intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:93

82
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung luận văn gồm: Đánh giá mức độ ô nhiễm nước thải làng nghề Minh Khai, Dương Liễu, Cát Quế; nghiên cứu một số thông số ảnh hưởng đến quá trình sinh khí trong bể mêtan, bước đầu tính toán kiểm tra các thông số thiết kế, vận hành; bước đầu đề xuất mô hình ứng dụng công nghệ mêtan vào xử lí nước thải làng nghề.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Nguyễn Thị Tường Chi NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM VÀ CÔNG NGHỆ LÊN  MEN MÊTAN NƯỚC THẢI CHẾ BIẾN TINH BỘT SẮN CỦA MỘT  SỐ LÀNG NGHỀ THUỘC HUYỆN HOÀI ĐỨC, HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
  2. Hà Nội – Năm 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Nguyễn Thị Tường Chi NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM VÀ CÔNG NGHỆ LÊN  MEN MÊTAN NƯỚC THẢI CHẾ BIẾN TINH BỘT SẮN CỦA MỘT  SỐ LÀNG NGHỀ THUỘC HUYỆN HOÀI ĐỨC, HÀ NỘI Chuyên ngành: Khoa học Môi trường Mã số: 60440301 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ KIM CHI 2
  3. Hà Nội – Năm 2013 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Ngô Kim Chi – phòng Khai thác   chế biến Tài nguyên thiên nhiên– Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã luôn   quan tâm giúp đỡ  và hướng dẫn tôi  tận tình, chu đáo trong suốt quá trình làm   luận văn tốt nghiệp. Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm  ơn các thầy cô giáo trong Khoa   Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, đã trang bị cho tôi   những kiến thức khoa học quý báu trong suốt khóa học để tôi thêm vững tin trong   quá trình thực hiện khóa luận và công tác sau này. Tôi xin cảm  ơn Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, cùng tập thể  cán   bộ nghiên cứu của phòng Khai thác chế biến Tài nguyên thiên nhiên đã tạo điều   kiện cho tôi làm việc trong thời gian thực hiện đề tài. Tôi   cũng   xin  cảm   ơn  công  ty   cổ   phần   thực   phẩm   Minh  Dương,   chính   quyền địa phương và người dân cụm làng nghề  Minh Khai, Dương Liễu, Cát   Quế – huyện Hoài Đức, Hà Nội đã nhiệt tình cộng tác và giúp đỡ  tôi trong quá   trình xây dựng và thực hiện nghiên cứu tại địa phương. Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bè bạn đã quan tâm, ủng hộ   tôi trong suốt quá trình học và thực hiện đề tài nghiên cứu này.                                                                            Hà Nội, tháng 12 năm 2013
  4.                             Học viên Nguyễn Thị Tường Chi MỤC LỤC 4
  5. Danh mục bảng mục đồ thị
  6. Danh mục hình vẽ  Danh mục từ viết tắt AF Lọc sinh học kị khí BOD Nhu cầu oxy sinh hóa CBNSTP Chế biến nông sản thực phẩm COD Nhu cầu oxy hóa học CSTR Hệ khuấy trộn liên tục EGSB Bể phân hủy kị khí dạng bùn hạt  tăng cường
  7. QCVN Quy chuẩn Việt Nam SS Chất rắn lơ lửng trong nước TCCP Tiêu chuẩn cho phép UBND Ủy ban nhân dân VSV Vi sinh vật VFA Axit béo dễ bay hơi
  8. Đề  tài: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ  lên men mêtan xử  lý nước thải chế  biến   tinh bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội MỞ ĐẦU Làng nghề   ở  nước ta đã ra đời từ  rất lâu và cho đến nay làng nghề  ngày  càng phát triển góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự  phát triển của làng nghề  đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế  nông nghiệp   nông thôn, giải quyết công ăn việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập, nâng cao  đời sống vật chất cho người dân địa phương. Theo “Báo cáo thực hiện chính   sách, pháp luật về  môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề” của Sở  Công   thương, tại Hà Nội các làng nghề  đã giải quyết việc làm cho gần 630.000 lao   động bao gồm cả  lao động địa phương và lao động du nhập. Tính đến nay, Hà  Nội có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 281 làng nghề đã được UBND  thành phố công nhận theo tiêu chí mới. Năm 2012, giá trị sản xuất của làng nghề  đạt khoảng 10.582 tỷ đồng, chiếm 8,3% tổng giá trị  sản xuất công nghiệp ­ tiểu   thủ công nghiệp của thành phố. Ba xã Minh Khai, Dương Liễu, Cát Quế thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội là   ba làng nghề  nằm trong trọng điểm chế  biến nông sản thực phẩm của Hà Nội.  Trong những năm vừa qua, quy mô và sản lượng sản xuất của các làng nghề  không ngừng tăng, tạo ra khối lượng sản phẩm và lượng doanh thu lớn tạo công  ăn việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương, không những tạo công ăn việc   làm cho lao động địa phương mà còn cho lao động từ  các tỉnh như Phú Thọ, Vĩnh  Phúc…; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ  mặt nông thôn ngày   một đổi mới.  Ở  xã Minh Khai, số  hộ  giàu, hộ  khá có thu nhập hàng trăm triệu  đồng 1 năm chiếm đến 50%, hộ nghèo (theo tiêu chí mới) còn 46 hộ chiếm 4,71%   tổng số hộ, không có hộ đói. Tuy nhiên, do đặc trưng loại hình sản xuất chính là chế biến tinh bột sắn,   miến, bún, với hàng trăm nghìn tấn chất thải rắn và đặc biệt là hàng triệu mét  khối nước thải lớn, ba làng nghề đang là “thủ  phạm” chính cho vấn đề  ô nhiễm  8Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  9. Đề  tài: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ  lên men mêtan xử  lý nước thải chế  biến   tinh bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội môi trường của huyện Hoài Đức, gây nên các bức xúc không chỉ  đối các dân cư  trong vùng mà cả trong toàn huyện Hoài Đức.  Ngành sản xuất tinh bột sắn là một trong những ngành công nghiệp tiêu  thụ  nhiều nước và năng lượng. Vì vậy, hàng năm lượng nước xả  thải ra môi  trường của ngành này khá lớn, nước thải chứa nhiều các chất hữu cơ  như  tinh   bột, protein, xenluloza, pectin,  đường,...gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng  nếu không có biện pháp xử  lý hiệu quả. Tuy nhiên trong thành phần nước thải  tổng hợp có chứa hàm lượng lớn các chất dinh dưỡng N, P và các chất hữu cơ có  thể được tận dụng và thu hồi thông qua quá trình xử lý bằng chuyển hóa sinh học  nguồn thải hữu cơ và tận dụng sinh khối thải chuyển thành khí nhiên liệu biogas   cung cấp năng lượng cho nhu cầu tiêu thụ năng lượng của các hộ gia đình, nước   thải sau xử lý các mức có thể tận thu như nguồn dưỡng chất để bón ruộng, hoặc   xử  lý các mức tiếp theo đạt tiêu chuẩn xả  thải QCVN40­2011 khi xả  trực tiếp   vào nguồn nước tiếp nhận. Khí sinh học thu được góp phần giảm thiểu ô nhiễm   nước, hạn chế khai thác nhiên liệu không tái tạo,  và giảm phát thải các khí, chủ  động trong việc  ứng phó với biến đổi khí hậu trong xu thế  chung của thế  giới   hiện nay. Ở Việt nam bước đầu đã có một số  nghiên cứu khả  quan về  xử lý nước  thải ngành tinh bột sắn theo xu thế  trên nhưng nhìn chung mới là bước đầu và   chưa đạt hiệu quả cao.  Vì vậy, học viên đã chọn đề tài : “Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công   nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh bột sắn của một số làng nghề thuộc   huyện Hoài Đức, Hà Nội” với nội dung gồm: ­ Đánh giá mức độ ô nhiễm nước thải làng nghề Minh Khai, Dương Liễu,  Cát Quế. ­ Nghiên cứu một số thông số  ảnh hưởng đến quá trình sinh khí trong bể  mêtan, bước đầu tính toán kiểm tra các thông số thiết kế, vận hành. 9Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  10. Đề  tài: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ  lên men mêtan xử  lý nước thải chế  biến   tinh bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội ­ Bước đầu đề  xuất mô hình  ứng dụng công nghệ  mêtan vào xử  lí nước   thải làng nghề. 10Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  11. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội 1 Chương 1 – TỔNG QUAN 1.1 Khái quát về làng nghề và hiện trạng môi trường làng nghề 1.1.1 Khái niệm làng nghề Từ xa xưa, người nông dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông nhàn  để  sản xuất những sản phẩm thủ  công, phi nông nghiệp phục vụ  cho nhu cầu   đời sống như: các công cụ lao động nông nghiệp, giấy, lụa, vải, thực phẩm qua   chế  biến… Các nghề  này được lưu truyền và mở  rộng qua nhiều thế  hệ, dẫn   đến nhiều hộ  dân có thể  cùng sản xuất một loại sản phẩm. Bên cạnh những  người chuyên làm nghề, đa phần lao động vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm  nghề, hoặc làm thuê (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các nghề  mang tính chất chuyên môn sâu hơn, được cải tiến kỹ thuật hơn và thường được   giới hạn trong quy mô nhỏ (làng), dần dần tách hẳn nông nghiệp để chuyển hẳn   sang nghề thủ công. Như vậy, làng nghề đã xuất hiện. Có thể  hiểu làng nghề  “là làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề  tiểu   thủ  công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm  ưu thế về số lao động và thu nhập so  với nghề nông”[Đặng Kim Chi (2005), Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.]. 1.1.2 Phân loại làng nghề Làng nghề với những hoạt động và phát triển đã có những tác động tích  cực và tiêu cực đến nền kinh tế, đời sống xã hội và môi trường với những nét  đặc thù rất đa dạng. Vấn đề phát triển và môi trường của các làng nghề hiện nay   đang có nhiều bất cập và đang được chú ý nghiên cứu. Muốn có được những kết  quả nghiên cứu xác thực, đúng đắn và có thể quản lý tốt các làng nghề thì cần có  sự  nhìn nhận theo nhiều khía cạnh, nhiều góc độ  khác nhau đối với làng nghề.  Bởi vậy, hệ thống phân loại các làng nghề dựa trên các số liệu thông tin điều tra,   khảo sát là cơ sở khoa học cho nghiên cứu, quản lý hoạt động sản xuất cũng như  việc quản lý, bảo vệ môi trườ ng làng nghề. Cach phân loai lang nghê phô biên ́ ̣ ̀ ̀ ̉ ́  11Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  12. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội ̣ ̀ ̉ ́ ̣ ̀ ̉ ̉ ́ ̀ ́ ̉  nhât la phân theo loai hinh san xuât, loai hinh san phâm. Theo cach nay co thê ́ ̀ ́ ̀ ̉ phân thanh 6 nhom nganh san xuât gôm: ̀ ́ ̀ + Ươm tơ, dệt vải và may đồ da. + Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu. + Tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại…). + Thủ công mỹ nghệ, thêu ren.  + Vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá. + Nghề  khác (mộc gia dụng, cơ  khí nhỏ, đóng thuyền, quạt giấy, đan vó,  lưới..). ̀ ́ ̉  Ngoai ra con co thê phân lo ̀ ại theo quy mô sản xuất (lơn, nho, trung binh); ́ ̉ ̀   phân loại theo nguồn thải và mức độ  ô nhiễm; theo lich s ̣ ử phat triên; theo m ́ ̉ ức   độ sử dụng nguyên liệu, theo thị trường tiêu thụ  sản phẩm hoặc theo tiềm năng   tồn tại và phát triển… 1.1.3 Hiện trạng môi trường làng nghề  Vấn đề  môi trường mà các làng nghề  đang phải đối mặt không chỉ  giới   hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến người dân ở vùng lân   cận. Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008 với chủ  đề  "Môi trường làng   nghề  Việt Nam", hiện nay “hầu hết các làng nghề   ở  Việt Nam đều bị  ô nhiễm   môi trường (trừ các làng nghề không sản xuất hoặc dùng các nguyên liệu không   gây ô nhiễm như thêu, may...). Chất lượng môi trường tại hầu hết các làng nghề  đều không đạt tiêu chuẩn khiến người lao động phải tiếp xúc với các nguy cơ  gây hại cho sức khỏe, trong đó 95% là từ  bụi; 85,9% từ  nhiệt và 59,6% từ  hóa   chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề cho thấy, 46% làng nghề có môi trường bị ô  nhiễm nặng ở cả 3 dạng; 27% ô nhiễm vừa và 27% ô nhiễm nhẹ”[ Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường quốc gia]. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề xảy ra ở mấy loại phổ biến sau  đây:  12Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  13. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội ­ Ô nhiễm nước: ở Việt Nam, các  làng nghề chưa có hệ thống xử lý nước  thải công nghiệp, nước thải được đổ trực tiếp ra hệ thống kênh rạch chung hoặc   ra sông. Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ  yếu là quá trình xử  lý công nghiệp   như: chế  biến lương thực thực phẩm, mây tre, dệt, in, nung nấu kim loại, tẩy   giấy và nhuộm… Thường thì nước thải ra bị  nhiễm màu nặng và gây ra hiện  tượng đổi màu đối với dòng sông nhận nước thải, có mùi rất khó chịu. Hơn nưã   ̀ ự vượt qua TCCP đôi v la s ́ ́ ới cac ham l ́ ̀ ượng BOD, COD, SS, va coliform, cac kim ̀ ́   ̣ ̣ loai năng…  ở  ca n ̉ ươc măt va n ́ ̣ ̀ ươc  ̀ ̀ ́ ́ ̣ ̉ ̀ ưá   ́ ngâm, lam chêt cac sinh vât thuy sinh va ch ̣ ̣ cac mâm bênh nguy hai cho con ng ́ ̀ ươi. ̀ ­ Ô nhiễm không khí gây bụi,  ồn và nóng do sử  dụng than và củi chu yêu ̉ ́  trong sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất gốm sứ. ­ Ô nhiễm chất thải rắn do tái chế  nguyên liệu (giấy, nhựa, kim loại…)   hoặc do bã thải của các loại thực phẩm (sắn, dong), các loại rác thải thông   thường: nhựa, túi nilon, giấy, hộp, vỏ  lon, kim loại và các loại rác thải khác   thường được đổ  ra bất kỳ  dòng nước hoặc khu đất trống nào. Lam cho n ̀ ươć   ̀ ́ ̣ ́ ́ ̣ ̣ ̣ ̉ ngâm va đât bi ô nhiêm cac chât hoa hoc đôc hai, anh h ̀ ̃ ́ ưởng tơi s ́ ưc khoe cua con ́ ̉ ̉   ngươi. ̀ Trong Báo Nhân dân ngày 23/6/2005, GS.TS. Đặng Kim Chi đã cảnh báo  "100% mẫu nước thải  ở  các làng nghề  được khảo sát có thông số  vượt tiêu  chuẩn cho phép. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại nơi trực tiếp   sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) và ô nhiễm do   sử  dụng nhiên liệu than củi. Tỉ  lệ  người dân làng nghề  mắc bệnh cao hơn các  làng thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường   ruột, bệnh ngoài da. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang bị ô  nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí  từ làng nghề". ̀ ̣ ̀ ̣ Ha Nôi la môt trong nhưng thanh phô co nhiêu lang nghê nhât ca n ̃ ̀ ́ ́ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ ươc. Sau khi ́   mở  rông (2008), Hà N ̣ ội co tông công 1.275 lang nghê, trong đo co 226 làng ngh ́ ̉ ̣ ̀ ̀ ́ ́ ề  13Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  14. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội được UBND thành phố  công nhân theo cac tiêu chi lang nghê, v ̣ ́ ́ ̀ ̀ ới nhiều loại hình   sản xuất khác nhau, từ  chế  biến lương thực, thực phẩm; chăn nuôi, giết mổ; dệt  nhuộm, ươm tơ, thuộc da đến sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá; tái chế phế  liệu; thủ  công mỹ  nghệ... Trong số này, làng nghề  thủ  công mỹ  nghệ  chiếm 53%  với 135 làng nghề, tiếp đó là làng nghề  dệt nhuộm đồ  da chiếm 23% với 59 làng  nghề,   làng   nghề   chế   biến   lương   thực,   thực   phẩm   chiếm   16,9%   với   43   làng  nghề...Hiện nay, phần lớn lượng nước thải từ các làng nghề này được xả thẳng ra   sông Nhuệ, sông Đáy mà chưa qua xử  lí khiến các con sông này đang bị  ô nhiễm  nghiêm trọng. Chưa kê đên môt l ̉ ́ ̣ ượng rac thai, ba thai l ́ ̉ ̃ ̉ ơn t́ ư cac lang nghê không thê ̀ ́ ̀ ̀ ̉  ̀ ử ly kip, nhiêu lang nghê rac thai đô b thu gom va x ́ ̣ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ ̉ ưa bai ven đ ̀ ̃ ương đi va cac khu đât ̀ ̀ ́ ́  trông [ ́ Lý Kim Bảng (1999),  Nghiên cứu xử  lý rác thải tạo nguồn phân bón thích hợp phục vụ nông nghiệp, Hội nghị môi trường toàn quốc năm 1999, Hà Nội]. ̣ Tinh trang ô nhiêm môi tr ̀ ̃ ường như  trên đa anh h ̃ ̉ ưởng ngay cang nghiêm ̀ ̀   ̣ ́ ưc khoe cua công đông, nhât la nh trong đên s ́ ̉ ̉ ̣ ̀ ́ ̀ ững ngươi tham gia san xuât, sinh ̀ ̉ ́   ̣ ́ ̀ ̣ sông tai cac lang nghê va cac vung lân cân. ́ ̀ ̀ ́ ̀ Bao cao môi tr ́ ́ ường Quôc gia năm 2008 cho thây, t ́ ́ ại nhiều làng nghề, tỉ lệ  người mắc bệnh (đặc biệt là nhóm người trong độ  tuổi lao động) đang có xu  hướng gia tăng. Tuổi thọ  trung bình của người dân tại các làng nghề  ngày càng  giảm, thấp hơn 10 năm so với làng không làm nghề. Ở các làng tái chế kim loại,   tỉ lệ người mắc bệnh ung thư, thần kinh rất phổ biến, nguyên nhân gây bệnh chủ  yếu là do sự phát thải khí độc, nhiệt cao và bụi kim loại từ các cơ sở sản xuất. Tại các làng sản xuất kim loại, tỉ  lệ  người mắc các bệnh liên quan đến   thần kinh, hô hấp, ngoài da, điếc và ung thư chiếm tới 60% dân số. Tại các làng  nghề chế biến nông sản thực phẩm, bệnh phụ khoa chiếm chủ yếu (13 – 38%),   bệnh về đường tiêu hóa (8 – 30%), bệnh viêm da (4,5 ­ 23%), bệnh đường hô hấp  (6 ­ 18%), bệnh đau mắt (9 – 15%). Tỉ  lệ  mắc bệnh nghề  nghiệp  ở  làng nghề  Dương Liễu 70%, làng bún Phú Đô là 50% [UBND xã Dương Liễu (2011), Báo cáo: Đặc điểm tình hình chung làng nghề xã Dương Liễu, Hà Nội.]. 14Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  15. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội Một trong những nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm kể trên là do các cơ  sở  sản xuất kinh doanh  ở  các làng nghề  còn manh mún, nhỏ  lẻ, phân tán, phát  triển tự phát, không đủ vốn và không có công  nghệ xử lý chất thải. Bên cạnh đó,   ý thức của chính người dân làm nghề cũng chưa tự giác trong việc thu gom, xử lý  chất thải. Nêu không co cac giai phap ngăn chăn kip th ́ ́ ́ ̉ ́ ̣ ̣ ơi thi tôn thât đôi v ̀ ̀ ̉ ́ ́ ới toan ̀  ̃ ̣ ̃ ̀ ̀ ơn, v xa hôi se ngay cang l ́ ượt xa gia tri kinh t ́ ̣ ế ma cac lang nghê đem lai nh ̀ ́ ̀ ̀ ̣ ư hiên ̣   nay. 1.2 Vai trò của làng nghề đối với kinh tế nông thôn Với hơn 2000 làng nghề  trong cả  nước, gồm 11 nhóm ngành nghề, sử  dụng hơn 10 triệu lao động, đóng góp hơn 40 ngàn tỷ  đồng cho thu nhập quốc   gia… các làng nghề truyền thống đã và đang đóng một vai trò quan trọng đối với  sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế nông thôn:  ­ Sản xuất tiểu thủ  công nghiệp tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú  với giá thành rẻ. Các nghề truyền thống chủ yếu sử dụng các nguyên liệu sẵn có   trong nước, vốn là các tài nguyên thiên nhiên điển hình của miền nhiệt đới: tre  nứa, gỗ, tơ tằm, các sản phẩm của nông nghiệp nhiệt đới (lúa gạo, hoa quả, ngô,   khoai, sắn…), các loại vật liệu xây dựng…  ­ Mặt khác, sản phẩm từ  các làng nghề  không chỉ  đáp ứng các thị  trường  trong nước với các mức độ  nhu cầu khác nhau mà còn xuất khẩu sang các thị  trường nước bạn với nhiều mặt hàng phong phú, có giá trị  cao. Trong đó, điển  hình nhất là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ (hiện nay, mặt hàng này xuất khẩu  đạt giá  trị gần 1 tỷ USD/năm). Giá trị hàng hóa  từ các làng nghề hàng năm đóng  góp cho nền kinh tế quốc dân từ 40 – 50 ngàn tỷ đồng. Góp phần chuyển dịch cơ  cấu kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông thôn. ­ Đặc biệt, phát triển các nghề  truyền thống đang góp phần giải quyết   công ăn việc làm cho hơn 11 triệu lao động chuyên và hàng ngàn lao động nông   nhàn ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.  15Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  16. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội ­ Hơn nữa, nhiều làng nghề hiện nay có xu hướng phát triển theo hướng   phục vụ  các dịch vụ du lịch. Đây là hướ ng đi mới nhưng phù hợp với thời đạ i  hiện nay và mang lại hiệu quả  kinh t ế cao, đồng thời có thể  giảm thiểu tình   trạng ô nhiễm môi trườ ng, nâng đời sống vật chất và tinh thần cho người dân,   phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. 1.3 Làng nghề chế biến tinh bột sắn Việt Nam là nước xuất khẩu tinh bột sắn đứng thứ  3 trên thế  giới, sau   Indonesia và Thái Lan. Cả nước có trên 60 nhà máy chế  biến tinh bột sắn  ở qui   mô lớn, công suất 50 ­ 200 tấn tinh bột sắn/ ngày và trên 4.000 cơ  sở chế  biến   thủ công. Tổng công suất của các nhà máy chế biến sắn quy mô công nghiệp đã   và đang xây dựng có khả năng chế biến được 40% sản lượng sắn cả nước. Quá trình chế  biến tinh bột sắn cần sử  dụng một lượng lớn nước chủ  yếu cho quá trình rửa và lọc. Lượng nước thải ra trung bình 15 m 3 khi sản xuất 1  tấn sắn tươi. Sau khi lọc bột sắn được sấy khô bằng không khí nóng để  giảm  lượng nước từ 35 ­ 40% xuống 11 ­ 13%. Quá trình này đòi hỏi nhiều năng lượng.  Thông thường nhu cầu năng lượng điện và năng lượng nhiệt cho 1 kg sản phẩm   là 0,320 – 0,939 MJ và 1,141 ­ 2,749 MJ tương đương 25% và 75% tổng năng   lượng [Đặng Kim Chi (2005), Đề  tài KC 08­09: Nghiên cứu cơ  sở  khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề  ô nhiễm môi trường ở các làng nghề Việt Nam, Đại học Bách khoa Hà Nội.]. 16Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  17. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội Hình 1.. Sơ đồ quy trình sản xuất tinh bột sắn + Rửa ­ bóc vỏ: là công đoạn làm sạch nguyên liệu, đồng thời loại bỏ lớp   vỏ  Quá trình rửa nguyên liệu được thực hiện nhờ thiết bị rửa hình trống quay   hoặc máy rửa có guồng. Máy rửa hình trống quay, gồm một buồng hình trụ  mở,   được bọc bằng mắt lưới thô, quay với tốc độ  10 ÷ 15 vòng/phút. Thiết bị  làm  việc gián đoạn theo mẻ, nguyên liệu được cho vào lồng. Khi lồng quay nước   được tưới vào trong suốt quá trình nhờ  bộ  phận phân phối nước. Khi lồng quay  các củ sắn chuyển động trong lồng va chạm vào nhau và va chạm vào thành lồng,  do đó đất cát và vỏ  được tách ra [Hoàng Kim Anh, Ngô Kế  Sương, Nguyễn Xích 17Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  18. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội Liên (2005), Tinh bột sắn và các sản phẩm từ tinh bột sắn, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.,Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường quốc gia,Nguyễn Thị Sơn (2007), Hiện trạng sản xuất và môi trường làng nghề  sản xuất tinh bột sắn, Hà Nội.]. Sau khi bóc vỏ, củ  sắn thường được ngâm trong máng nước để  loại bỏ  các chất hoà tan trong nguyên liệu như: độc tố, sắc tố, tanin,… + Nghiền:  Sau khi ngâm, sắn  được đưa vào thiết bị  nghiền thành bột   nhão, phá vỡ tế bào củ và giải phóng tinh bột. Bột nhão sau nghiền gồm tinh bột,   xơ  và các chất hoà tan như  đường, chất khoáng, protein, enzym và các vitamin   [Hoàng Kim Anh, Ngô Kế  Sương, Nguyễn Xích Liên (2005), Tinh bột sắn và các sản phẩm từ  tinh bột sắn, NXB Khoa học và kỹ  thuật, Hà Nội.,Bộ  Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường quốc gia,Nguyễn Thị  Sơn (2007), Hiện trạng sản xuất và môi trường làng nghề sản xuất tinh bột sắn, Hà Nội.]. + Lọc thô:  là công đoạn quan trọng, phải sử dụng nhiều nước có thể lọc   thủ công hoặc dùng máy lọc. ­ Lọc thủ  công dùng lưới lọc, bột nhão được trộn đều trong nước, được  chà và lọc trên khung lọc, dịch bột lọc chảy qua lưới lọc vào bể còn bã sắn ở trên   được lọc lần 2 để tận thu tinh bột. ­ Máy lọc: là một thùng quay trong đó có đặt lưới lọc, làm việc gián đoạn  theo mẻ. Nước và bột nhão được cấp vào thùng, khi thùng quay bột nhão được   đảo đều trong nước nhờ cánh khuấy, sữa bột chảy xuống dưới  qua khung lưới   lọc trước khi vào bể lắng. Lưới lọc ngoài thùng quay giữ lại các hạt bột có kích  thước lớn, phần bột này sẽ được đưa trở lại thiết bị lọc còn phần xơ bã được xả  ra ngoài qua cửa xả  bã [Hoàng Kim Anh, Ngô Kế  Sương, Nguyễn Xích Liên (2005), Tinh bột sắn và các sản phẩm từ tinh bột sắn, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.,Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường quốc gia,Nguyễn Thị Sơn (2007), Hiện trạng sản xuất và môi trường làng nghề sản xuất tinh bột sắn, Hà Nội.]. 18Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  19. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội + Lắng :  Tinh bột có đặc điểm dễ  lắng và dễ  tách, sau 8 ÷ 15h có thể  lắng hoàn toàn. Khi b ột đã lắng, từ  từ  tháo nướ c tránh gây xáo trộn tạp chất   (bột đen) trên bề mặt l ớp bột. L ớp b ột đen sẽ đượ c loạ i bỏ  để đả m bả o chấ t  lượ ng của bột thành phẩm.  Để  thu được tinh bột có chất lượng cao, tinh bột sắn thô được tinh chế  một lần nữa theo quy trình sau: Bột thô có độ ẩm  từ 55 ÷ 60% cho vào bể, bơm  nước vào với tỉ  lệ  bột và nước là 1/6. Dùng máy khuấy cho đồng nhất, để  bột   lắng lại sau 8 ÷ 15h tháo nước trong và hớt lớp bột đen nổi lên trên. Có thể rửa 3  đến 4 lần để loại bỏ hết tạp chất, sau khi rửa xong dùng tro thấm nước và đem   bột  ra   phơi  hoặc   sấy  khô  [Hoàng   Kim   Anh,   Ngô   Kế   Sương,   Nguyễn   Xích   Liên (2005), Tinh bột sắn và các sản phẩm từ tinh bột sắn, NXB Khoa học và kỹ  thuật, Hà Nội.,Bộ  Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường quốc gia ,Nguyễn Thị Sơn (2007), Hiện trạng sản xuất và môi trường làng nghề  sản xuất tinh bột sắn, Hà Nội.]. Nước thải ngành chế biến tinh bột sắn Lượng nước thải sinh ra từ trong quá trình chế biến tinh bột sắn là rất lớn,  trung bình 10 ­13 m3/tấn sản phẩm. Căn cứ vào quy trình chế biến bột sắn, có thể chia nước thải thành 2 dòng: ­ Dòng thải 1: là nước thải ra sau khi phun vào guồng rửa sắn củ  để  loại   bỏ  các chất bẩn và vỏ  ngoài củ  sắn. Loại nước thải này có lưu lượng thấp  (khoảng 2 – 2,5m3 nước thải /tấn sắn củ), chủ yếu chứa các chất có thể sa lắng  nhanh (vỏ  sắn, đất, cát…). Do vậy với nước thải loại này có thể  cho qua song   chắn, để lắng rồi quay vòng nước ở giai đoạn rửa. Phần bị giữ ở song chắn (vỏ  sắn) sau khi phơi khô được làm nhiên liệu chất đốt tại các gia đình sản xuất. ­ Dòng thải 2: là nước thải ra trong quá trình lọc sắn, loại nước thải này   có lưu lượng lớn (4,5 ­ 5m3  nước thải/tấn sắn củ), có hàm lượng chất hữu cơ  cao, hàm lượng rắn lơ lửng cao, pH thấp, hàm lượng xianua cao, mùi chua, màu  trắng đục. 19Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
  20. Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm và công nghệ lên men mêtan nước thải chế biến tinh   bột sắn của một số làng nghề thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội Nước thải chế biến tinh bột sắn bao gồm các thành phần hữu cơ như tinh  bột, protein, xenluloza, pectin, đường có trong nguyên liệu củ sắn tươi là nguyên  nhân gây ô nhiễm cao cho các dòng nước thải của nhà máy sản xuất tinh bột sắn   [Hoàng Kim Anh, Ngô Kế  Sương, Nguyễn Xích Liên (2005), Tinh bột sắn và các sản phẩm từ  tinh bột sắn, NXB Khoa học và kỹ  thuật, Hà Nội. ,Nguyễn Thị  Sơn (2007), Hiện trạng sản xuất và môi trường làng nghề sản xuất tinh bột sắn, Hà Nội. ,S.K.Nanda , A.N. Jyothi, C. Balagopalan (2000), Cassava waste treatment and residue management in Indian,   Division   of   Crop   Utilization   &   Biotechnology   Central   Tuber   Crops   Reasearch Institute Trivandrum, Indian.]. Nước thải sinh ra từ dây chuyền sản xuất tinh bột sắn có các thông số đặc  trưng: pH thấp, hàm lượng chất hữu cơ  và vô cơ  cao, thể  hiện qua hàm lượng   chất rắn lơ lửng (SS), các chất dinh dưỡng chứa N, P, các chỉ số về nhu cầu oxy   sinh học (BOD5), nhu cầu oxy hoá học (COD), …với nồng độ rất cao [ Hoàng Kim Anh, Ngô Kế  Sương, Nguyễn Xích Liên (2005), Tinh bột sắn và các sản phẩm từ  tinh bột sắn, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội., Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường quốc gia,Lương Đức Phẩm (2002), Công nghệ  xử  lý nước thải bằng biện pháp sinh học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.,Nguyễn Thị  Sơn, Nguyễn Thị  Thu Hà (2006), Đề tài KC 04 – 02: Nghiên cứu xử lý nước thải sản xuất tinh bột sắn thu biogas bằng hệ thống UASB, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Đại học Bách Khoa, Hà Nội.]. Nồng độ ô nhiễm của nước thải tinh bột sắn thể hiện cụ thể ở Bảng 1. Bảng 1.. Chất lượng nước thải từ sản xuất tinh bột sắn QCVN 40:2011,  TT Thông số Đơn vị Giá trị mức B 1 pH ­ 3,5 ­5,0 5,5­9 2 COD mg/l 7000 – 40000 150 3 BOD5 mg/l 6000 – 23000 50 4 TSS mg/l 4000 – 8000 100 5 ∑ N mg/l 42 ­ 262 40 20Nguyễn Thị Tường Chi – K19 KHMT
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2