intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu đặc trưng của dòng thải và đề xuất sơ đồ công nghệ xử lý nước thải tập trung tại khu công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:85

96
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu đặc trưng nước thải và ước tính lượng thải tại khu công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; đề xuất sơ đồ công nghệ xử lý nước thải tập trung nhằm hạn chế ô nhiễm tại Khu công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu đặc trưng của dòng thải và đề xuất sơ đồ công nghệ xử lý nước thải tập trung tại khu công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An

  1. MỞ ĐẦU Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất  nước. Hàng loạt khu công nghiệp tập trung đã được xây dựng và đi vào hoạt động.  Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao   ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục mang lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế  quốc dân.  Theo thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến, tính đến  tháng 10/2014, trên cả nước đã có 209 khu công nghiệp đi vào hoạt động với tổng  diện tích trên 47.300 hécta. Giá trị  sản xuất công nghiệp bình quân trên 1 ha đất  đã cho thuê đạt khoảng 1,6 triệu USD/ha/năm, tạo việc làm cho hơn 1,6 triệu lao   động trực  tiếp và  gần 1,8 triệu lao  động gián tiếp [29]. Phát triển  khu công  nghiệp với mục tiêu tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp, sử dụng hiệu quả  nguồn tài nguyên và năng lượng, tập trung các nguồn phát thải vào các khu vực   nhất định, nâng cao hiệu quả sản xuất, hiệu quả quản lý nguồn thải và bảo vệ  môi trường. Tuy nhiên, quá trình phát triển khu công nghiệp đã bộc lộ  một số  khuyết điểm trong việc xử lý chất thải và đảm bảo chất lượng môi trường.  Tình trạng ô nhiễm môi trường (nhất là nguồn nước) tại các khu công  nghiệp là do việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở nước ta chưa hợp   lý, cũng như thiếu các nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển. Thêm  vào đó, trong quá trình hoạt động, nhiều khu công nghiệp còn thay đổi quy hoạch  ngành nghề  so với quyết định phê duyệt đầu tư, nên thiết kế  hệ  thống xử  lý   nước thải tập trung ban đầu không đáp  ứng yêu cầu thực tiễn [29]. Theo thống  kê cho thấy, năm 2011 mỗi ngày các khu công nghiệp nước ta thải ra khoảng tám   nghìn tấn chất thải rắn, tương đương khoảng ba triệu tấn một năm [26]. Khu   công   ngiệp   Nam   Cấm   được   thành   lập   theo   Quyết   định   số  3759/QĐ.UB­CN ngày 03/10/2003 của UBND tỉnh Nghệ An [22] và được UBND  tỉnh Nghệ  An phê duyệt quy hoạch chi tiết tại Quyết định số  2555/QĐ.UB­CN  1
  2. ngày 12/7/2004.  Nằm hai bên Quốc lộ 1A, có tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy   qua, đường tỉnh lộ Nam Cấm nối Quốc lộ 1A với cảng biển Cửa Lò. Cách thành   phố Vinh 18km về phía Bắc, cách sân bay Vinh 12km, cách ga Vinh 17 km và ga   Quán Hành 2km, cách cảng biển Cửa Lò 8 km. Khu công nghiệp Nam Cấm có  diện tích quy hoạch 327,83 ha bao gồm 3 tiểu khu A, B, C, là khu công nghiệp  tổng hợp với các ngành chủ  yếu: chế  biến nông – lâm – thủy sản, rượu, bia,   nước giải khát, sản xuất vật liệu xây dựng, chế  biến khoáng sản, lắp ráp máy,   dệt may, nhựa, hàng tiêu dùng, dụng cụ  thể  thao, thiết bị văn phòng phẩm [21].  Sau hơn 10 năm xây dựng, Khu công nghiệp Nam Cấm  đã thu hút 18 doanh   nghiệp vào hoạt động. Mặc dù, được xem là khu công nghiệp mới, được đầu tư  công nghệ hiện đại trong sản xuất. Tuy nhiên, đến nay khu công nghiệp này vẫn  chưa có hệ  thống xử  lý nước thải tập trung, ô nhiễm môi trường nước   đã và   đang gây  ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân. Hàng ngày, hàng   ngàn hộ  dân sống xung quanh khu công nghiệp phải chấp nhận sống chung với   nguồn nước thải chưa qua xử  lý đổ  ra từ  các nhà máy. Vì vậy, đòi hỏi phải có  những biện pháp thiết thực trong quản lý và giảm thiểu ô nhiễm để  bảo vệ môi   trường. Từ  những thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề  tài  “Nghiên cứu đặc trưng   của dòng thải và đề xuất sơ đồ công nghệ xử lý nước thải tập trung tại khu   công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An”  với mục tiêu hiểu rõ  tính chất lý hóa của dòng thải lỏng, ước tính được lượng thải để có thể đề xuất   được một quy trình xử lý nước thải phù hợp cho khu công nghiệp Nam Cấm. Mục tiêu của đề tài ­ Nghiên cứu đặc trưng nước thải và  ước tính lượng thải tại khu công  nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. ­ Đề  xuất sơ  đồ  công nghệ  xử  lý nước thải tập trung nhằm hạn chế  ô   nhiễm tại Khu công nghiệp Nam Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. 2
  3. Giới hạn của đề tài Các vấn đề liên quan đến chất lượng nước thải của Khu công nghiệp Nam  Cấm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 1.1. Khu công nghiệp (KCN)  1.1.1. Giới thiệu chung về khu công nghiệp  a) Khái niệm  Khu công nghiệp (KCN) là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất  hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp có ranh giới  địa lý xác định, không có dân cư  sinh sống do chính phủ  hoặc thủ  tướng chính  phủ quyết định. Nói cách khác có thể hiểu KCN là một quần thể các xí nghiệp công nghiệp  xây dựng trên một vùng thuận lợi về các yếu tố địa lý tự nhiên, kết cấu hạ tầng,   xã hội....để  thu hút vốn đầu tư  và hoạt động theo một cơ  cấu hợp lý nhằm đạt  hiệu quả cao trong sản xuấtt công nghiệp và kinh doanh [16, 31].  b) Đặc điểm của KCN Về mặt pháp lý: KCN là phần lãnh thổ  của nước sở tại, các doanh nghiệp   hoạt động trong KCN chịu sự điều chỉnh pháp luật của nước sở tại như luật đầu   tư nước ngoài, luật lao động, quy chế khu công nghiệp... Về mặt kinh tế: KCN là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp.   Các nguồn lực của nước sở tại, các nhà đầu  tư trong và ngoài nước tập trung vào   một khu địa lý xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát triển cơ cấu, những  ngành mà nước sở tại  ưu tiên, cho phép đầu tư. Bên cạnh đó, thủ  tục hành chính   3
  4. đơn giản, có ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt tại đây thuận lợi cho   việc sản xuất kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu của nước sở  tại khi xây dựng khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy  xuất khẩu tạo việc làm, phát triển cơ  sở hạ  tầng, chuyển giao công nghệ, giảm  thiểu ô nhiễm môi trường [17]. c)  Nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển KCN [3, 5, 8, 19, 28]  Vị  trí địa lý: Trong 10 yếu tố  thành công của KCN do Hiệp hội KCN thế  giới đã tổng kết, có hai yếu tố  thuộc về yếu tố địa lý và điều kiện tự  nhiên, đó   là: Gần các tuyến giao thông đường bộ,  đường hàng không, đường biển. Có  nguồn cung cấp nguyên liệu và lao động.  Rõ ràng việc xây dựng các KCN ở các khu vực này sẽ tận dụng được đầu   vào có sẵn, làm giảm chi phí vận chuyển, có điều kiện mở rộng trong điều kiện   KCN thành công. Vị  trí kinh tế  xã hội: Các trung tâm đô thị  vừa là trung tâm kinh tế, vừa là  trung tâm chính trị. Do đó sẽ tập trung nhiều ngành sản xuất, cơ sở vật chất kỹ  thuật tốt, đội ngũ lao động có trình độ  cao, chuyên môn giỏi. Do vậy, hiện nay   các KCN chủ  yếu tập trung  ở các thành phố lớn để  tận dụng điều kiện sẵn có,  giảm rủi ro và tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Kết cấu hạ  tầng: Đây là yếu tố  có  ảnh hưởng rất lớn đến thu hút đầu tư  vào KCN. Với các nhà đầu tư  xây dựng cơ sở hạ tầng mối quan tâm là vị  trí thì  với các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tấng. Kết cấu hạ tầng:   điện, nước, công tình công cộng khác như  đường xá, cầu cống... tác động trực  tiếp đến giá thuế đất, ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư. Thị  trường: Đối với các công ty nước ngoài, mục tiêu đầu tư  vào các KCN  là tận dụng thị trường nước chủ nhà, đưa nguồn vốn và hoạt động sinh lợi tránh   tình trạng  ứ  đọng vốn, đồng thời có thể  tận dụng được nguồn tài nguyên nhân  4
  5. công rẻ  cộng với thị  trường rộng lớn. Nghiên cứu thị  trường là một trong các   hạng mục phải xem xét trong quá trình lập dự án nghiên cứu khả thi. Vốn đầu tư  nước ngoài: Trong khi các nước đang phát triển gặp phải tình   trạng thiếu vốn thì các công ty xuyên quốc gia đang có nguồn vốn lớn mong  muốn có một môi trường đầu tư có lợi nhất song không phải bất kỳ đâu họ cũng  bỏ vốn vào đầu tư. Yếu tố chính trị: Quan hệ chính trị tốt đẹp là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng   quan hệ  hợp tác kinh tế. Thông thường những tác động này thể  hiện  ở: Việc   dành cho các nước kém phát triển điều kiện ưu đãi về vốn đặc biệt là vốn ODA,  các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản cho vay ưu đãi. Tạo điều kiện   xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm, thiết bị công nghệ. Ký kết các hiệp  ước thương mại giữa các Chính phủ  cho phép các tổ  chức kinh tế, cá nhân, các  đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia. d)  Sự phân bố của KCN phải đảm bảo những điều kiện sau ­ Có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi có hiệu quả, có đất để  mở rộng và nếu có thể liên kết thành các cụm công nghiệp. Quy mô KCN và quy   mô xí nghiệp phải phù hợp với công nghệ chính gắn kết với kết cấu hạ tầng. ­ Thủ  tục đơn giản nhanh chóng thu hút các nhà đầu tư, quản lý và điều  hành nhanh nhạy, ít đầu mối. ­ Có khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu tương đối  thuận lợi, có cự ly vận tải thích hợp. ­ Có thị trường tiêu thụ sản phẩm. ­ Có khả năng đáp ứng nhu cầu lao động cả số lượng và chất lượng với chi   phí tiền lương thích hợp. 1.1.2. Lịch sử và xu hướng phát triển KCN trên thế giới và Việt Nam 5
  6. a) Trên thế giới [5, 8, 24, 27] Từ  lâu trong lịch sử  phát triển kinh tế, người ta đã phát triển loại hình  KCN để  tập trung các nhà máy sản xuất công nghiệp vào trong một khu vực.  KCN đầu tiên trên thế  giới được thành lập vào năm 1896  ở  Trafford Park thành  phố Manchester (Anh) với tư cách là một doanh nghiệp tư nhân. Sau đó vào năm  1899 vùng công nghiệp Clearing  ở thành phố Chicago, bang Illinois bắt đầu hoạt  động và được coi là KCN đầu tiên của Mỹ. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, do  điều kiện địa lý, môi trường và một số yếu tố khách quan cho thấy lợi thế giữa   KCN tập trung và KCN riêng lẻ  chưa có sự  chênh lệch đáng kể  nên số  lượng   KCN tập trung chưa được các doanh nghiệp công nghiệp chú trọng, cho đến   những năm 1950 ­ 1960. Do điều kiện công nghiệp phát triển mạnh nên ngoài  điều kiện môi trường sinh thái và các điều kiện xã hội đã có sự bùng nổ về phát   triển các vùng công nghiệp và KCN tập trung. Đối với những nước đang phát triển đầu tiên đã sử  dụng hệ  thống KCN là   Pucto Rico. Trong những năm từ  1947­1963, Chính phủ  Pucto Rico đã xây dựng  480 nhà máy để  cho các doanh nghiêp thuê với cơ sở hạ  tầng phù hợp nhằm thu   hút các công ty chế  biến của Mỹ, hầu hết các nhà máy tập trung trong hơn 30   KCN.  KCN đầu tiên ở các nước châu Á được khai sinh ở Singapore vào năm 1951,  đến năm 1954 Malaysia cũng bắt đầu thành lập KCN cho đến giữa thập kỷ 90 đã   có 139 KCN, Ấn Độ bắt đầu thành lập KCN từ 1955 đến năm 1979 đã có 705 khu   công nghiệp. Bên cạnh những mặt tích cực trong phát triển các KCN là những thách thức   về môi trường đi kèm, đòi hỏi cần phải có bài toán cân bằng giữa phát triển kinh  tế và bảo vệ môi trường. Khái niệm khu công nghiệp sinh thái (KCNST) bắt đầu  được phát triển từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 trên cơ sở của Sinh thái học   công nghiệp (STHCN). Với quan điểm hệ  công nghiệp không phải là các thực   thể  riêng rẽ  mà là một tổng thể  các hệ  thống liên quan giống như  hệ  sinh thái,   STHCN tìm cách loại trừ  khái niệm “chất thải” trong sản xuất công nghiệp và  6
  7. mục tiêu cơ  bản của nó là tăng cường hiệu quả  của hoạt động công nghiệp và  cải thiện môi trường như: giảm thiểu sử dụng tài nguyên thiên nhiên không thể  tái tạo, giảm thiểu các tác động xấu môi trường, duy trì hệ sinh thái tự nhiên của  khu vực… Nói cách khác, khu công nghiệp sinh thái là KCN mà  ở  đó nhiều nhà  máy hoạt động độc lập nhưng kết hợp với nhau một cách tự nguyện, hình thành   quan hệ cộng sinh giữa các nhà máy với nhau và môi trường. KCN Kalundborg, Đan Mạch được coi là KCN điển hình đầu tiên trên thế  giới  ứng dụng những nghiên cứu của STHCN vào việc phát triển một hệ  thống   cộng sinh công nghiệp thông qua sự trao đổi năng lượng và nguyên vật liệu giữa  các công ty. Trong vòng 15 năm từ 1982­1997, lượng tiêu thụ tài nguyên của KCN  này   giảm   được   19.000   tấn   dầu,   30.000   tấn   than,   600.000m3   nước,   và   giảm   130.000 tấn các­bon dioxide thải ra. Mô hình hoạt động KCN này là cơ sở  quan  trọng   để   hình   thành   hệ   thống   lý   luận   STHCN   và   các   KCNST   trên   thế   giới.  Nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho sự phát triển KCNST Kalundborg là sự phù  hợp giữa các ngành công nghiệp trên phương diện trao đổi chất thải, khoảng  cách giữa các nhà máy không quá lớn, mỗi nhà máy đều nắm bắt thông tin liên   quan đến nhà máy khác trong KCN, động cơ thúc đẩy các nhà máy tham gia vào   KCNST là sự phát triển kinh tế bền vững, sự phối hợp giữa các nhà máy trên tinh  thần tự nguyện và phù hợp với quy định về bảo vệ môi trường. KCN Riverside, Mỹ nằm  ở thung lũng Burlington có diện tích 40ha, là một   KCNST nông nghiệp hỗn hợp đa chức năng. Phát triển dựa trên sự phối hợp giữa   các nhà máy bên trong KCN và bên ngoài trao đổi nguyên liệu và phế  phẩm.   Nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho sự phát triển KCNST Riverside là: Khuyến   khích sự phát triển nền kinh tế tự cung tự cấp địa phương và tận dụng tối đa các   nguồn lực địa phương. Cân bằng các lợi ích kinh tế  và  ảnh hưởng của sự  phát  triển. Thúc đẩy và sử  dụng hiệu quả  nguồn tài chính. Bảo vệ  và bảo tồn các   nguồn  tài nguyên  và   môi  trường  địa  phương,   đặc   biệt  là  ngành nông  nghiệp  truyền thống. Luôn đảm bảo sự  hợp tác chặt chẽ  với cộng đồng địa phương.  7
  8. Hợp tác với các tổ  chức phi lợi nhuận thúc đẩy các hoạt động hàng hóa và dịch  vụ.  KCN Map Ta Phut, Thái Lan nằm  ở  phía Đông Thái Lan có tổng diện tích  2.000ha, tập trung 89 nhà máy với 20.000 công nhân. Nguyên tắc cơ bản làm nền  tảng cho sự phát triển KCNST Map Ta Phut là trao đổi và tái chế chất thải, điều   phối giao thông và duy tu bảo dưỡng phương tiện, trao đổi và tiếp xúc cộng   đồng, cùng tạo ra năng lượng, nguồn nhân lực, vấn đề  đào tạo, hệ  thống môi  trường, an toàn, sức khỏe con người. KCN Guitang Group, Trung Quốc nằm trong tỉnh Guangxi thuộc Tây Nam   Trung Quốc có tổng diện tích 2 km2.  KCN bao gồm các nhà máy tinh chế đường  lớn nhất Trung Quốc, thành lập năm 1956. Nguyên tắc cơ bản  làm nền tảng cho   sự  phát triển KCNST Guitang Group là trao đổi và tái chế chất thải, hỗ trợ  của   chính phủ về chính sách đối với sử dụng sản phẩm phụ, đào tạo nhân sự trẻ tại  địa phương, hỗ  trợ  chuyển đổi từ  phương thức sản xuất nông nghiệp cũ sang   nông nghiệp sinh thái, duy trì đổi mới môi trường kinh tế và xã hội nông thôn… Với sự  nghiên cứu ngày càng sâu về  STHCN và với các tiến bộ  vượt bậc   của khoa học kỹ thuật và công nghệ, KCNST đã trở  thành một mô hình mới cho  việc phát triển công nghiệp, kinh tế  và xã hội phù hợp với tiến trình phát triển   bền vững toàn cầu. Đến nay, KCNST được hiểu là một “cộng đồng” các doanh   nghiệp sản xuất và dịch vụ có mối liên hệ mật thiết trên cùng một lợi ích: hướng   tới một hoạt động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường chất lượng cao, thông   qua sự hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và nguồn tài nguyên.   Bằng các hoạt động hợp tác chặt chẽ  với nhau, “cộng đồng” KCNST sẽ  đạt   được một hiệu quả  tổng thể  lớn hơn nhiều so với tổng các hiệu quả  mà từng  doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ gộp lại. Một KCNST thực sự cần phải là: 8
  9. ­ Một mạng lưới hay một nhóm các doanh nghiệp sử  dụng các bán thành   phẩm, phế phẩm hay phụ phẩm của nhau. ­ Một tập hợp các doanh nghiệp tái chế. ­ Một tập hợp các công ty có công nghệ sản xuất bảo vệ môi trường. ­ Một tập hợp các công ty sản xuất sản phẩm “sạch”. ­ Một KCN được thiết kế  theo một chủ  đề  môi trường nhất định (ví dụ  KCNST năng lượng tái sinh, KCNST tái tạo tài nguyên). ­ Một KCN với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và công trình xây dựng bảo vệ môi  trường. ­ Một khu vực phát triển hỗn hợp và đồng bộ  (công nghiệp, thương mại, dịch  vụ). Hiện nay, trên thế giới có khoảng 30 KCNST, phần lớn nằm  ở nước Mỹ  và châu Âu. Tại châu Á, mạng lưới công nghiệp sinh thái với một số các KCNST  đã được thành lập và phát triển ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước  khác. Mỗi một KCNST có một chủ  đề  (đặc trưng) riêng về  môi trường hay hệ  sinh thái công nghiệp trong đó. Dựa vào đó, người ta chia KCNST thành năm loại   chính: KCNST nông nghiệp; KCNST tái tạo tài nguyên; KCNST năng lượng tái  sinh; KCNST nhà máy điện và KCNST lọc hóa dầu hay hóa chất. b) Ở Việt Nam [3, 6­8, 16­19, 24] Tiền thân phát triển các KCN là khu kỹ  nghệ  Biên Hòa (nay là KCN Biên  Hòa I) được thành lập năm 1963; Nơi này có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển  công nghiệp, đây cũng là KCN lớn nhất và phát triển nhất sau ngày miền Nam  giải phóng 1975. Song song đó, tại miền Bắc cũng đã bắt đầu xây dựng nhiều  khu liên hợp, cụm công nghiệp lớn nhằm phát triển công nghiệp tạo cơ sở phát   triển các KCN; điển hình là khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên. 9
  10. Nhằm mở  rộng và nâng cao hiệu quả  hoạt động của việc hình thành xây   dựng, phát triển và quản lý KCN, ngày 18/10/1991 Chính phủ  Việt Nam đã ban  hành quy chế  KCN kèm theo Nghị  định 322/HĐBT và năm 1994 Chính phủ  ban   hành quy chế KCN kèm theo Nghị định 192/CP. Đánh dấu cho bước mở đầu của  việc phát triển KCN  ở  nước ta, ngày 24/4/1997 Chính phủ  ban hành Nghị  định   36/CP thống nhất các quy chế KCN nhằm kiện toàn và đẩy nhanh tốc độ đầu tư  xây dựng và phát triển các KCN; tạo một hành lang pháp lý đặc biệt cho loại hình  kinh tế  còn khá   mới  mẻ   lại có   điểm  xuất  phát thấp,  chúng ta   chưa  có  kinh  nghiệm lại thiếu tiềm lực về nguồn vốn đầu tư các cơ sở vật chất hạ tầng trong  cũng như ngoài địa bàn KCN. Hơn nữa lại chịu sự cạnh tranh rất gay gắt về thu   hút đầu tư  nước ngoài của các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Thái Lan,   Indonesia. Tuy nhiên với đường lối chính trị đúng, Đảng ta đã lãnh đạo công cuộc  đổi mới và thu được những thành công, đã khẳng định được vị  trí của đất nước   trên trường quốc tế. Với các chính sách kinh tế  mở, thông thoáng đã hấp dẫn   được các nhà đầu tư và các quốc gia trên thế  giới.  Theo Vụ  Quản lý KCN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến thời điểm hiện   nay có khoảng 298 KCN đang hoạt động với sự  phân bố  khác nhau trong các   vùng, miền; điển hình như Đồng Nai: 32 KCN, Tp.Hồ Chí Minh: 19 KCN, Long  An: 36 KCN, Bình Dương: 25 KCN, Nghệ An: 3KCN, Đà Nẵng: 6 KCN, Hà Nội:  9 KCN… Các KCN đã được thành lập  ở  Việt Nam phần lớn tập trung tại các   vùng kinh tế trọng điểm: Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 23 khu, diện tích  3.345 ha, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 50 khu, diện tích 11.579 ha, Vùng  kinh tế trọng điểm miền Trung có 17 khu, diện tích 2.466 ha và khu kinh tế Dung   Quất (Quảng Ngãi), khu kinh tế  mở  Chu Lai (Quảng Nam). Ngoài ra, các khu   khác có 16 khu, diện tích 2.837ha. Hệ thống KCN ở nước ta gồm nhiều loại hình,   đa dạng về quy mô, tính chất và trình độ hiện đại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các KCN, các vấn đề môi trường cũng   nảy sinh nhanh chóng. Việc lắp đặt các hệ  thống xử  lí khí thải, nước thải… đã  10
  11. được các khu công nghiệp chú trọng. Đặc biệt, công tác quản lí môi trường ngày  càng được các cấp liên quan đề cao. Đến nay, trên cả nước đã có 67 Ban quản lý được thành lập, thực hiện chức  năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với các KCN, KCX và KKT trên các lĩnh vực:   đầu tư, quy hoạch ­ xây dựng, tài nguyên ­ môi trường, doanh nghiệp ­ lao động,   thương mại ­ xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc Nhà nước cải thiện các thủ tục hành  chính chung, các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh cũng đã ban hành những chính sách  đơn giản hóa, giảm thiểu và công khai các thủ  tục hành chính để  tạo điều kiện  thuận lợi cho các nhà đầu tư. Đồng thời, các cơ  quan quản lý chuyên ngành như  hải quan, ngân hàng, công an... cũng đã được thành lập tại các KCN. Trên cơ  sở  cơ  chế   ủy quyền này đã hình thành và phát huy được cơ  chế  quản lý “một cửa, tại chỗ”. Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã được trao quyền quyết   định trong quản lý KCN, góp phần nâng cao hiệu quả  và hiệu lực quản lý Nhà   nước đối với KCN, rút ngắn được thủ tục hành chính, giải tỏa tâm lý cho các nhà   đầu tư  trong và ngoài nước về  chính sách của nhà nước ta đối với việc đầu tư  vào các KCN, góp phần không nhỏ thúc đẩy phát triển các KCN, được các doanh  nghiệp KCN thừa nhận tính tích cực của công tác quản lý Nhà nước. Đây là cơ  chế quản lý đúng và phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển hiện nay. 1.1.3. Các ngành sản xuất và chất thải phát sinh trong KCN a) Các ngành nghề sản xuất trong một KCN [3, 4, 16­19, 31]  Như trên đã nêu, thường trong một khu công nghiệp, các ngành nghề rất đa  dạng và phụ  thuộc chủ  yếu vào các đặc điểm và các nhân tố  tác động đến sự  hình thành thuận lợi một KCN .... Đồng thời phải chú ý đến khả năng phát triển   một KCNST. Vì thế, các ngành nghề  cũng có thể  chỉ  tập trung vào một nhóm  ngành có khả  năng tận dụng được nguồn nguyên vật liệu, tài nguyên và nhân   công tại chỗ; nhưng cũng có thể  gồm nhiều loại ngành nghề  có tác dụng hỗ  trợ/cộng sinh.  11
  12. Như vậy một KCN có thể bao gồm một hoặc một số các ngành nghề sau   đây  theo Nghị  định số  29/2011/BTNMT ngày 18/4/2011 của Bộ  Tài nguyên và  Môi trường Việt Nam. ­ Ngành chế  biến thực phẩm bao gồm: sản xuất đồ  uống các loại, chế  biến   thủy   sản,   sản   xuất   bột   ngọt,   đường,   sữa,   bánh   kẹo,   nước   lọc,   đá   tinh  khiết....  ­ Ngành chế  biến nông sản: sản xuất thuốc lá, nguyên liệu thuốc lá, tinh   bột, ngũ cốc, xay xát chế biến gạo, chế biến chè, cà phê, hat điều, ca cao... ­ Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản, phụ phẩm   thủy sản, bột cá... ­ Ngành sản xuất phân bón, phân vi sinh, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật... ­ Ngành sản xuất hóa chất, dược phẩm, mỹ phẩm: sản xuất thuốc thú y,  sản xuất hóa mỹ phẩm, sản xuất các sản phẩm từ chất dẻo, sơn, sản xuất nhựa,   phụ gia... ­ Ngành sản xuất giấy và văn phòng phẩm: sản xuất giấy, bột giấy, bìa  cát tông, bao bì, văn phòng phẩm... ­ Ngành sản xuất thủy tinh, gốm sứ, chế  biến gỗ: sản xuất sứ  vệ  sinh,   thủy tinh các loại, phích nước, gỗ gia dụng, ván ép, bóng đèn...  ­ Ngành luyện kim, cơ  khí: cán tôn, luyện thép, đánh bóng kim loại, sửa   chữa đầu máy, sản xuất nhôm định tính... ­ Ngành chế  biến khoáng sản: sản xuất bột đá trắng siêu mịn, tráng phủ  men, sản xuất đá ốp lát... ­ Ngành điện tử viễn thông: sản xuất các linh kiện điện tử, thiết bị điện... b) Các loại chất thải phát sinh [1, 3, 13, 16] 12
  13. Cũng như  bất kỳ  một hoạt động sản xuất nào, các chất thải đều thường   gồm 3 dạng rắn, lỏng, khí sau: ­ Chất thải rắn: Chất thải rắn phát sinh chủ  yếu  ở  là các nguyên liệu  không đạt chuẩn, các phần phụ  nguyên liệu, xỉ  tro trong quá trình đốt, bùn thải   của hệ thống xử lý nước thải và các chất thải sinh hoạt phát sinh của công nhân.  Loại chất thải này phát sinh hầu hết các ngành sản xuất nhưng có nhiều ở ngành  sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế  biến thực phẩm, sản xuất nguyên liệu giấy,   thủy tinh, gốm sứ... ­ Chất thải vào khí quyển (khí, bụi và sol khí): Các chất thải này phát sinh  trong quá trình sản xuất tại các công đoạn như  lò hơi, xay, trộn, nghiền, đốt, ép   dẻo, máy phát điện... Lượng phát sinh lớn nhất loại chất thải này chủ  yếu trong  sản xuất nhiệt điện, luyện kim, xi măng, công nghiệp chế biến khoáng sản, phân   bón, hóa chất, chất dẻo... ­ Chất thải lỏng: phát sinh trong quá trình sản xuất như rửa nguyên liệu, rửa   máy móc, ngâm tẩm nguyên liệu, nước làm mát, nước cho quá trình xử  lý bụi...  và nước thải sinh hoạt của cán bộ  công nhân viên. Loại chất thải này chủ  yếu   phát sinh trong một số ngành sản xuất như  chế  biến thực phẩm, sản xuất giấy   và nguyên liệu giấy, sản xuất mỹ phẩm, dược phẩm, thức ăn chăn nuôi... Trong cả  3 dạng chất thải này, đều có thể  có chất thải nguy hại ( là chất  thải chứa các chất hoặc các hợp chất có một trong các đặc trưng gây nguy hại   trực tiếp như  dễ  cháy, dễ  nổ, làm ngộ  độc, dễ  ăn mòn, dễ  lây nhiễm,... ; Hoặc  tương tác chất với chất khác, bền và khó phân hủy, gây nguy hại đến môi trường   và sức khỏe con người như  bụi kim loại, hơi dung môi, dầu mỡ  thải, sơn,  pin,  ắc quy....). Các chất thải nguy hại đều có thể  có ở  nhiều ngành nghề  sản xuất,   nhưng nhiều hơn cả là ngành sản xuất linh kiện điện tử, luyện kim, cơ khí, sửa   chữa máy móc, tàu thủy... 1.2. Một số biện pháp giảm thiểu và xử lý ô nhiễm nước 13
  14. 1.2.1. Các biện pháp giảm thiểu [1, 3­8] a) Cơ chế chính sách Yêu cầu thực hiện nghiêm việc thẩm định bảo cáo đánh giá tác động môi  trường đối với toàn KCN cũng như  đối với mỗi dự  án đầu tư  vào KCN. Đặc  biệt, khuyến khích các nhà máy áp dụng những quy trình sản xuất sạch hơn hoặc  công nghệ mới sạch. Có kế hoạch đầu tư phương tiện máy móc thiết bị cho đơn   vị   có trách nhiệm về quản lý môi trường trong các KCN. Bổ  sung kinh phí cho  việc đào tạo cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường. Phối hợp chặt chẽ giữa  Chính quyền địa phương, Công ty sản xuất kinh doanh, công ty phát triển hạ tầng  để khắc phục ô nhiễm tại KCN. b) Công cụ pháp lý Ban hành những quy định về  pháp luật như  luật Bảo vệ môi trường, Nghị  định,…về hướng dẫn lập và thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Yêu cầu tất   cả  các chủ đầu tư  trong KCN có phát sinh nước thải phải xử lý cục bộ  đạt tiêu  chuẩn đầu vào của hệ  thống xử  lý nước thải tập trung. Tăng cường công tác  thanh, kiểm tra để  xử  lý các doanh nghiệp không thực hiện theo đúng cam kết  bảo vệ môi trường trong báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản đăng ký   đạt tiêu chuẩn môi trường. c) Công cụ kinh tế Thực hiện ban hành phí bảo vệ  môi trường là công cụ  kinh tế  hiệu quả  nhằm ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm tại KCN. d) Tăng cường năng lực quản lý Xây dựng hệ  thống văn bản và hệ  thống quản lý môi trường của doanh  nghiệp. Làm rõ chức năng nhiệm vụ quản lý môi trường cho từng đơn vị, từng cá   nhân đã được phân công, đồng thời làm rõ trách nhiệm của các cá nhân và các   14
  15. đơn vị này trong quá trình thực hiện quản lý môi trường. Nâng cao năng lực quản  lý môi trường tại KCN đảm bảo đủ nguồn nhân lực và trình độ. e) Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Các doanh nghiệp đòi hỏi phải hiểu các quy định pháp luật về  bảo vệ môi   trường,   quyền   và   trách   nhiệm   của   doanh   nghiệp   trong   lĩnh   vực   bảo   vệ   môi  trường. 1.2.2. Xử lý nước thải  Nếu như  biện pháp giảm thiểu tập trung vào các công cụ  quản lý môi  trường và việc áp dụng các kỹ  thuật sản xuất sạch hơn để  giảm tiêu thụ  tài   nguyên, giảm lượng nước thải/chất thải phát sinh, tái quay vòng và tận dụng  chất thải, thì việc xử  lý nước thải lại tập trung vào việc loại bỏ  các chất ô   nhiễm đã phát sinh trong hoạt động sản xuất  ở các dòng thải ra môi trường đạt   các yêu cầu theo tiêu chuẩn/quy chuẩn môi trường của mỗi quốc gia/khu vực.   Hai nhóm kỹ thuật chính nhằm loại bỏ các chất ô nhiễm trong nước thải là xử lý  cuối đường ống và xử lý cấp tiến (nâng cao – Advanced treatment). a) Xử lý cuối đường ống [2, 9, 12, 15,  Xử lý cuối đường ống thực chất là việc áp dụng các phương pháp vật lý,   hóa học và sinh học truyền thống để  loại bỏ  các chất ô nhiễm trong nước thải  phát sinh từ  một hoạt động sản xuất nào đấy. Bởi vì tất cả  các hoạt động sản   xuất đều có thể  đưa vào dòng thải lỏng các chất thải dưới dạng rắn, lỏng và  thậm chí cả khí; các chất này có thể là chất vô cơ và/hoặc hữu cơ; chất hữu cơ  có   thể   là   vô   sinh   hoặc   hữu   sinh.   Do   vậy,   một   hệ   thống   xử   lý   nước   thải  (HTXLNT) thường bao gồm một tổ  hợp các phương pháp lý, hóa và sinh học  nhằm làm giảm và loại bỏ  một cách hiệu quả  (về  nồng độ, tính kinh tế  và sự  phù hợp) chất ô nhiễm. Tức là, HTXLNT phải được thiết kế và xây dựng trên cơ  sở  xem xét và hiểu rõ tính chất, lưu lượng nước thải và hàng loạt yếu tố  khác   15
  16. như  kinh phí, diện tích dành cho hệ  thống xử  lý, đặc điểm địa hình, hệ  thống  thoát nước, mục đích sử  dụng nguồn tiếp nhận… Để  đạt được mục tiêu này,  một HTXLNT thường chứa 3 mô đun (khối/công đoạn) sau [2, 12, 15]: ­ Mô đun thứ nhất làm nhiệm vụ xử lý sơ bộ còn gọi là xử lý bậc 1:  là các   công trình xử lý cơ học như song chẵn rác, bể lắng tách, bể điều hòa, đôi khi có  cả  lọc thô. Mục đích chính của công đoạn này là loại bỏ  các vật rắn có kích  thước lớn, tách bớt các chất ô nhiễm không tan, dầu mỡ  trong nước thải trước   khi đưa vào xử lý tiếp theo và điều chỉnh các dòng thải riêng theo một tỷ lệ nhất   định nhằm đáp ứng yêu cầu xử lý hóa học và sinh học ở công đoạn kế tiếp như  pH, nhiệt độ, chất hữu cơ, dinh dưỡng … Xử lý bậc 1 có thể  loại bỏ được một   vài lượng chất ô nhiễm (thậm chí có đến 50% chất rắn không tan và 70 ÷ 80%  dầu mỡ; trong trường hợp này có thể phải bổ sung cả phương pháp hóa lý) và là  một công đoạn hầu như không thể bỏ được trong một HTXLNT. ­ Mô đun thứ hai hay xử lý bậc 2 (xử lý thứ cấp): là các công trình xử lý hóa  học và sinh học dùng để loại hầu hết các chất hữu cơ có khả năng phân hủy sinh   học (dạng tan và không tan), các chất rắn lơ  lửng và keo. Các phương pháp hóa   học được sử dụng nhiều nhất ở công đoạn này là keo tụ, oxyhóa khử, kết tủa …  dùng để loại chủ yếu là cặn lơ lửng, các cấu tử vô cơ có nồng độ khá lớn trong   các dòng thải công nghiệp. Trong xử lý bậc 2 truyền thống chất dinh dưỡng có  thể  không hoặc có được loại bỏ, tuy nhiên, ngày nay việc loại bỏ  dinh dưỡng   hữu cơ  cũng được xếp vào xử  lý bậc 2 [25]. Biện pháp khử  trùng đôi khi cũng  được đưa vào với mục đích làm tăng hiệu quả của xử lý thứ cấp. Xử lý bậc 2 có   thể  loại bỏ  được một lượng khá lớn các chất ô nhiễm đặc trưng của một dòng  thải cụ thể. ­ Xử lý bậc 3 (mô đun thứ 3): thường chỉ được thực hiện theo yêu cầu của  nguồn tiếp nhận về  chất lượng dòng thải. Chẳng hạn, nước thải bệnh viện   trước khi thải ra môi trường cần phải triệt khuẩn hoàn toàn; nước thải sau biogas  phải  loại  bỏ  dinh dưỡng trước   khi  đưa  vào  tưới  tiêu; hay như  nước  thải xí  16
  17. nghiệp mạ  sau khi dùng phương pháp oxyhóa khử  và kết tủa để  xử  lý các kim   loại nặng cần phải bổ sung phương pháp hấp phụ  hoặc sử  dụng thực vật thủy   sinh để nồng độ kim loại nặng đưa vào nguồn tiếp nhận đạt tiêu chuẩn quy định  … Vì vậy, xử  lý bậc 3 còn được gọi là xử  lý triệt để. Khử  trùng, loại bỏ  kim  loại nặng và chất dinh dưỡng là một phần nội dung chính trong xử lý bậc 3.  Như  vậy, xử  lý cuối đường  ống có thể  áp dụng cho dòng thải ra tại mỗi  một nhà máy/xí nghiệp đơn lẻ  hoặc  cũng có thể  sử  dụng  để  xây dựng một  HTXLNT tập trung cho một tổ  hợp các đơn vị  sản xuất như  khu công nghiệp,   khu chế xuất, làng nghề … Trong thực tế, nếu không có yêu cầu phải xử lý triệt để (ví dụ chỉ cần đạt   quy chuẩn B1 của QCVN 14:2011/BTNMT), một HTXLNT thường chỉ bao g ồm   2 công đoạn là xử lý sơ bộ và xử lý thứ cấp như mô hình sau. Hình 1.1. HTXLNT hai cấp với các thiết kể  bể  cân bằng (điều hòa) khác nhau   [25] 17
  18. Tuy nhiên,  yêu cầu về  xử  lý nước thải đang trở  nên khắt khe hơn cả  về  nồng độ giới hạn của nhiều chất trong dòng ra và cả  về việc xây dựng các giới  hạn về  tổng độ  độc của dòng ra. Để  đáp  ứng những yêu cầu mới này, nhiều  công trình xử lý bậc 2 hiện hành sẽ phải được trang bị thêm những bộ phận mới  nhằm loại bỏ triệt để các chất ô nhiễm. Mô đun thêm mới này và một HTXLNT   hoàn thiện được gọi là hệ thống xử lý nước thải cấp tiến. Có thể tham khảo cách phân chia các mô đun xử lý nước thải như Metcalf­ Eddy dưới đây.   Bảng 1.1.  Các mô đun xử lý trong một HTXLNT  Mô đun (mức độ xử lý) Mô tả quá trình Xử lý  Tiền xử lý Loại bỏ  các vật chất rắn như  rác rưởi, các vật  bậc 1 nổi, mỡ  đóng cục có thể  gây  ảnh hưởng đến sự  duy tu, bảo dưỡng hoặc các vấn đề liên quan đến  quá trình hoạt động của hệ thống xử lý. Xử lý sơ bộ Loại bỏ  một phần chất rắn lơ  lửng và chất hữu   cơ từ nước thải. Xử lý bậc 1 cấp  Tăng cường loại bỏ chất rắn lơ lửng và chất hữu  tiến cơ  từ  nước thải. Có thể  bổ  sung hóa chất hoặc   lọc. Xử lý  Xử lý bậc 2 Loại bỏ  chất hữu cơ  dễ  phân hủy sinh học (tan  bậc 2 hoặc không tan), keo và chất rắn lơ lửng. Có thể  bao gồm cả triệt khuẩn. Xử lý bậc 2 với  Loại bỏ  các chất hữu cơ  dễ  phân hủy sinh học,  loại bỏ chất dinh  chất   rắn   lơ   lửng   và   chất   dinh   dưỡng   (   nitơ,   dưỡng phospho hoặc cả 2). 18
  19. Xử lý  Loại bỏ  lượng chất rắn lơ  lửng còn sót lại (sau   bậc 3 xử  lý bậc 2) bằng lọc vi màng hoặc vật liệu lọc.  Khử trùng và loại dinh dưỡng. Xử lý  Loại bỏ  các chất hòa tan và lơ  lửng còn lại sau  cấp  khi xử  lý sinh học truyền thống. Bắt buộc phải  tiến thực   hiện   trong   trường   hợp   sử   dụng   lại   nước   thải. Nguồn trích dẫn: from Crities and Tchobanoglous, 1998 [25]  b) Xử lý cấp tiến Xử lý nước thải cấp tiến (nâng cao – advanced) được định nghĩa là việc xử  lý bổ  sung cần thiết để  loại các chất lơ  lửng, các chất dạng keo và các cấu tử  hòa tan vẫn còn lại sau quá trình xử lý bậc 2 thông thường. Các cấu tử hòa tan có   thể  chỉ  là các ion vô cơ  tương đối đơn giản như  canxi, kali, sulphat, nitrat và   photphat cho đến vô số các hợp chất hữu cơ tổng hợp có khối lượng phân tử lớn  và cấu trúc phức tạp. Trong những năm gần đây, các tác động tiềm ẩn của nhiều  chất này (kể  cả  các chất có hoạt tính sinh học) đến môi trường đã được nhận  biết rõ ràng hơn. Vì vậy buộc phải có thêm các kỹ  thuật mới, tiên tiến hơn có  khả năng loại trừ các chất này khỏi dòng thải.  Như  vậy một HTXLNT hiện thời cần phải có 4 mô đun/công đoạn được   mô tả một cách đơn giản như trong hình 1.2 dưới đây. Xử lý Xử   lý  Khử  Xử lý  Luới thép Xử lý chính sinh học thứ  trùng nâng cao cấp        Rác, cát                                       Oxy                                  Clo       Th ải ra MT                                      Bùn      Bùn thải                          ban đầu Làm ổn định Tiêu nuớc Làm cô đặc 19
  20.                                                                                            Th ải vào đất  Hình 1.2. Sơ đồ quá trình điển hình của một HTXLNT [23] Các hệ thống xử lý nước thải cấp tiến có thể được chia theo kiểu vận hành  hoặc quá trình chính hoặc phân loại theo nguyên lý đã tiến hành để loại bỏ chất ô  nhiễm. Để thuận tiện cho việc so sánh, bảng 1.2 sẽ giới thiệu một số cấu tử tiêu   biểu vẫn còn lại sau xử lý cấp 2, các tác động và các kỹ thuật xử lý cấp tiến có   thể áp dụng để loại bỏ tiếp tục. Cơ sở để đưa ra bảng phân loại so sánh này dựa   vào: (1) nguyên lý loại bỏ chất ô nhiễm còn dư và (2) các kiểu vận hành hoặc các   quá trình thường được sử dụng để xử lý hiệu quả chất ô nhiễm. Tổng kết ở bảng 1.2 cho thấy nhiều quá trình vận hành đều có thể được sử  dụng để loại cùng một số cấu tử. Những cấu tử điển hình đã liệt kê trong bảng  1.2 được tập hợp thành 4 nhóm lớn phụ thuộc vào việc loại bỏ: (1) các hợp chất  dạng keo vô cơ, keo hữu cơ và các chất rắn lơ lửng còn chưa xử lý được, (2) các  chất hữu cơ hòa tan, (3) các cấu tử  vô cơ  hòa tan và (4) các hợp phần sinh học.   Các sơ đồ phân luồng quá trình xử lý cấp tiến tích hợp nhiều kỹ thuật điển hình   đã liệt kê trong bảng 1.2 được minh họa ở hình 1.3 bên dưới đây. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2