo dài, năng suất cây trồng ổn định. Đặng Thịnh Triều và cộng sự (2004) [32] nghiên cứu một số HTCT ở miền núi và vùng cao tại Việt Nam cho thấy hiện nay ở nước ta đang tồn tại các HTCT sau: nương rẫy du canh du cư, lúa nước, hoa màu định canh định cư, cây lâu năm tập trung, chăn nuôi đại gia súc, nông lâm kết hợp. Nguyễn Văn Dung, Trần Đức Viên, Nguyễn Thanh Lâm (2005) [8] nghiên cứu về ảnh hưởng của canh tác nương rẫy đến khả năng phục hồi dinh dưỡng đất trong giai đoạn bỏ hóa của tỉnh Hòa Bình đã nhận xét việc canh tác nương rẫy trên đất dốc làm tăng dòng chảy bề mặt, đây là nguyên nhân chính gây nên xói mòn trên đất dốc, lượng nước chảy mặt trên đất canh tác nương rẫy tăng gấp 1,35 lần (765 mm) so với rừng tái sinh. Điểm lại các công trình nghiên cứu về HTCT trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua đã đề cập đến nhiều khía cạnh, kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân. Tuy nhiên, những kết quả này phần lớn là tổng kết và đánh giá các mô hình hiện có ở một vùng nông thôn không có biến động nhiều trong đời sống, chưa phân tích được quá trình hình thành, phát triển của các HTCT và ảnh hưởng của nó đến kinh tế HGĐ. Tại Bình Thanh, dưới tác động của chính sách di dân, bức tranh sinh thái, kinh tế xã hội đặc trưng cho không gian nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi rất phức tạp, càng làm tăng thêm tính đa dạng của các HTCT. Trong bối cảnh đó không thể áp dụng mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn đồng nhất mà cần tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển các HTCT để đưa ra đề xuất phù hợp. Chính vì vậy vấn đề nghiên cứu đặt ra là thực sự cần thiết.
  13. 12 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Góp phần phát hiện và bổ sung cơ sở khoa học - thực tiễn trong phát triển hệ thống canh tác dưới tác động của chính sách di dân tại vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể Phân tích, đánh giá được quá trình hình thành các HTCT của cộng đồng người Mường tại vùng lòng hồ Hòa Bình sau khi tái định cư, từ đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển HTCT theo hướng bền vững. 2.2. ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hệ thống canh tác của cộng đồng người Mường vùng lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình sau khi tái định cư. 2.2.2. Giới hạn nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên tại 2 thôn là thôn Lòn và thôn Giang, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình. 2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: - Xác định và phân loại các HTCT tại địa phương - Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển các HTCT - Phân tích mối quan hệ giữa các HTCT với đặc điểm kinh tế - xã hội HGĐ - Đánh giá và so sánh hiệu quả của các HTCT - Đề xuất giải pháp phát triển các HTCT hiệu quả và bền vững
  14. 13 2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.4.1. Phương pháp luận Nghiên cứu được thực hiện dựa trên lý luận về tiếp cận hệ thống, quan điểm sinh thái - nhân văn, quan điểm tiếp cận có sự tham gia. 2.4.1.1. Quan điểm tiếp cận hệ thống Hệ thống là một cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự, tồn tại và vận động theo những quy luật thống nhất [39]. Một hệ thống luôn bao gồm những hệ thống thành phần hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn. Tính tổng thể của hệ thống được duy trì thông qua các quan hệ tương tác do đó tiếp cận hệ thống không phải mô tả cấu trúc mà là phân tích các mối quan hệ tương tác Các hệ thống canh tác được xem là hệ thống mở trong tự nhiên. Mối quan hệ giữa thể chế, chính sách, con người với các HTCT chính là quan hệ giữa hệ thống kinh tế - xã hội với hệ thống tự nhiên. Sự tác động của người dân địa phương đến HTCT là hoạt động trong hệ thống kinh tế - xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. - Sự tác động của người dân địa phương đến HTCT là hoạt động trong hệ thống kinh tế, bởi hình thức và mức độ tác động gắn liền với các hoạt động kinh tế như: sử dụng đất canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc… Sự tác động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận trước mắt, hiệu quả kinh tế và thường quyết định tới việc lựa chọn HTCT. Ngược lại, các HTCT cũng tác động mạnh mẽ tới tổng thu nhập, đời sống kinh tế của các HGĐ. Liên hệ chặt chẽ đó là cơ sở để đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế của nông hộ với các HTCT, tác động của các nguyên nhân kinh tế đến các HTCT và nghiên cứu giải pháp kinh tế nhằm phát triển các HTCT theo hướng bền vững. - Sự tác động của người dân địa phương đến HTCT là hoạt động xã hội vì các hoạt động này là của con người, nhằm thỏa mãn nhu cầu, mục đích của con người và chịu chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội như: nhận thức của người dân về
  15. 14 tầm quan trọng của HTCT, trình độ học vấn, giới tính, trách nhiệm của cộng đồng, thể chế chính sách,... Ngược lại, sự hình thành và phát triển các HTCT có tác động trở lại đến đời sống, tập quán, văn hóa,... của cộng đồng. Dựa trên mối quan hệ đó, đề tài tiến hành nghiên cứu các nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động đến HTCT và nghiên cứu đề xuất giải pháp xã hội nhằm phát triển các HTCT theo hướng bền vững. Tóm lại, tiếp cận theo quan điểm hệ thống là xem xét HTCT như một hệ thống tự nhiên mở, tồn tại khách quan và vận động theo những quy luật tự nhiên, các thành phần có mối quan hệ tương tác chặt chẽ. Bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài tới HTCT cũng dẫn đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. Vì vậy, để phát triển các HTCT theo hướng bền vững thì những tác động của con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên, xã hội. 2.4.1.2. Quan điểm sinh thái – nhân văn Sinh thái nhân văn là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ tương hỗ giữa con người và môi trường (Rambo, 1983). Định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với khái niệm sinh thái xã hội của Parker (1983) [28] cho rằng: “Sinh thái xã hội nghiên cứu quan hệ giữa các cộng đồng người và môi trường tương ứng, nhất là môi trường vật chất”. Sinh thái nhân văn đã sử dụng quan điểm hệ thống cho cả xã hội loài người và tự nhiên. Trong hệ thống đó, tác động con người tới hệ sinh thái tự nhiên chịu sự chi phối của yếu tố: tự nhiên, kinh tế, xã hội… Tiếp cận quan điểm sinh thái nhân văn trong nghiên cứu HTCT cho thấy, phương thức canh tác, sử dụng đất,… ở mỗi cộng đồng, mỗi hộ gia đình rất đa dạng và phong phú, nó không những phản ánh những đặc điểm sinh thái, mối quan hệ kinh tế xã hội và chính sách hiện hành mà còn phản ánh các giá trị văn hoá. Điều đó khẳng định đầu ra của các của các hoạt động sản xuất trong cộng đồng bị chi phối bởi nhiều nhân tố và không có yếu tố nào giữ vai trò chủ đạo trong cộng đồng vào tất cả thời điểm. Tóm lại, tiếp cận theo quan điểm sinh thái nhân văn là xem xét HTCT là hệ thống sinh thái gắn với yếu tố văn hóa, xã hội của con người (cộng đồng - chủ thể của HTCT đó).
  16. 15 2.4.1.3. Tiếp cận có sự tham gia trong nghiên cứu Sự tham gia được định nghĩa như là một quá trình, thông qua đó các chủ thể cùng tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định. Điều quan trọng là người dân có khả năng trao đổi các triển vọng của họ về vấn đề của địa phương với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lại, các cơ quan này có thể hiểu và đáp ứng các triển vọng được nêu ra [28]. Hosley, 1996, [28] đưa ra 7 mức độ của sự tham gia từ thấp đến đến cao, đó là: tham gia có tính chất vận động, tham gia bị động, tham gia qua hình thức tư vấn, tham gia vì mục tiêu được hưởng các hỗ trợ vật tư từ bên ngoài, tham gia theo chức năng, tham gia hỗ trợ, tự huy động và tổ chức. Trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng. Trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua hình thức tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA -Rapid Rural Appraisal) và phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA -Participatory Rural Appraisal) được sử dụng để thu thập thông tin cho nghiên cứu. Các phương pháp này giúp thu thập được các thông tin từ chính người dân địa phương, là cơ sở để phân tích đặc điểm kinh tế, xã hội của nông hộ và ảnh hưởng của các yếu tố này đến các HTCT. Tóm lại, vận dụng lý thuyết hệ thống, quan điểm sinh thái nhân văn và quan điểm tiếp cận có sự tham gia để nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu và phát triển nông thôn nhìn toàn bộ HTCT là một tổng thể hệ thống, trong đó người nông dân là trung tâm; tập trung vào những mối liên hệ tương hỗ, phụ thuộc giữa môi trường tự nhiên và con người, giữa thành phần cấu tạo hệ thống trong tầm kiểm soát của nông hộ và cách thức các thành phần này tác động qua lại với các yếu tố vật lý, sinh học, kinh tế và xã hội ngoài tầm kiểm soát của nông hộ. 2.4.2. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo các bước trong hình 2.1.
  17. 16 Xác định vấn đề nghiên cứu Xây dựng đề cương khái quát Xây dựng đề cương chi tiết Thu thập thông tin, số liệu Kế thừa tài Phỏng vấn cá Thảo luận Phân tích tổ liệu, số liệu nhân/HGĐ nhóm chức Phân tích số liệu Phân tích định tính theo Phân tích định lượng bằng PRA SPSS, Excel Viết báo cáo Hình 2.1: Các bước thực hiện nghiên cứu 2.4.2.1. Chọn điểm nghiên cứu Chọn điểm nghiên cứu là công việc được thực hiện trước khi điều tra thu thập số liệu. Nguyên tắc của chọn điểm nghiên cứu là đại diện tương đối cho khu vực nghiên cứu. Vì vậy, các tài liệu thứ cấp liên quan đến khu vực được nghiên cứu nhằm tìm hiểu chung về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khu vực và một đợt khảo sát nhanh được tiến hành tại các địa điểm thuộc khu vực nghiên cứu nhằm tìm hiểu những đặc trưng về địa hình và điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa điểm.
  18. 17 Theo Donovan (1997), tiêu chuẩn chọn điểm nghiên cứu là: thành phần dân tộc, khả năng tiếp cận và địa hình. Với đối tượng nghiên cứu là cộng đồng dân tộc Mường, đề tài chọn điểm nghiên cứu tại 2 thôn: Thôn Lòn và thôn Giang, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình vì: + Đây là 2 thôn người dân tộc Mường sinh sống, có mức sống trung bình trong xã (về tỷ lệ hộ khá, trung bình, nghèo). + Khả năng tiếp cận tương đối đồng nhất + Địa hình của 2 thôn đại diện cho địa hình trong xã, gồm tất cả các loại hình sử dụng đất của xã. 2.4.1.2. Thu thập thông tin và số liệu điều tra hiện trường Sử dụng các công cụ PRA sau đây để thu thập các thông tin và số liệu: - Phỏng vấn bán định hướng: nhằm thu thập thông tin điều tra từ các cá nhân, HGĐ trong sản xuất nông lâm nghiệp ở điểm nghiên cứu + Phỏng vấn cán bộ xã/ thôn: phỏng vấn cán bộ của 1 xã, 2 thôn nhằm tìm hiểu tình hình chung về kinh tế – xã hội của thôn, bản như: dân số, mức sống, dân trí, các loại đất đai, các hỗ trợ từ bên ngoài, các hình thức sử dụng tài nguyên rừng... + Phỏng vấn các HGĐ: bảng phỏng vấn bán định hướng được chuẩn bị trước nhằm thu được các thông tin về tình hình của từng HGĐ. Phỏng vấn 90 HGĐ dân tộc Mường/2thôn với đầy đủ các nhóm hộ khá, trung bình, nghèo. Nội dung phỏng vấn là các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, các nguồn thu nhập, sinh kế của cộng đồng địa phương, các hình thức và nguyên nhân tác động của cộng đồng vào HTCT, đồng thời cũng tìm hiểu các giải pháp giải quyết các hạn chế trong kinh tế hộ do chính cộng đồng đưa ra. Đây là những thông tin quan trọng để phân tích kinh tế HGĐ, đặc biệt là việc phân tích tiềm năng của các nông hộ trong việc đầu tư vào sản xuất. - Đi lát cắt: nhằm đánh giá chi tiết về đất đai, cây trồng, vật nuôi và tiềm năng để phát triển sản xuất tại điểm nghiên cứu. Nội dung mô tả: + Đặc điểm tự nhiên: đất đai, nguồn nước, lược sử sử dụng đất đai..
  19. 18 + Các loài cây trồng, vật nuôi chính và kỹ thuật, năng suất… + Tình hình tổ chức quản lý + Những khó khăn, mong muốn của cộng đồng + Những giải pháp - Lược sử thôn bản: nhằm tìm ra những mốc thời gian quan trọng gắn liền với sự thay đổi trong quá trình lao động sản xuất, sử dụng đất, hình thành và phát triển các hệ thống canh tác của cộng đồng. - Phân tích lịch mùa vụ: sử dụng cho việc đánh giá tiềm năng và kinh nghiệm canh tác của thôn. Công cụ này sẽ cho phép tìm hiểu kế hoạch gieo trồng theo từng nơi và có quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên đặc biệt là điều kiện khí hậu ở nơi đó. - Phân loại hộ gia đình: nhằm phân ra các nhóm hộ có điều kiện khác nhau, điều này có ý nghĩa quan trọng để lựa chọn hộ trong quá trình phỏng vấn, thu thập số liệu, so sánh giữa các nhóm hộ. Các tiêu chí phân loại được người dân đưa ra và giải thích tại sao lại đưa ra các tiêu chí như vậy, danh sách các hộ trong thôn được ghi lên các phiếu và để cho người dân tự đánh giá và xếp loại theo các tiêu chí đã đặt ra. - Thảo luận nhóm về các chủ đề: lược sử tình hình sử dụng đất, hình thành và phát triển các HTCT; các yếu tố và mức độ ảnh hưởng đến các HTCT; giải pháp phát triển các HTCT theo hướng bền vững. Các cuộc thảo luận được tiến hành dựa trên khung thảo luận chuẩn bị sẵn. Nhóm thảo luận gồm 5 - 7 người nhằm bổ sung và thống nhất về các vấn đề liên quan đến sản xuất nông lâm nghiệp của gia đình và địa phương, cụ thể là các HTCT. - Phương pháp phân tích SWOT: nhằm xác định bối cảnh hiện tại và triển vọng trong tương lai về mặt kinh tế xã hội và sản xuất nông lâm nghiệp của điểm nghiên cứu. - Phương pháp “5 tại sao”: áp dụng phương pháp này để tìm ra hệ thống các nguyên nhân của vấn đề để giải quyết vấn đề cụ thể đặt ra. Đây là phương pháp đi từ 5 nguyên nhân chính sau đó phát hiện các nguyên nhân thứ cấp. Từ
  20. 19 các nguyên nhân này sẽ làm cơ sở cho việc xem xét đề xuất các giải pháp khả thi cho việc phát triển các hệ thống canh tác theo hướng bền vững. 2.4.3. Xử lý, tổng hợp và phân tích số liệu Số liệu thu thập qua bảng phỏng vấn bán định hướng được xử lý và phân tích định lượng bằng phần mềm SPSS 13.0 (Statistical Package for Social Science) và Excel. Kết quả xử lý được thể hiện theo dạng phân tích, mô tả, bảng và biểu đồ. Các kết quả thảo luận, các thông tin định tính như chính sách, tổ chức cộng đồng, thể chế cộng đồng, thị trường được phân tích theo phương pháp định tính. Phân tích định lượng bằng SPSS để xác định mối quan hệ giữa các HTCT với đặc điểm kinh tế - xã hội HGĐ và bằng Excel để đánh giá, so sánh hiệu quả kinh tế của các HTCT. 2.4.3.1. Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế * Phương pháp động (đối với PTCT trồng cây lâu năm) Phương pháp này coi các yếu tố chi phí, kết quả là có mối quan hệ động với mục tiêu đầu tư và chịu tác động mạnh của nhân tố thời gian. Sở dĩ đề tài sử dụng phương pháp này để đánh giá hiệu quả kinh tế vì chu kỳ của cây lâu năm phụ thuộc vào các nhân tố thời gian, điều kiện sản xuất... Hiệu quả kinh tế của các PTCT trồng cây lâm nghiệp được đánh giá qua phương pháp phân tích lợi ích, chi phí CBA (Cost - Benefit Analysis). Phương pháp CBA là một phương pháp cho một hệ thống quyết định và thiết lập những mục tiêu đạt được trong tương lai. Đối tượng là chi phí và thu nhập. Theo hướng dẫn của FAO nhiều nước trên thế giới và trong khu vực châu Á đều áp dụng 3 chỉ tiêu NPV, BCR, IRR để đánh giá hiệu quả kinh tế của cây dài ngày. Trong đề tài này các số liệu kinh tế được tập hợp và tính bằng các hàm kinh tế: NPV, CPV, BPV, IRR, BCR trong chương trình Excel. - Giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng (NPV - Net Present Value): Là chỉ tiêu xác định lợi nhuận ròng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, có tính đến ảnh hưởng của nhân tố thời gian thông qua tính chiết khấu. n Bt  C t Công thức: NPV   (1) t 0 (1  i ) t
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2