intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế tác đá huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:103

96
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn nhằm đề xuất được giải pháp có hiệu quả và khả thi để cải thiện môi trường lao động và sức khỏe người dân ở các làng nghề chế tác đá huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình; xây dựng được mô hình điểm và đề xuất phương án tổ chức áp dụng các giải pháp cải thiện môi trường lao động và BNN cho người lao động trong làng nghề chế tác đá ở Hoa Lư-Ninh Bình nói riêng cũng như các làng nghề chế tác đá ở Việt Nam nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế tác đá huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình

  1. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  LỜI CẢM ƠN Sau quá trình học tập và nghiên cứu với thời gian 02 năm, dưới sự giúp đỡ  của các thầy cô giáo khoa Môi trường ­ Trường Đại học Khoa học Tự  nhiên,  thầy giáo hướng dẫn, bạn bè và đồng nghiệp tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ  khoa học với đề  tài “Nghiên cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm  môi trường và bệnh nghề  nghiệp  ở  các làng nghề  chế  tác đá huyện Hoa   Lư, tỉnh Ninh Bình”. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Môi trường ­ Trường Đại  học Khoa học Tự  nhiên đã tận tình chỉ  bảo, dạy dỗ, truyền đạt kiến thức làm  nền tảng cho tôi hoàn thành khoá học này.  Xin chân thành cảm  ơn Viện Môi trường Nông nghiệp ­ Viện KHNNVN  và Tổng Công ty ĐTPT cao su Nghệ  An ­ Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt   Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ  về  thời gian và công việc để  tôi có thể  tập trung   nghiên cứu hoàn thành luận văn đúng hạn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy TS. Vũ Thắng – phó   bộ  môn Hoá Môi trường ­ Viện Môi trường Nông nghiệp ­ Viện KHNNVN đã  tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin trân trọng cảm  ơn bác Nguyễn Quang Diệu (Trưởng ban quản lý  làng nghề) cùng với chính quyền địa phương, các chủ  doanh nghiệp, công nhân  viên… làng nghề Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình đã đóng góp những ý  kiến quý báu và giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được nghiên cứu, khảo   sát, thu thập tài liệu trong thời gian thực hiện luận văn. Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi còn nhận được nguồn động   viên to lớn của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 11 năm 2011 Học viên   Luận văn Thạc sĩ Khoa học              1 Phạm Viết   Duy
  2. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội        Phạm Viết Duy MỞ ĐẦU 1. LÝ DO THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Làng nghề  là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Làng   nghề Việt Nam mang tính truyền thống, đặc sắc, có tính kinh tế bền vững, mang  đến nhu cầu việc làm tại chỗ và các lợi ích thiết thực cho các cộng đồng cư dân  nhỏ lẻ trên mọi miền của đất nước (chủ  yếu  ở các vùng ngoại vi thành phố  và  nông thôn Việt Nam), đồng thời góp phần vào sự  phát triển chung của toàn xã  hội. Cùng với sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước, các sản phẩm của các  ngành nghề  truyền thống ngày càng đóng vai trò quan trọng, góp phần to lớn   trong việc nâng cao mức sống người dân vùng nông thôn. Bên cạnh mặt tích cực   và những đóng góp lớn cho nền kinh tế ­ xã hội thì sự  phát triển của hoạt động   sản   xuất   làng   nghề   cũng   mang   lại   nhiều   bất   cập,   đặc   biệt   về   vấn   đề   môi  trường, tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN).  Kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại 52 làng nghề điển   hình trong cả  nước cho thấy 46% số  làng nghề  được khảo sát có môi trường   (không khí, đất, nước hoặc cả  ba dạng) ô nhiễm nặng.  Chất lượng môi trường  tại cơ sở sản xuất và trong khu vực các làng nghề  đang bị  suy thoái trầm trọng.   Tùy theo loại hình sản xuất, môi trường ở các làng nghề bị ô nhiễm khác nhau.  Ô  nhiễm nguồn nước diễn ra đặc biệt nghiêm trọng tại các làng nghề  chế  biến   lương thực thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ  gia súc, gia cầm, tái chế  giấy, sơn  mài, dệt nhuộm. Ô nhiễm môi trường đất diễn ra nghiêm trọng  ở các làng nghề  tái chế  kim loại do  phần lớn chất thải rắn không được thu gom, xử  lý mà xả  thẳng vào môi trường. Ô nhiễm không khí diễn ra nặng nề  tại nhiều làng nghề  gốm sứ vật liệu xây dựng và đặc biệt là các làng nghề khai thác và chế tác đá [2].  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              2 Phạm Viết   Duy
  3. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Ô nhiễm môi trường làng nghề  là nguyên nhân gây ra các bệnh, dịch cho  người dân đang lao động và sinh sống chính ở làng nghề. Một số kết quả điều tra   nghiên cứu đã cho thấy số  người mắc bệnh chung tại các làng nghề  cao gấp  nhiều lần so với những làng nghề thuần nông. Tuổi thọ trung bình của người dân   tại các làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung  bình  toàn quốc. Có khoảng 31% số người lao động tại các làng nghề bị mắc bệnh liên quan  đến nghề nghiệp [2].  Làm thế nào để bảo vệ sức khỏe cho người lao động và cộng đồng trong   các làng nghề là câu hỏi luôn được các cấp, các ngành đặt ra và quan tâm từ  lâu.   Cho đến nay đã có nhiều chương trình, dự  án, đề tài nghiên cứu được triển khai  và đã đề  xuất ra không ít giải pháp khoa học, công nghệ, y học để  bảo vệ  sức  khỏe người lao động trong nghành nghề  nông thôn nói riêng và người lao động  nói chung. Tuy nhiên, TNLĐ và tỷ lệ BNN từ ngành nghề nông thôn vẫn đang gia   tăng nhanh chóng, điều này phản ánh việc áp dụng các giải pháp đã được nghiên   cứu vào thực tế vẫn còn hạn chế, đem lại hiệu quả  chưa cao. Công tác giảm ô   nhiễm môi trường lao động, ngăn chặn TNLĐ và BNN, chăm sóc sức khoẻ người   lao động dường như  thiếu sự  phối hợp đồng bộ  giữa chính quyền địa phương,  người tổ chức sản xuất, người lao động và giữa các Bộ, ban, ngành [3], [5].  Ninh Vân là một xã nằm ở phía Tây Nam huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ lâu  đã được biết tới với nghề làm đá mỹ  nghệ  với những sản phẩm nổi tiếng  xuất  hiện ở khắp nơi và phục vụ khắp mọi miền đất nước như: Nhà thờ đá Phát Diệm,  lăng thánh mẫu Liễu Hạnh ­ Nam Định, tượng đài Nghĩa trang Trường Sơn, tượng  đài TNXP chống Mỹ cứu nước ở Quảng Trị, 500 pho tượng La Hán trong chùa Bái  Đính, Ninh Bình… [6], [11].  Với các sản phẩm đá phong phú và đa dạng (như chậu cảnh, bể cảnh, tượng   nghệ thuật, tượng tôn giáo, các bức phù điêu cột đá, cổng đá, văn bia, lăng mộ tôn tạo   di tích lịch sử, văn hóa danh lam thắng cảnh, đình chùa, miếu phủ…) Nghề  đá đã  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              3 Phạm Viết   Duy
  4. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  mang lại cho Ninh Vân một diện mạo mới nhưng phía sau sự  giàu có ấy là tình  trạng ô nhiễm môi trường đã đến hồi báo động.  Bên cạnh đóng góp vào sự  phát triển về  kinh tế, sự phát triển nhanh của  làng nghề chế tác đá mỹ nghệ cũng kéo theo suy giảm sức khỏe người dân. Thời   gian gần đây, số ca mắc viêm phổi, viêm phế quản và các bệnh ngoài da tăng đột   biến. Nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời, làng nghề cứ phát triển tự phát  như hiện nay thì chẳng mấy chốc, làng nghề chế tác đá sẽ biến thành trung tâm ô  nhiễm của tỉnh Ninh Bình.  Đã có rất nhiều kết quả  nghiên cứu giảm thiểu ô nhiễm môi trường đối   với nghề  đá như: Đưa vào các dây chuyền sản xuất với các máy móc, thiết bị  hiện đại; các mô hình xử  lý ô nhiễm bằng công nghệ  cao; Xây dựng hệ  thống  nhà xưởng kiên cố, hiện đại…Song chúng đòi hỏi chi phí đầu tư  lớn không phù   hợp với khả năng đầu tư của người dân ở làng nghề. Mặt khác hạn chế về kiến   thức, thông tin cũng là một trong những trở ngại lớn đối với người dân làng nghề  trong việc bảo vệ  môi trường và sức khỏe của bản thân. Chính vì thế   ở  làng  nghề  đá mỹ  nghệ  Ninh Vân vẫn còn tồn tại những vấn  đề  về  ô nhiễm môi   trường, TNLĐ và BNN. Để  cải thiện môi trường lao động, phòng ngừa bệnh nghề  nghiệp cho  người lao động đáp  ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Tôi triển khai thực hiện đề  tài  “Nghiên cứu áp dụng các giải pháp giảm thiểu ô nhiểm môi trường và   bệnh nghề nghiệp ở các làng chế tác đá huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình”.  2. MỤC TIÊU CỦA LUẬN VĂN ­ Đề xuất được giải pháp có hiệu quả và khả thi để cải thiện môi trường lao  động và sức khỏe người dân ở  các làng nghề  chế  tác đá huyện Hoa Lư  tỉnh Ninh   Bình. ­ Xây dựng được mô hình điểm và đề xuất phương án tổ chức áp dụng các  giải pháp cải thiện môi trường lao động và BNN cho người lao động trong làng  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              4 Phạm Viết   Duy
  5. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  nghề chế tác đá ở Hoa Lư­Ninh Bình nói riêng cũng như các làng nghề chế tác đá ở  Việt Nam nói chung.  3. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Cấu trúc luận văn gồm những phần chính như sau: Mở đầu Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu Chương 2: Phạm vi, đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI 1.1.1. Khai thác và chế tác đá Việc khai thác và chế tác đá đã được biết đến từ thời xa xưa. Vào khoảng   3 triệu năm trước, thời kỳ  đồ  đá bắt đầu, là một thời gian tiền sử dài trong đó  con người sử  dụng đá để  chế  tạo nhiều đồ  vật từ  nhiều kiểu đá khác nhau. Ví   dụ, đá lửa và đá phiến silic được mài sắc (hay được đẽo) để làm công cụ cắt gọt   và vũ khí, trong khi đá basalt và đá sa thạch được dùng làm công cụ.   Về sau con người ngày càng cải tiến và sử  dụng kỹ thuật một cách rộng  rãi để đẽo đá từ  nguyên liệu thô tạo ra các đồ vật bằng đá với cách thức chế tác   khác nhau, với sức sáng tạo ngày càng đa dạng, phong phú. Kỹ  thuật được sử  dụng có thể  là phun hay thổi các chất màu lên đá. Việc này được thực hiện bởi   những nghệ  nhân chế  tác ra những sản phẩm nổi tiếng trên khắp thế  giới: từ  những công cụ  đơn giản cho đến hình khắc trên đá và tranh vẽ  trên đá có thể  được tìm thấy trên bất kỳ loại đá nào và có thể được phát hiện ở nhiều nơi trên   trái đất, gồm cả  châu Á  (Bhimbetka,  Ấn Độ, Trung Quốc,…),  Bắc Mỹ  (Thung  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              5 Phạm Viết   Duy
  6. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  lũng chết  ở  công viên quốc gia),  Bắc Mỹ  (Cumbe Mayo,  Peru,…), và châu Âu  (Finnmark, Na Uy),…[18], [20] Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, nghề  khai thác   và chế tác đá đã tiếp cận với nhiều thiết bị hiện đại, tuy nhiên kèm theo đó là sự  gia tăng của ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí và   tiếng ồn, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và cộng đồng. Đến nay,   trên thế  giới đã có những nghiên cứu và áp dụng nhiều giải pháp nhằm giảm  thiểu ô nhiễm môi trường, an toàn lao động và sức khoẻ nghề nghiệp. 1.1.2. Vấn đề ô nhiễm không khí và tiếng ồn Gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố kết quả khảo sát về  mức độ ô nhiễm không khí trên toàn thế giới. Để đánh giá mức độ ô nhiễm của bầu không khí, các nhà khảo sát dựa vào  hàm lượng bụi có trong không khí, gọi tắt là PM10, có nghĩa là loại bụi có kích  thước nhỏ  hơn 10 micromet.  Đối tượng điều tra là hơn 1.100 thành phố  của  nhiều nước trên toàn cầu. Cũng theo WHO, nếu hàm lượng bụi này vượt quá 20  microgram/m3, sức khỏe con người sẽ bị  ảnh hưởng, cụ thể là gây nên các bệnh   về đường hô hấp như ung thu phổi, nhiễm trùng đường hô hấp… Ô nhiễm không khí tập trung chủ  yếu  ở  các khu công nghiệp, nơi công  cộng có mật độ  phương tiện giao thông cao  ở  các thành phố  lớn như  các thành  phố   ở   Ấn Độ, Pakistan, Iran. Chẳng hạn,   thành phố  Lahore (Pakistan)  có hàm  lượng bụi trong không khí là 200 microgram/m3. Đây là thành phố  lớn thứ  2  ở  Pakistan và là trung tâm kinh tế của nước này; thành phố Kanpur (Ấn Độ) có hàm  lượng bụi trong không khí là 209 microgram/m3. Thành phố này tập trung khoảng  5 triệu dân, khói bụi từ các nhà máy cộng với số dân đông chính là những nguyên  nhân góp phần làm ô nhiễm môi trường nơi đây; thành phố   Yasouj (Iran) có hàm  lượng bụi là 215 microgram/m3, là nơi tập trung nhiều nhà máy sản xuất đường,  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              6 Phạm Viết   Duy
  7. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  điện, than,lọc dầu,… là những tác nhân dẫn tới ô nhiễm môi trường ở thành phố  này [20]. Ô nhiễm tiếng  ồn được xem là một trong những mối nguy hiểm lớn đối  với sức khoẻ  của con người, nguy hiểm không khác gì các hiện tượng ô nhiễm   khác. Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì   trong vòng 3 thập kỉ trở  lại đây nạn ô nhiễm tiếng ồn đang trở nên bức xúc, ảnh hưởng trực tiếp đến môi  trường và chất lượng sống của con người, nhất là ở các quốc gia đang phát triển  [23]. Báo cáo mới đây của Cơ quan Môi trường châu Âu (EEA)  cho biết hơn 41  triệu người tại những thành phố  có từ  250.000 dân trở  lên  ở  19 nước châu Âu  đang phải chịu tiếng ồn ở mức từ 55 dB trở lên. Đây là ngưỡng mà Tổ chức Y tế  Thế giới cho rằng có thể gây ra những tác động về sức khỏe như ảnh hưởng đến   giấc ngủ, tim mạch, sức khỏe tinh thần và việc học hành. Theo số liệu thống kê mới nhất của WHO thì tại châu Âu, 40% dân số khu  vực này đang bị phơi ra môi trường ô nhiễm tiếng ồn. Mức ồn hiện đã vượt trên  55 decibels (dBA), 25% dân số hàng ngày nghe tiếng ồn trên 65 dBA, có tới 30%  dân số châu Âu phải ngủ trong môi trường có tiếng ồn vượt trên 55 dBA, đây là   mức ồn có thể làm gián đoạn giấc ngủ. Theo Cơ quan an toàn giao thông và Môi   trường của Liên Minh châu âu thì có từ  44% dân số  châu âu (khoảng 200 triệu  người) phải sống chung với tiếng  ồn có nguy cơ   ảnh hưởng trực tiếp đến sức   khoẻ [19]. Bộ  Môi trường Mỹ  (EPA) cảnh báo để  hạn chế  bệnh điếc, mọi người  không nên tiếp xúc với môi trường có độ  ồn lớn hơn 70 dBA trong khoảng thời  gian 24 giờ liên tục. Ngoài ra, nếu làm việc liên tục trong môi trường có độ   ồn   trên 55 dBA (ngoài trời)  và 45 dBA (trong nhà) trong thời gian dài liên tục cũng  sẽ gây ảnh hưởng đến sức nghe.  Bộ  Môi trường Đức (GFEA) gần đây đã hoàn thành nhiều nghiên cứu và   phát hiện thấy mối nguy hại của tiếng ồn đối với sức khoẻ, như giảm thính lực,   Luận văn Thạc sĩ Khoa học              7 Phạm Viết   Duy
  8. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  làm tăng stress, tăng huyết áp... Cũng theo GFEA, tiếng  ồn tiềm  ẩn nhiều nguy   cơ. Một trong những hiện tượng thường thấy là ù tai và dần dẫn đến mất sức  nghe và quá lâu nên đã bị điếc, sức khoẻ của họ bị  ảnh hưởng rất nhiều, những   bệnh viện đặt gần nơi phát ra tiếng  ồn thì mức độ  gây nguy hiểm cũng không   lường hết. Theo quy định của WHO, mức ồn đối với các bệnh viện không được   vượt quá 30 dBA (ban ngày) và 40 dBA (ban đêm). Nhưng trong thực tế một số  bệnh viện đã vượt quá mức quy định này. Ví dụ tại Anh có tới 5 bệnh viện phải   chịu mức tiếng  ồn trên 80 dBA, tại  ấn Độ  mức độ  tiếng  ồn đối với các bệnh  viện ở Madurai là 72 dBA (cao nhất) và 57 dBA (trung bình). Để  hạn chế  mức độ  ô nhiễm không khí và tiếng  ồn nhiều nước trên thế  giới hiện đang áp dụng nhiều phương pháp mới [22]. Tại châu Âu, người ta đã  đưa ra nhiều đạo luật mang tính bắt buộc áp dụng cho các cơ sở sản xuất, phải   trang bị  đầy đủ  phương tiện phòng hộ, khám bệnh định kỳ  cho người lao động  để  can thiệp sớm những loại bệnh nghề nghiệp do tiếp xúc với ô nhiễm không  khí và tiếng ồn lâu ngày gây ra. 1.1.3. Kinh nghiệm quản lý về  an toàn lao động và an toàn sức khoẻ  nghề  nghiệp  1.1.3.1. Kinh nghiệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Một trong các ví dụ điển hình của ILO về quản lý an toàn lao động được   thực hiện tại một số  quốc gia châu Á và khu vực Thái Bình Dương là chương   trình cải thiện điều kiện làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ  (WISE –  Working Improvement  in  Small  and Medium  Enterprises).   Chương  trình  WISE   được bắt đầu thực hiện tại Philippines từ năm 1994 đã đề  xuất 6 nguyên tắc cơ  bản sau đây để  tạo thuận lợi cho việc tham gia vào các hoạt động quản lý an  toàn lao động: (1)  Xây dựng chương trình thực hành tại mỗi cơ sở; (2)  Tập trung vào các kết quả đã đạt được; (3)  Kết hợp điều kiện làm việc với các mục tiêu quản lý khác; Luận văn Thạc sĩ Khoa học              8 Phạm Viết   Duy
  9. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  (4)  Sử dụng phương châm vừa học vừa làm; (5)  Trao đổi kinh nghiệm; (6)  Tăng cường giải quyết các vấn đề liên quan đến người lao động. Năm 2001, các nước thành viên của ILO đã thông qua “Hướng dẫn về hệ  thống quản lý an toàn lao động” (ILO­OSH 2001). Hướng dẫn này được coi như  một công cụ đẩy mạnh việc hỗ trợ có định hướng hoạt động cả về chính sách và  mức độ an toàn lao động tại nơi làm việc. ILO­OSH 2001 bao gồm 5 yếu tố cấu   thành chính: (1) chính sách, (2) tổ chức, (3) kế hoạch và thực hiện, (4) đánh giá,   và (5) hoạt động cải thiện. Nhiều hội thảo và hội nghị  chuyên đề  về  ILO­OSH  2001 đã được tổ chức tại Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Việt Nam nhằm áp   dụng ILO­OSH 2001 vào bối cảnh thực tế của từng quốc gia [16]. 1.1.3.2. Hệ thống quản lý an toàn lao động ở Thái Lan Phần lớn các cơ sở sản xuất tại Thái Lan có quy mô vừa và nhỏ. Số doanh  nghiệp có ít hơn 100 lao động xấp xỉ 300.000, chiếm 97% tổng số các cơ sở sản   xuất trong toàn quốc, sử dụng khoảng 48% số người lao động. Tại Thái Lan, môi trường lao động tồi, điều kiện làm việc không an toàn  cộng với hành vi không an toàn của người lao động dẫn đến tỷ  lệ  tai nạn lao   động cao. Thống kê chính thức cho thấy khoảng 80% trường hợp tai nạn và bệnh  nghề nghiệp gây ra bởi hành vi không an toàn của công nhân, 18% gây ra bởi điều   kiện làm việc không an toàn, phần còn lại do lỗi của các phương tiện khác.   Người lao động không nhận thức được tầm quan trọng của sự  tự  chăm sóc sức  khoẻ  cho bản thân. Họ  thường không chịu mang phương tiện bảo vệ  cá nhân   như: mũ, giày, ủng, gang tay an toàn v.v...[1], [16]. Các cơ  quan quản lý an toàn lao động của Thái Lan đã tổng kết 5 loại   nguyên nhân chính ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động có liên quan tới hành  vi không an toàn của người lao động và môi trường lao động tồi tệ như sau: 1. Không có chương trình kiểm tra liên tục về  kiểm soát môi trường và   kiểm tra sức khoẻ tại những nơi làm việc có các yếu tố có hại; Luận văn Thạc sĩ Khoa học              9 Phạm Viết   Duy
  10. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  2. Thiếu các dịch vụ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các cơ  quan chính phủ trong việc kiểm soát môi trường lao động và tiến hành kiểm tra y   tế cho người lao động; 3. Thiếu thông tin hoặc các ấn phẩm về quản lý an toàn lao động theo đặc  thù từng ngành nghề lao động; 4. Thiếu các nghiên cứu theo hướng phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh   nghề  nghiệp, cũng như  các nghiên cứu cải thiện môi trường lao động gắn với  sức khoẻ con người; 5. Sự  kém hiểu biết của người lao động về  vấn đề  an toàn lao động do   thiếu kiến thức phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Năm 1976, Thái Lan ban hành tiêu chuẩn an toàn trong xây dựng là bước   đầu tiên cho sự  ban hành các luật lệ an toàn lao động khác. Năm 1998, đạo luật  mới về bảo hộ lao động được ban hành khi Thái Lan bước vào thời kỳ kế hoạch  phát triển kinh tế xã hội quốc gia lần thứ 8 (1997­2001). Theo đạo luật này, Uỷ  ban quốc gia chịu trách nhiệm về quản lý an toàn lao động trong toàn quốc được   thành lập. Có nhiều tổ chức của chính phủ có trách nhiệm quản lý an toàn lao động,   trong đó các cơ quan quan trọng nhất nằm trong Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội,  Bộ Y tế và Bộ Công nghiệp. Năm 1998, Vụ Bảo hộ lao động và Phúc lợi xã hội  (DLPW) thuộc Bộ  Lao động và Phúc lợi xã hội đã đưa vào sử  dụng hệ  thống   quản lý an toàn lao động đã được xây dựng và hoàn thiện để  áp dụng ở  các địa  điểm làm việc khác nhau. Bên cạnh đó, nhiều quy phạm đã được các Bộ  ban   hành, tuy nhiên, các quy phạm này không bao trùm tất cả  các ngành nghề, đặc  biệt là không chú trọng tới lao động nông nghiệp. May mắn thay, nông nghiệp   không phải là một trong các ngành nghề có nhiều tai nạn lao động nhất tại Thái Lan. Trong kế  hoạch phát triển kinh tế  xã hội quốc gia Thái Lan lần thứ  9   (2002­2006), luật về an toàn, vệ sinh lao động và môi trường được công bố. Bảo  hộ lao động được mở rộng, bao trùm toàn bộ các ngành nghề và các quy định về  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              10 Phạm Viết   Duy
  11. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  an toàn lao động được cải tiến cho phù hợp với sự thay đổi công nghệ và sự phát   triển của nền kinh tế [10], [16]. 1.1.3.3. Hệ thống quản lý an toàn sức khỏe nghề nghiệp ở Đài Loan    Đài Loan áp dụng và hoàn thiện dần dần hệ thống đánh giá an toàn và sức   khỏe nghề nghiệp (OHSAS 18001) từ nhiều năm nay. Hệ thống này mang lại lợi  ích chủ yếu cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp như cải  thiện hình  ảnh của doanh nghiệp, giảm chi phí bảo hiểm, đạt được hiệu quả  trong việc kiểm soát rủi ro và cơ  chế  cải thiện điều kiện làm việc được thực  hiện một cách thường xuyên [16], [24]. Hiệu quả  tích cực của OHSAS 18001 là giúp các doanh nghiệp phân tích  và đánh giá điểm chính của mối nguy hại và thiết lập cơ  cấu phòng ngừa trong  quá trình làm việc. Điểm mấu chốt của cơ cấu phòng ngừa thành công hay không  phụ thuộc vào việc liệu các doanh nghiệp có thể hợp nhất một cách hiệu quả các  vấn đề an toàn và sức khoẻ, chính sách kinh doanh và việc quản lý quá trình hoạt   động. Nếu cơ cấu phòng ngừa đạt hiệu quả  tốt, nó không chỉ  giảm chi phí bảo   hiểm và tai nạn mà còn giảm nguy cơ gây tai nạn. Xem xét tình trạng ban đầu về  an toàn và sức khỏe là sự  chuẩn bị  nắm  được thực trạng của vấn đề  an toàn và sức khỏe trong doanh nghiệp và việc thu  thập thông tin liên quan khi doanh nghiệp dự định thành lập hệ thống quản lý an   toàn và sức khỏe. Bên cạnh đó, xem xét lại tình trạng ban đầu cũng có ích như là   sự  giới thiệu tiếp theo của việc thiết lập OHSAS 18001 và là cơ  sở  cho việc   chuẩn bị  sự thay đổi tác động của an toàn và sức khỏe. Về  cơ bản mục đích và  nội dung của việc xem xét lại tình trạng ban đầu của OHSAS 18001 tương tự  của ISO 14001. Nó bao gồm 5 mục đích: kiểm tra tiểu sử của doanh nghiệp, hiện   trạng đầu tư, nghiên cứu hệ thống quản lý đang thực hiện, phát hiện và đánh giá  rủi ro, thực hiện yêu cầu luật pháp. Trong đó việc phát hiện rủi ro cần nhiều  nhân lực tham gia. Phương pháp phổ  biến nhất để  phát hiện rủi ro đối với một  cơ sở sản xuất là phân tích an toàn trong công việc, phân tích kết quả và phương  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              11 Phạm Viết   Duy
  12. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  thức của việc hỏng hóc, nghiên cứu mối nguy hiểm và khả  năng có thể  xảy ra   rủi ro.  Tuy vậy, kết quả kiểm tra việc thực hiện hệ thống an toàn lao động ở các   nhà máy thuộc khối công nghiệp của Đài Loan cho thấy tỷ lệ thực hiện hệ thống  này ở các cơ sở vẫn còn thấp. 1.1.3.4. Dự án CLEAN­3D ở Hàn Quốc Từ tháng 11 năm 2001, Cục An toàn Vệ sinh Lao động Hàn Quốc đã phối  hợp với Bộ Lao động để thực hiện Dự án CLEAN­3D cho các doanh nghiệp vừa  và nhỏ nhằm giúp họ  tạo lập nơi làm việc an toàn thoải mái bằng việc loại bỏ  những yếu tố  nguy hiểm và độc hại [16], [17], [21]. (3D là viết tắt của các từ  Nguy hiểm – Danger, Bẩn thỉu – Dirtiness, và Khó khăn – Difficulty). Dự án này  nhằm mục tiêu loại bỏ các vấn đề liên quan đến nguy hiểm, bẩn gây ô nhiễm, và   khó khăn trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo lập sự an toàn và thoải mái khi   làm việc. Sơ  đồ  sau có thể  minh hoạ  cho chương trình hành động và mục tiêu   của dự án: Nguy hiểm: Yếu tố nguy hiểm có thể gây tai nạn lao động  Loại trừ nguy hiểm Bẩn gây ô nhiễm: Các yếu tố  nguy hiểm và độc hại có thể  gây bệnh nghề  nghiệp  Cải thiện môi trường làm việc Khó khăn: Công việc đôi lúc đòi hỏi lao động thể lực nặng nhọc  Cải tiến quá trình làm việc Dự án CLEAN­3D được thực hiện qua những giai đoạn sau: ­ Tạo dựng nơi làm việc sạch sẽ; ­ Trợ giúp kỹ thuật an toàn lao động; ­ Trợ giúp công tác tự kiểm tra; Luận văn Thạc sĩ Khoa học              12 Phạm Viết   Duy
  13. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  ­ Trợ  giúp các bên hợp đồng phụ  của các doanh nghiệp lớn trong công   tác quản lý an toàn lao động; ­ Trợ giúp việc hướng dẫn chăm lo sức khoẻ. 1. Tạo dựng nơi làm việc sạch sẽ: Đói tượng chủ yếu là các doanh nghiệp   vừa và nhỏ đang giải quyết vấn đề liên quan đến công tác an toàn lao động hoặc   môi trường làm việc yếu kém; 2. Trợ  giúp kỹ  thuật an toàn lao động: Đói tượng là doanh nghiệp vừa và  nhỏ  đã để  xảy ra tai nạn lao động trong vòng hai năm qua hoặc doanh nghiệp   trong ngành mà lao động thường xuyên phải tiếp xúc với các chất hóa học nguy   hiểm và độc hại. Nhóm công tác trợ giúp kỹ thuật có trách nhiệm giúp đỡ doanh   nghiệp xoá bỏ các yếu tố 3D và cải thiện môi trường làm việc nghèo nàn thông   qua việc đi thăm cơ sở sản xuất ít nhất 4 lần một năm; 3. Trợ giúp công tác tự kiểm tra: Các cơ quan chức năng thông qua các loại   thiết bị  cần thiết nhất định kiểm tra công tác an toàn lao động tại các cơ  sở  sau   đó hướng dẫn các cơ sở tự sử dụng các loại thiết bị này để  thường xuyên kiểm  tra cong tác an toàn lao động trong bản thân doanh nghiệp; 4. Trợ giúp các bên hợp đồng phụ có đối tượng là các doanh nghiệp lớn ký   hợp đồng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; 5. Hướng dẫn chăm sóc sức khỏe áp dụng cho các doanh nghiệp loại nhỏ  có quy mô sử  dụng thường xuyên dưới 10 lao động hoặc các doanh nghiệp vừa  và nhỏ đã phát hiện hoặc nghi ngờ có bệnh nghề nghiệp. Thành công của Dự  án CLEAN­3D tại Hàn Quốc là tăng số  lượng việc   làm đồng thời giảm tai nạn lao động tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh  đó, dự án góp phần tạo nên môi trường trong sạch, an toàn và thuận tiện cho mọi  người và mọi lao động tại nơi làm việc. 1.2. TỔNG QUAN LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm và lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam Khái niệm về làng nghề Việt Nam: Luận văn Thạc sĩ Khoa học              13 Phạm Viết   Duy
  14. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Làng nghề Việt Nam là một thuật ngữ dùng để chỉ các cộng đồng cư dân,  chủ yếu  ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn Việt Nam, có chung truyền  thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại. Làng nghề thường mang  tính truyền thống đặc sắc, đặc trưng, không chỉ có tính chất kinh tế mà còn mang  màu sắc văn hóa, đặc điểm du lịch tại Việt Nam [9]. Theo tiêu chí “Làng nghề  nông thôn Việt Nam” thì làng làm nghề  truyền  thống được công nhận là làng nghề  khi có trên 30% tổng số  dân tham gia sản  xuất các sản phẩm phi nông nghiệp và tổng doanh thu do hoạt động sản xuất  chiếm trên 50% tổng doanh thu của cả làng [2].  Lịch sử phát triển các làng nghề Việt Nam: Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Đa số các  làng nghề  đã trải qua lịch sử  phát triển hàng trăm năm, song song với quá trình   phát triển KT­XH, văn hóa và nông nghiệp của đất nước. Ví dụ  như  làng đúc   đồng Đại Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát triển, làng nghề gốm Bát Tràng   (Hà Nội) có gần  500 năm tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm – Thái Bình hay  nghề  điêu khắc đá mỹ  nghệ   ở  Ninh Vân – Hoa Lư  – Ninh Bình cũng đã hình  thành cách đây hơn 400 năm,... Kỹ  thuật, công nghệ, quy trình sản xuất cơ  bản  để làm ra các sản phẩm này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác [9], [2]. Hiện nay, cả  nước có khoảng 1450 làng nghề  truyền thống với tổng số  1,4 triệu nhân công, phân bố ở 58 tỉnh và thành phố trong cả nước. Trên cả nước,   làng nghề  phân phố  tập trung chủ  yếu tại đồng bằng sông Hồng   khoảng 800  làng (chiếm 67,3%), miền Trung 20,5% và miền Nam 12,2%. Các tỉnh có số lượng  làng nghề đông bao gồm: Hà Tây cũ có 280 làng,  Thái Bình có 18 làng, Thanh Hoá  có 127 làng, Nam Định có 90 làng, Hải Dương có 65 làng [16]. Trong vài năm gần đây, làng nghề  đang thay đổi nhanh chóng theo nền  kinh tế  thị  trường, phục vụ  tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Quá trình công  nghiệp hóa cùng với việc phát triển ngành nghề  nông thôn đã làm tăng mức thu  nhập bình quân của người dân, các công nghệ mới đang ngày càng được áp dụng  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              14 Phạm Viết   Duy
  15. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  phổ  biến. Các làng nghề  mới và các cụm làng nghề  không ngừng được khuyến   khích phát triển nhằm đạt được sự tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và thu nhập  ổn định ở khu vực nông thôn. 1.2.2. Vấn đề về môi trường làng nghề Bên cạnh mặt tích cực và những đóng góp lớn cho nền kinh tế ­ xã hội thì  sự  phát triển của hoạt động sản xuất làng nghề  cũng mang lại nhiều bất cập,   đặc biệt về vấn đề  ô nhiễm môi trường, tác động trực tiếp tới sức khỏe người   dân và ngày càng trở thành vấn đề bức xúc. 1.2.2.1. Môi trường không khí tại các làng nghề * Đặc trưng khí thải và ô nhiễm không khí tại các làng nghề: Khí thải ở các làng nghề thường chứa nhiều thành phần các chất ô nhiễm   không khí như: bụi, CO2, CO, SO2, NOx, chất hữu cơ  bay hơi. Ngoài ra, các khí  độc hại còn được sinh ra trong quá trình phân huỷ yếm khí các hợp chất hữu cơ  có trong nước thải và các chất hữu cơ  dạng rắn, đó là các khí: H2S, NH3, CH4... [4], [9]. Môi trường khu vực sản xuất ở các làng nghề tái chế ngoài ô nhiễm không   khí do đốt nhiên liệu, thể  hiện  ở các thông số  ô nhiễm như  bụi, CO2, CO, SO2,  NOx…,quá trình tái chế và gia công cũng gây phát sinh các khí độc như  hơi axit,   kiềm, kim loại (PbO, ZnO, Al2O3) và gây ô nhiễm nhiệt [2].   Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ,   ô nhiễm không khí không chỉ do sử  dụng nhiên liệu mà còn do sự  phân hủy các   chất hữu cơ trong nước thải, chất rắn tạo nên các khí như  SO 2, NO2, H2S, NH3,  CH4,…  Tại các làng nghề ươm tơ, dệt vải và thuộc da thường bị ô nhiễm bởi các   thông số như bụi, SO2, NO2. Môi trường vi khí hậu ở các làng nghề dệt thường bị  ô nhiễm bởi tiếng  ồn do các máy dệt thủ  công. Mức  ồn vượt TCVN từ  4 – 14  dBA [2].   Luận văn Thạc sĩ Khoa học              15 Phạm Viết   Duy
  16. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Đối với các làng nghề  thủ  công mỹ  nghệ, thêu ren, ô nhiễm không khí  thường chỉ xảy ra tại một số làng nghề chế tác đá và sản xuất mây tre đan. Môi  trường không khí xung quanh khu vực sản xuất của làng nghề  chế  tác đá bị  ô   nhiễm nghiêm trọng do bụi đá và tiếng  ồn. Đặc biệt, trong bụi phát sinh từ  chế  tác đá còn chứa một lượng không nhỏ  SiO2 (0,56 – 1,91% tại làng nghề  đá Non  Nước – Đà Nẵng) rất có hại cho sức khỏe. Trong khi đó, tại làng nghề sản xuất  mây tre đan, không khí thường bị  ô nhiễm bởi SO 2  phát sinh từ  quá trình xử  lý  chống mốc cho các sản phẩm mây tre đan.  Tại các làng nghề  sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá, ô nhiễm  không khí diễn ra phổ biến và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Đối với các làng  nghề sản xuất vật liệu xây dựng, chất lượng không khí bị  suy giảm chủ yếu do   khí thải từ đốt nhiên liệu đã sinh ra các khí SO2, CO, CO2, NO và nhiều loại chất  thải nguy hại khác [8].  Trong khi đó, ở các làng nghề khai thác đá, bụi phát sinh   từ  quá trình khai thác và chế  tác đá là nguyên nhân chủ  yếu dẫn đến ô nhiễm  không khí ở đây. Kết quả khảo sát ở khu vực làng nghề cho thấy hàm lượng bụi  vượt TCVN từ 3 – 8 lần, hàm lượng SO2 có nơi vượt đến 6,5 lần [2].  1.2.2.2. Môi trường nước mặt và nước ngầm tại các làng nghề * Đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề Ô nhiễm môi trường nước với các chất thải độc hại khó phân huỷ đang là  một vấn nạn nóng bỏng tại các làng nghề. Khối lượng và đặc trưng nước thải  sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ và nguyên liệu dùng  trong sản xuất. Một số  ngành như  tái chế, chế  tác kim loại, đúc đồng, nhôm, ….trong nước thải bị ô nhiễm các chất rất độc hại như  các hóa chất, axit, muối  kim loại, xyanua và các kim loại nặng như Hg, Pb, Cr, Zn, Cu,…. vượt tiêu chuẩn   cho phép nhiều lần. Nước thải từ  các làng nghề   ươm tơ, dệt nhuộm có BOD 5,  COD và độ  màu rất cao (vượt tiêu chuẩn 2­5 lần), gây ô nhiễm nghiêm trọng  nguồn nước mặt [8].  Luận văn Thạc sĩ Khoa học              16 Phạm Viết   Duy
  17. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Đối với các làng nghề  chế  biến lương thực và thực phẩm, nước thải rất   giàu chất hữu cơ, các chỉ tiêu: BOD, COD, SS đều lớn hơn rất nhiều so với tiêu  chuẩn, phát sinh rất nhiều các chất ô nhiễm thứ cấp dạng khí: CH4, H2S, NH3…  và là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh phát triển [4]. Tại các làng nghề tái chế phế liệu, nước  thải chứa nhiều chất độc hại như  kim loại nặng (Zn, Fe, Cr, Ni,….), dầu mỡ công nghiệp, ngoài ra còn tạo ra muối  Hg, xyanua, oxit kim loại và các tạp chất khác.  Tại các làng nghề  thủ  công mỹ  nghệ, hàm lượng COD và BOD5  trong  nước thải thường vượt TCVN từ 2­5 lần và từ 5,5­8,5 lần. * Đặc trưng ô nhiễm nước mặt ở các làng nghề Nước mặt  ở  các sông hồ  địa phương, đặc biệt là tại các làng nghề  trong   lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu ở phía Bắc và hệ thống sông Đồng Nai  ở phía Nam bị ô nhiễm do chịu tác động trực tiếp của nước thải sản xuất, có nơi  đã đến mức báo động. Các làng nghề  chế  biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ,   nước mặt bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng, đang ở  mức báo động, nhiều nơi có  COD, BOD5, NH4, Coliform vượt TCVN hàng chục đến hàng trăm lần.  Nước  mặt  ở  các làng nghề  dệt nhuộm,  ươm tơ  và thuộc da cũng bị  ô nhiễm hữu cơ  nặng với COD vượt TCVN 2­3 lần, BOD5 1,5­2,5 lần.  Các làng nghề thủ công mỹ nghệ, nước mặt bị ô nhiễm cao, đặc biệt đối   với làng nghề  mây tre đan có độ  ô nhiễm hữu cơ  cao, hàm lượng COD, BOD 5,  NH4, Coliform, độ màu đều tăng cao, vượt TCVN nhiều lần. 1.2.2.3. Môi trường đất tại các làng nghề Ô nhiễm môi trường đất chủ  yếu tập trung  ở  các làng nghề  tái chế  kim   loại. Hàm lượng các kim loại nặng trong đất cũng rất cao, vượt nhiều lần so với   TCCP [8]. 1.2.2.4. Chất thải rắn tại các làng nghề Luận văn Thạc sĩ Khoa học              17 Phạm Viết   Duy
  18. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Chất thải rắn  ở hầu hết các làng nghề  chưa được thu gom và xử  lý triệt   để, gây ô nhiễm môi trường không khí, nước và đất. Theo số liệu nghiên cứu của   Sở Công thương Hà Nội 2008, khối lượng chất thải rắn của 255 làng nghề thuộc   thành phố  Hà Nội sau khi mở  rộng đã lên tới 207,3 m3/ngày (tương đương với  khoảng 90 tấn/ngày) chưa tính chất thải rắn chăn nuôi gia súc, gia cầm [2].  * Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: Chất thải rắn ở nhóm làng nghề này giàu chất hữu cơ, hầu hết chưa được   quan tâm xử  lý, xả  thải bừa bãi vào môi trường. Các làng nghề  này thải ra khối   lượng lớn chất thải rắn (bã thải có độ ẩm rất cao và chiếm tới 50% nguyên liệu,   chủ  yếu là xơ  khoảng 10% và tinh bột khoảng 4­5%). Chẳng hạn, sản lượng   52.000 tấn tinh bột/năm, làng nghề  Dương Liễu hàng năm phát sinh tới 105.768   tấn bã thải [2]. Loại hình giết mổ  gia súc, gia cầm cũng tạo ra một lượng chất   thải rắn đáng kể. Chất thải rắn loại này ngoài phân còn chứa một lượng không  nhỏ mỡ động vật rất chậm phân huỷ.  * Các làng nghề tái chế phế liệu: Ở  nhóm làng nghề  này, chất thải rắn có thành phần phức tạp, khó phân   huỷ. Làng nghề  tái chế  kim loại, nguồn chất thải rắn phát sinh bao gồm: bavia,  bụi kim loại, phoi, rỉ sắt, lượng phát sinh khoảng 1­7 tấn/ngày [2]. Làng nghề tái chế giấy, nhựa thải ra các chất thải rắn bao gồm: nhãn mác,  bột giấy, băng ghim, băng dán, tạp chất không tái sinh được,…  * Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ và thuộc da: Các làng nghề ươm tơ, dệt vải, chất thải rắn bao gồm bụi bông, vải vụn  từ se sợi, dệt, cắt may; bã kén từ ươm tơ, kéo sợi, xỉ than, bao bì, thùng đựng hoá   chất, nguyên liệu,...Các làng nghề may gia công, da giầy tạo ra chất thải rắn như  vải vụn, da vụn gồm da tự nhiên, giả  da, cao su, chất dẻo,....với lượng thải lên   tới 2­5 tấn/ngày [2]. * Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: Luận văn Thạc sĩ Khoa học              18 Phạm Viết   Duy
  19. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Ở các làng nghề này, chất thải rắn không nhiều và hầu hết chất thải rắn  ở đây được tận dụng làm nhiên liệu trong sinh hoạt hàng ngày ở các hộ gia đình. * Các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: Tại các làng nghề này, chất thải rắn chủ yếu là đá vụn, vỉa đá nhỏ. Đây là   những loại chất rắn khó phân hủy, lượng thải lớn, chứa nhiều bụi đá với hàm  lượng SiO2  cao. Tiếng  ồn  ở  các làng nghề  này là rất lớn vượt tiêu chuẩn cho   phép rất nhiều lần. Ngoài ra còn có các giẻ lau các dung môi, hoá chất xử lý màu,  dầu mỡ của các động cơ, máy móc cũng gây ô nhiễm môi trường nhiêm trọng. 1.2.3. Vấn đề về bệnh nghề nghiệp làng nghề Báo cáo về hiện trạng môi trường của Bộ  TN­MT nêu rõ: Thời gian gần  đây tại nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc bệnh (đặc biệt là nhóm người trong độ  tuổi lao động) đang có xu hướng gia tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ  trung bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so   với tuổi thọ trung bình toàn quốc và so với làng không làm nghề tuổi thọ này cũng   thấp hơn từ 5­10 năm [2], [17].  Theo thống kê tại tỉnh Hà Nam, so sánh giữa 7 làng nghề và 7 làng không   làm nghề, tỷ lệ mắc các bệnh ngoài da, tiêu chảy, hô hấp và đau mắt tại 7 làng   nghề cao hơn rất nhiều so với làng không làm nghề [2]. Một số nghiên cứu tại một số làng nghề ở Hà Nội cũng cho thấy giữa các   khu vực làng nghề  và không làm nghề, tỷ  lệ  mắc bệnh của các đối tượng khu   vực làng nghề cao hơn hẳn so với khu vực làng thuần nông. Ở  các  làng  nghề   khác  nhau  thì các  bệnh nghề  nghiệp  cũng như   tỷ   lệ  người mắc bệnh nghề nghiệp là không giống nhau [8]. Trong một nghiên cứu của Viện BHLĐ năm 2005, trong số các bệnh, mắc   nhiều nhất là các bệnh về  đường hô hấp (viêm họng: 30,56%, viêm phế  quản:  25%), sau đó là các bệnh cơ xương khớp (đau khớp xương: 15,28%, đau dây thần  kinh: 9,72%), thấp hơn là các bệnh về mắt (11,11%), bệnh về tiêu hoá, bệnh về  da…[14]. Luận văn Thạc sĩ Khoa học              19 Phạm Viết   Duy
  20. Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội  Theo một khảo sát mới đây của Bộ  Lao động thương binh xã hội, thì có   khoảng 31% số  người lao động tại các làng nghề  bị  mắc bệnh liên quan đến   nghề  nghiệp, trong đó chủ  yếu là các bệnh về  đường hô hấp (32,6%), bệnh về  mắt (29,7%), bệnh điếc tiếng ồn (11,3%), bệnh tim mạch (18%) [2]. 1.2.3.1. Bệnh nghề nghiệp tại các làng nghề tái chế phế liệu Tình trạng bệnh nghề  nghiệp tại hầu hết các làng nghề  tái chế  phế  liệu  đang ngày càng gia tăng, các bệnh phổ  biến như: Bệnh hô hấp, bệnh ngoài da,   thần kinh và đặc biệt là bệnh ung thư. Có 4 loại bệnh có tỷ  lệ  mắc cao tại nhóm làng nghề  tái chế  kim loại là  bệnh phổi thông thường, bệnh tiêu hóa, mắt và phụ khoa, ung thư phổi (0,35­1%)  và lao phổi (0,4­0,6%) [7]. 1.2.3.2. Bệnh nghề  nghiệp tại làng nghề  chế  biến lương thực, thực phẩm,   chăn nuôi và giết mổ Yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe phố biến tại các làng nghề này là bức xạ  nhiệt, vi sinh vật gây bệnh, hóa chất, hơi khí độc, nước thải và chất thải rắn.   Các bệnh phổ biến tại nhóm làng nghề này là bệnh ngoài da và viêm niêm mạc.   Tỷ  lệ  mắc các bệnh phổ  biến: phụ  khoa 13­38%, tiêu hoá 8­30%, viêm da 4,5­ 23%, hô hấp 6­18%, đau mắt 9­15% [4]. 1.2.3.3. Bệnh nghề nghiệp tại  làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da Bệnh nghề  nghiệp tại các làng nghề  dệt nhuộm,  ươm tơ  được gây nên  bởi các yếu tố  như: tiếng  ồn, bụi, bụi bong, hóa chất, hơi khí độc, nước thải   chứa Javen và các loại hóa chất độc. Theo một kết quả điều tra tại 4 làng nghề  dệt lụa cho thấy người lao động có tỷ lệ  mắc bệnh hô hấp là 5,5%; đau lưng là  13%; giảm thị  lực là 15,8%; bệnh về  tai chiếm 9,5% trên tổng số  người đến  khám chữa bệnh tại trạm y tế của địa phương [2]. Trong số những bệnh cấp tính   thì bệnh đau đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh chiếm tỷ lệ cao nhất (46%) và   Luận văn Thạc sĩ Khoa học              20 Phạm Viết   Duy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2