intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng và hình thái rạn san hô ven đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:89

123
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn với các nội dung chính: Xác định thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng ven đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận; xác định đặc điểm hình thái, diện tích và phân bố rạn san hô cứng ven đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng và hình thái rạn san hô ven đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận

  1.  ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Nguyễn Văn Hiếu NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI, CẤU TRÚC  QUẦN XàSAN HÔ CỨNG VÀ HÌNH THÁI RẠN SAN HÔ  VEN ĐẢO PHÚ QUÝ TỈNH BÌNH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC    
  2. Hà Nội, 2010  ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Nguyễn Văn Hiếu NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI, CẤU TRÚC  QUẦN XàSAN HÔ CỨNG VÀ HÌNH THÁI RẠN SAN HÔ  VEN ĐẢO PHÚ QUÝ TỈNH BÌNH THUẬN                                Chuyên ngành: Thuỷ sinh vật học                 Mã số: 60.42.50 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC     Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN HUY YẾT
  3. Hà Nội, 2010
  4. Lời cảm ơn Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Huy Yết,   người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ  tôi trong suốt quá trình học tập và   nghiên cứu hoàn thiện luận văn tốt nghiệp. Tôi xin cảm ơn đến PGS. TS. Nguyễn Xuân Quýnh và các thầy, cô giáo các   cán bộ  trong bộ môn Động vật không xương sống Khoa sinh học ­ Trường Đại   học Khoa học tự nhiên ­ Đại học Quốc Gia – Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi   để tôi hoàn thiện luận văn này. Trong thời gian làm luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ  nhiệt tình của   Ban chủ nhiệm dự án “ Xây dựng Quy hoạch chi tiết khu bản tồn biển Phú Quý,   tỉnh Bình Thuận”, toàn thể các đồng nghiệp phòng Nghiên cứu Bảo tồn Biển và   Trung tâm Quan trắc Quốc gia Cảnh báo Môi trường biển ­ Viện nghiên cứu Hải   Sản. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến gia đình tôi đã luôn ủng   hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. i
  5. ii
  6. iii
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1. Số lượng loài san tạo rạn ở các vùng ven biển Việt Nam….............. ……...Error: Reference source not found Bảng 2. Độ phủ san hô tại một số vùng chủ yếu ven biển Việt Nam...........Error:  Reference source not found Bảng 3. Biến đổi độ phủ san hô cứng, san hô mềm và san hô chết ở một số địa  điểm xung quanh quần đảo Côn Đảo quan sát trước và sau cơn bão Linda năm  1997.......................................................................Error: Reference source not found Bảng 4. Hàm lượng Cyanua trong môi trường nước xung quanh đảo Bạch Long  Vĩ tháng 5/1998.....................................................Error: Reference source not found Bảng 5. Toạ độ mặt cắt tại các vùng rạn nghiên cứu san hô ven đảo Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found Bảng 6. Giới hạn cho phép của một số thông số môi trường nước sử dụng đánh  giá tổng thể môi trường........................................Error: Reference source not found Bảng 7. Giá trị của một số thông số môi trường nước cơ bản ven đảo Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found Bảng 8. Hàm lượng COD, dầu và xyanua trong nước biển ven đảo Phú Quý Error: Reference source not found Bảng 9. Cấu trúc thành phần loài quần xã san hô cứng ven đảo Phú Quý.....Error:  Reference source not found Bảng 10. Đa dạng thành phần loài san hô cứng vùng biển Đông Nam Bộ....Error:  Reference source not found Bảng 11. Danh sách thành phần loài san hô cứng và phân bố ven  đảo Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found Bảng 12. Chỉ số Sorensen về sự tương đồng của loài giữa các vùng rạn khảo sát  san hô ven đảo Phú Quý........................................Error: Reference source not found iv
  8. Bảng 13. Giới hạn phân bố theo độ sâu của quần san hô ven đảo Phú Quý..Error:  Reference source not found Bảng 14. Phân bố diện tích tại các vùng rạn san hô chủ yếu ven đảo Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found Bảng15. Độ phủ trung bình san hô sống, hợp phần đáy tại 9 vùng rạn ven đảo  Phú Quý.................................................................Error: Reference source not found v
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1: Bản đồ đảo Phú Quý ………………. ……………………………………..Error: Reference source not found Hình 2. Vị trí mặt cắt khảo sát tại các vùng rạn ven bờ đảo Phú Quý...........Error:  Reference source not found Hình 3.Khảo sát tổng quan bằng phương pháp Manta tow.Error: Reference source  not found Hình 4. Nhiệt độ (0C), độ muối (‰) trung bình tháng nhiều năm khu vực biển ven  đảo Phú Quý.........................................................Error: Reference source not found Hình 5. Chỉ số RQtt  tính theo GHCP của Việt Nam và tính theo ngưỡng ASEAN  trong 2 đợt quan trắc chất lượng nước biển đảo Phú Quý (2010) Error: Reference  source not found Hình 6. Phân bố số lượng thành phần giống,  loài san hô cứng tại các..........Error:  Reference source not found khu vực nghiên cứu...............................................Error: Reference source not found Hình 7. Phân bố số lượng loài san hô cứng trên các vùng rạn  nghiên cứu....Error:  Reference source not found Hình 8. Sơ đồ cấu trúc mặt cắt ngang rạn san hô viền bờ điển hình gồm....Error:  Reference source not found 5 đới cấu trúc........................................................Error: Reference source not found Hình 9. Đới bằng rộng với sự phát triển loài ưu thế thuộc vùng rạn Đông Bắc  Phú Quý.................................................................Error: Reference source not found Hình 10. Đới sườn dốc với tính đa dạng loài cao thuộc vùng rạn Nam Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found Hình 11. Phân bố rạn san hô theo hiện trạng độ phủ san hô ven đảo Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found vi
  10. Hình 12. Biến động độ phủ san hô sống, san hô chết ven đảo......Error: Reference  source not found Phú Quý theo thời gian..........................................Error: Reference source not found Hình 13. Hoạt động neo đậu tầu thuyền và sả thải chất ô nhiễm ven đảo Phú  Quý........................................................................Error: Reference source not found Hình 14. Hoạt động nuôi cá lồng bè tại các khu vực ven đảo Phú Quý.........Error:  Reference source not found Hình 15. Phân bố rạn san hô theo hiện trạng độ phủ san hô ven đảo Phú Quý ...............................................................................Error: Reference source not found Hình 16. Phân bố hệ sinh thái rong cỏ biển tại khu vực ven đảo Phú Quý....Error:  Reference source not found Hình 17. Bản đồ phân vùng chức năng khu bảo tồn biển Phú Quý Error: Reference source not found vii
  11. MỞ ĐẦU San hô cứng thuộc ngành động vật Ruột khoang (Coelenterata) chỉ sống  ở  biển, có thành phần loài rất phong phú. Cho tới nay trên thế giới có khoảng 2000  loài thuộc 172 giống, 22 họ san hô hiện đại đã được công bố [49]. Đa số các loài  san hô cứng đều sống thành tập đoàn  ở  vùng biển nông nhiệt đới, chỉ  một số  ít  loài sống đơn độc. Chúng có thể  phân bố  rộng, sống cả   ở  vùng nước lạnh, độ  sâu lớn, không có ánh sáng. Xét về vai trò tạo rạn, san hô cứng được chia thành  hai  nhóm: nhóm san  hô  tạo rạn  (Hermatypic)  và  nhóm san  hô  không  tạo rạn  (Ahermatypic).  Hai nhóm này có sự  tương đồng về  cấu trúc động vật, chỉ  khác  nhau cơ bản ở chỗ san hô tạo rạn có tảo cộng sinh  (Zooxanthellae) nằm trong mô  thịt động vật, trong khi đó nhóm san hô không tạo rạn không có. Vì vậy hai nhóm   có sự khác nhau về sinh thái và động thái dinh dưỡng. Nhóm thứ nhất vừa có khả  năng dinh dưỡng bằng quang hợp, vừa ăn cả động vật, nhóm thứ  hai chỉ  ăn thịt,   phân bố không phụ thuộc vào ánh sáng. Về  sinh thái, quần xã san hô là nhóm động vật sống bám đáy không di   chuyển, tạo thành các tập đoàn (colony) rất đông đảo, còn để  lại nhiều di tích  hoá thạch được bảo tồn tại chỗ trong các lớp trầm tích trên khắp thế giới. Vì thế  chúng không chỉ có giá trị trong nghiên cứu địa tầng mà còn là đối tượng tốt cho   nghiên cứu biến đổi khí hậu trong những năm gần đây. Ngoài ra hệ sinh thái rạn san hô có đặc tính đa dạng sinh học cao mà trước   hết là sự  thể  hiện giàu có về  thành phần loài sinh vật trên rạn. Trên cùng một   diện tích phân bố   ở  từng vùng, không một hệ  sinh thái biển nào có thành phần   loài nhiều hơn rạn san hô [53]. Rạn san hô là môi trường mà nhiều loài phụ thuộc  vào đó. Nền đáy cứng trên rạn là nơi mà nhiều loài sinh vật đáy sinh sống và sinh  trưởng. Một số lượng lớn các hang hốc trên rạn cung cấp nơi trú ẩn cho cá, đặc  biệt là cá con và các động vật không xương sống. Nhiều loài còn coi rạn san hô là  nơi duy trì tồn tại của chu trình sống và sử  dụng rạn như  là nơi kiếm ăn, đẻ  trứng hoặc  ương con và trú  ẩn. Vì vậy từ  những năm 1991 trở  về  đây những  
  12. chương trình nghiên cứu biển trên các rạn san hô  ở  Việt Nam tập trung vào  những vấn đề liên quan đến tiềm năng đa dạng sinh học, hiện trạng khai thác sử  dụng và cơ sở khoa học cho việc thiết lập các khu bảo tồn thiên nhiên biển. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hiện trạng các rạn   san hô tại Việt Nam và có chung nhận định về  sự suy giảm độ  phủ  san hô cũng   như đa dạng nguồn lợi sinh vật trong rạn và đưa ra các giải pháp bảo vệ nguồn   lợi.  Để góp phần nhỏ vào công tác bảo tồn biển. Chúng tôi thực hiện đề tài “   Nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng và hình thái rạn san   hô ven đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận” với các nội dung chính: ­ Xác định thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng ven đảo Phú Quý, tỉnh   Bình Thuận. ­ Xác định đặc điểm hình thái, diện tích và phân bố rạn san hô cứng ven đảo Phú   Quý, tỉnh Bình Thuận.  Với những kết quả nghiên cứu này nhằm bổ sung tư liệu về đa dạng sinh   học quần xã rạn san hô nói riêng và đa dạng sinh học biển nói chung của vùng  ven biển đảo Phú Quý. Từ đó kết hợp với các luận cứ khoa học cơ bản về điều  kiện tự  nhiên, đa dạng sinh học, môi trường và xu hướng diễn thế  của chúng   trong mối tương quan mật thiết với điều kiện thực tiễn kinh tế­xã hội làm cơ sở  cho việc thiết lập xây dựng và quản lý các khu bảo tồn biển mà trong đó hệ sinh  thái rạn san hô đóng vai trò đối tượng trung tâm.
  13. CHƯƠNG 1.  TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu rạn san hô trên thế giới. Cuối thế kỷ XVIII, rạn san hô trở thành mối quan tâm lớn trên thế giới bởi  vì đây chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra các vụ đắm tàu. Thật đáng ngạc nhiên  khi rạn san hô được quan tâm muộn như vậy vì một nửa đường bờ của Đại Tây   Dương nằm ở vùng nhiệt đới và 1/3 bờ biển nhiệt đới có san hô phân bố. Trong   cuốn sách “Rạn san hô” xuất bản năm 1842, Charles Darwin đã chỉ ra những vùng   phân bố  chính của rạn san hô trên thế  giới. Bản đồ  này được coi là khá tin cậy  trong phạm vi lớn. Sau đó James Dana cũng có một công trình lớn vào năm 1872,  tuy nhiên tác phẩm đó lại bị Darwin phê phán do quan điểm về sự hình thành các   đảo san hô vòng. Darwin đã đúng và được nhiều nhà khoa học cùng thời ủng hộ.   Tuy nhiên, mối quan tâm của giới khoa học về cuộc tranh luận này đã dừng lại   với bản đồ  phân bố và lý thuyết hình thái rạn của Darwin. Những quan tâm đối  với san hô, một cách tách biệt khỏi nghiên cứu về  rạn, được thực hiện từ  cuối  thể kỷ thứ XVIII. Mẫu vật san hô đã được thu thập trong nhiều chuyến khảo sát  lớn và được định loại trưng bày  ở  các bảo tàng Châu Âu và Mỹ. Trước khi có   những tiến bộ về lặn có khí tài, những vùng nghiên cứu chủ yếu giới hạn ở Biển  Đỏ, Nhật Bản, Palau, Philippines, Great Barrier Reef, Hawaii,  đảo Marshall và  vịnh Carribe. Tính ra đã có tới 400 công trình về  phân loại san hô tạo rạn được  xuất bản với 2000 tên gọi đã được đặt và mô tả trước thời đại lặn có khí tài. Rất   tiếc là nhiều mô tả thời đó rất sơ sài và tên gọi thì khá lộn xộn. Về sau này, với   các trang thiết bị  hiện đại và qua nhiều chuyến khảo sát lớn, hiểu biết về  rạn   san hô và san hô tạo rạn đã được cải thiện [21]. Cho đến nay, khoảng 700 loài san hô tạo rạn đã được ghi nhận trên thế giới với   tính đa dạng loài khác nhau giữa các vùng biển thế giới. Trong đó vùng đa dạng   nhất là nhiệt đới Tây Thái Bình Dương. Lý thuyết của Darwin cho rằng kiếu cấu  trúc đảo san hô vòng “là hình ảnh của một hòn đảo bị chìm ngập” đã được chứng  minh bằng các dẫn liệu về khoan sâu. Những nghiên cứu về rạn san hô trong thế 
  14. kỷ  hai mươi đã tập trung đánh giá những tác động và hậu quả  sinh thái do hoạt  động của con người gây nên đối với rạn và tìm kiếm các giải pháp nhằm bảo tồn   rạn san hô cho thế hệ tương lai. Hiện nay, cứ 4 năm một lần một hội thảo quốc tế về rạn san hô được tổ  chức. Đây là cơ hội để hàng ngàn nhà nghiên cứu và quản lý trao đổi thông tin và   cùng nhau hành động vì sự  tồn tại bền vững của rạn san hô và nâng cao lợi ích  mà con người được hưởng lợi từ rạn san hô[21]. Kết quả của chuyến khảo sát Ramble có thể được coi là công trình nghiên  cứu rạn san hô đầu tiên ở vùng Biển Đông trong đó đã nghi nhận 14 giống san hô   cứng   ở   quần   đảo   Macclesfield   và   đảo   san   hô   vòng   Tigia   (   thuộc   quần   đảo   Trường Sa). Ngoài ra có những thông tin không chính thức cho rằng Darwin cũng   đã ghé qua các rạn san hô trong Biển Đông trên con đường nghiên cứu học thuyết  về sự hình thành các đảo san hô vòng (atoll) [46] Những nghiên cứu về phân bố rạn san hô thế giới ghi nhận có hàng ngàn  rạn san hô, giới hạn phân bố  của chúng chỉ   ở  vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới   trải từ  khoảng 30 độ  vĩ tuyến Bắc đến 30 độ  vĩ tuyến Nam nơi mà nhiệt độ  nước biển hiếm khi xuống dưới 180C. Diện tích bao phủ rạn san hô lên đến 6 x  105 km2 [48]. Sự khác biệt về hình thái, thành phần sinh học, tính đa dạng và cấu  trúc phản ánh đặc trưng địa­sinh học, tuổi, phân vùng địa động vật và điều kiện   môi trường. Tuy nhiên, chúng không luôn luôn tồn tại như  hiện nay mà đã trải   qua một lịch sử thay đổi, biến động liên quan chặt chẽ đến những sự kiện lớn về  địa chất và khí hậu toàn cầu. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu rạn san hô ở Việt Nam Lịch sử  nghiên cứu về  hệ  sinh thái rạn san hô Việt Nam ghi nhận những   kết quả  nghiên cứu của Ramble như  những công trình nghiên cứu đầu tiên  ở  vùng Biển Đông. Trong đó Smith (1890) [46] đã ghi nhận 14 giống san hô cứng ở  quần đảo Macclesfield và đảo san hô vòng Tigia (Trường Sa). 
  15. Trước những năm 1954 các chương trình nghiên cứu về  san hô  ở  Biển  Đông nước ta phần lớn được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu người Pháp thuộc  Viện Hải Dương học Nha Trang. Các công trình nghiên cứu sau đó được xuất  bản bằng tiếng Pháp, trong đó đáng kể nhất là tập hợp kết quả công trình nghiên   cứu của Chevey P [3] và Krempf.A ([12]. Những khảo sát tiếp theo của Serene ,  R. [56] ; Dawydoff. C.N., (1952) [54]  ở  nhiều vùng biển ven bờ  cũng cho phép  nêu lên những nhận định về  thành  phần san hô cứng, cấu trúc và phân bố  của   một số  rạn san hô  ở  vịnh Hạ  Long, vịnh Thái Lan, Côn Đảo và ven biển miền  Trung.  Từ  năm 1955 đến năm 1975, nghiên cứu về  rạn san hô được tiến hành   không nhiều. Đáng chú ý nhất là hai công trình nghiên cứu ở vịnh Nha Trang của   Trần Ngọc Lợi (1955) [56] mô tả  các quần xã sinh vật rạn san hô ở  vùng nước  nông và tài liệu phân loại san hô mềm của Tixier ­ Durivault (1970)[45]. Từ  năm 1975 đến năm 1990 là thời kỳ  có nhiều chương trình nghiên cứu  lớn, tiêu biểu là các chương trình hợp tác với Liên Xô. Những nghiên cứu cơ bản  về rạn san hô được quan tâm trong các công trình khoa học biển của Nhà nước và  nhất là trong các chuyến khảo sát liên hợp Việt Xô. Các công trình xuất bản  trong thời kỳ này đã cung cấp những dẫn liệu cơ bản về phân bố, quần xã sinh  vật rạn, thành phần loài san hô tạo rạn và hiện trạng của nhiều rạn san hô  ở  vùng biển ven bờ miền Trung và quần đảo Trường Sa. Những kết quả đáng chú   ý của giai đoạn này được xuất bản vào những năm sau đó, bao gồm các công   trình của Latypov [5,6,7,8]; Nguyễn Huy Yết [26, 27, 28, 29,30, 31, 34]; Võ Sĩ  Tuấn [17, 18, 19], [20]. Các nghiên cứu về san hô thực hiện sau năm 1990 chủ  yếu tập trung vào   những vấn đề liên quan đến tiềm năng đa dạng sinh học, hiện trạng khai thác sử  dụng và cơ  sở  khoa học cho việc thành lập các khu bảo tồn biển. Trong đó,  những báo cáo điều tra của các đội khảo sát Quỹ  bảo vệ  động vật hoang dã  Quốc tế (WWF) và Viện Hải Dương học là cơ sở ban đầu để đề xuất hệ thống 
  16. khu bảo tồn biển Việt Nam. Song song với vấn đề bảo tồn thiên nhiên, việc tổng   kết và nghiên cứu cũng cho phép giải quyết một số vấn đề cơ bản như địa động  vật, phân vùng đa dạng sinh học dựa trên đặc tính khu hệ san hô tạo rạn [9]. Từ  năm 2000 đến nay, Viện Hải dương học Nha Trang phối hợp với một số tổ chức   Quốc tế khác tiến hành các chương trình nghiên cứu cơ bản về hệ sinh thái rạn   san hô, nhưng tiêu biểu là 2 nghiên cứu tổng thể đa dạng sinh học làm cơ sở khoa  học cho việc phân vùng và thiết lập khu bảo tồn biển  ở vịnh Nha Trang (Khánh   Hòa) và Cù Lao Chàm (Quảng Nam). Từ kết quả khảo sát đó, 2 khu bảo tồn biển   đầu tiên  ở  Việt Nam đã được thiết lập vào các năm 2001 và 2003. Đối với rạn   san hô miền Bắc, từ  năm 2003­2004 Viện Nghiên cứu Hải sản phối hợp với  Viện Tài nguyên Môi trường Biển Hải Phòng đã thực hiện chương trình nghiên  cứu đa dạng sinh học tại 2 đảo Cát Bà và Cô Tô làm cơ sở khoa học cho việc xây   dựng khu bảo tồn biển. Gần đây 2 chương trình nghiên cứu của Viện Nghiên  cứu Hải sản do Đỗ Văn Khương làm chủ nhiệm : ­ Năm 2006­2008 Đề  tài“Đánh giá nguồn lợi cá rạn san hô  ở  một   số vùng dự kiến thiết lập khu bảo tồn biển và một số loài hải sản   có giá trị  kinh tế  cao  ở  dốc thềm lục địa Việt Nam, đề  xuất các   giải pháp sử dụng bền vững nguồn lợi”. ­   Năm 2007­2009 Đề  tài  KC09   ”Đánh giá điều kiện tự  nhiên và   kinh tế xã hội các khu bảo tồn biển trọng điểm phục vụ  cho xây   dựng và quản lý”. Nội dung nghiên cứu bao gồm các kết quả  nghiên cứu về  đa dạng sinh   học biển, kết hợp với các nghiên cứu đánh giá kinh tế xã hội tại mỗi khu vực là  những tư  liệu có giá trị  cao trong định hướng thiết lập mạng lưới khu bảo tồn   biển Việt Nam trong thời gian tới. 1.2.1 Thành phần san hô cứng và san hô tạo rạn Những nghiên cứu từ năm 1982 ­ 2004 đã xác định khoảng 400 loài thuộc   79 giống san hô cứng  ở  ven bờ  biển Việt Nam. Kết quả  thống kê thể  hiện sự 
  17. tương đối giàu có về thành phần loài của vùng biển phía Nam với số lượng hơn   hẳn vùng biển phía Bắc và gần tương đương với các vùng giàu có san hô của thế  giới như Philippines (441 loài), Nam Papua New Guinea (282 loài), Biển Coral Sea  (239 loài), Bắc Great Barrier Reef (324 loài), giữa Great Barrier Reef (343 loài)  [50] và Đông Indonesia (350 loài) [36]. Tổng số  loài ghi nhận  ở  ven biển Việt  Nam cho ta nhận định rằng: Vùng biển Việt Nam là một trong những vùng có  thành phần loài san hô khá đa dạng của thế giới. Trong 79 giống san hô cứng đã xác định  ở  Việt Nam, có 72 giống thuộc  nhóm san hô tạo rạn. Tuy nhiên, sự  đa dạng loài san hô tạo rạn khá khác nhau   giữa các vùng phân bố (bảng 1). Bảng 1. Số lượng loài san tạo rạn ở các vùng ven biển Việt Nam Số lượng  Số lượng  Số lượng  Số lượng  Vùng biển giống san  loài san hô  giống san  loài san hô  hô cứng cứng hô tạo rạn tạo rạn Tây vịnh Bắc Bộ 56 200 56 186 Trung Trung Bộ 64 246 61 238 Nam Trung Bộ 77 400 71 350 Đông Nam Bộ 63 350 61 >300 Tây Nam Bộ 64 270 61 Trường Sa, Hoàng Sa 65 256 65 256 (Nguồn: theo Võ Sỹ Tuấn, 2005)[21] Về cấu trúc thành phần loài, trong thành phần loài đã xác định ở biển Việt  Nam, giống có số  loài nhiều nhất là Acropora chiếm 16,8% tổng số  loài đã ghi   nhận,   sau   đó   là   các   giống   Monipora   (8,6%),   Porites   (4,5%),   Fungia   (3,7%),   Goniopora (3,5%), Pavona (2,4%). So sánh các vùng phía nam Việt Nam với vịnh  Bắc Bộ và một số vùng biển khác ở tây Thái Bình Dương cho thấy tỷ lệ của số  loài thuộc các giống này trên tổng số loài ít thay đổi hoặc thay đổi không có quy  
  18. luật ngoại trừ đối với giống Favia – nhóm san hô dạng khối điển hình. Điều cần  chú ý là giống này có tỷ  lệ  số  lượng loài khá cao  ở  vùng biển xung quanh đảo  Amacusa và Tanegashima – các vùng biển của Nhật Bản ít chịu  ảnh hưởng của   các dòng nước  ấm Kuroshio từ  phía nam [50] và vịnh Bắc Bộ  ­ Bắc Việt Nam.   Trong khi đó, sự khác nhau của thông số này giữa vùng biển phía Nam Việt Nam   và các vùng còn lại kể cả ở Okinawa ( Nhật Bản) không đáng kể. Thống kê trên đây cho thấy, vịnh Bắc Bộ có thành phần loài nghèo hơn rõ  rệt so với các vùng biển  ở  phía Nam Việt Nam. Hơn nữa, sự phổ biến của rạn   san hô  ở  một số vùng trong Vịnh – nơi có nhiệt độ  khá thấp vào mùa đông, còn  bất ngờ  ngay cả đối với giới nghiên cứu. Vì vậy, liệu tính chất thành phần loài   có sự khác biệt giữa vịnh Bắc Bộ và các vùng biển phía Nam hay không. Một số phân tích trên đây cho thấy, nếu không kể  về  số lượng, tính chất   thành phần loài san hô cứng của vùng biển ven bờ  phía Nam Việt Nam không   khác biệt nhiều so với vịnh Bắc Bộ. Trong khi đó luận điểm phân vùng địa động   vật của Gurjanova, (1976) cho rằng khu hệ  động vật vịnh Bắc Bộ  thuộc phân  vùng Trung Hoa­ Nhật Bản, còn vùng biển phía Nam từ  13 độ  vĩ tuyến Bắc trở  vào thuộc phân vùng  Ấn Độ­Mã Lai.( trích Võ Sĩ Tuấn ctv, 2005). Dường như  tính chất thành phần loài san hô cứng không phù hợp với luận điểm này. Đây  cũng là cơ  sở  để  một số  tác giả  Maliautin & Latypov, 1991[9] phủ  nhận phân  chia vùng địa động vật  ở  Biển Đông. Vấn đề  cần xem xét thêm là  hầu hết san  hô cứng tạo rạn mang tính chất nhiệt đới rõ rệt và đều phát tán từ  trung tâm  ở  vùng nhiệt đới thông qua vai trò của dòng chảy trên biển. Yếu tố  này thay đổi  theo mùa rất phức tạp đối với các vùng biển ven bờ và chi phối tính chất khu hệ  san hô. Ngay cả ở vùng biển vĩ độ cao phía Bắc như Okinawa cũng có khu hệ san   hô cứng khá điển hình nhờ   ảnh hưởng của dòng chảy Kuroshio. San hô tạo rạn  không có con đường phát tán ngược lại từ phía Bắc như  nhiều nhóm sinh vật có  nguồn gốc hình thành đa dạng khác. Vì vậy, cần phải thận trọng khi dựa vào tính  chất thành phần loài san hô để xem xét phân vùng địa động vật.
  19. 1.2.2 Phân bố và đặc điểm sinh thái rạn san hô Vị  trí địa lý và điều kiện tự  nhiên của vùng biển Việt Nam nói chung khá  thuận lợi cho sự phát triển của san hô tạo rạn, trừ các vùng chịu ảnh hưởng của  các lưu vực sông với độ  muối thấp và độ  đục cao. Rạn san hô phân bố  hầu hết   tại các vùng nước nông ven bờ, ven đảo có nền đáy chắc, rất giàu có ở các quần   đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên tính chất phân bố và hình thái các rạn san  hô tương đối khác nhau giữa các vùng địa lý.[21] Vùng ven bờ thuộc bờ Tây vịnh Bắc Bộ  có điều kiện tự  nhiên ít thuận lợi  nhất trên phương diện sinh thái san hô tạo rạn. Các yếu tố  bất lợi là nhiệt độ  thấp vào mùa đông và ảnh hưởng lớn của các dòng vật chất từ đất liền. Vùng có   rạn san hô phân bố thường chỉ ở phần ngoài của các vịnh Hạ Long, Bái Tử Long,  Quần đảo Cô Tô, Long Châu… Hầu hết vùng này đều có đáy biển nông , nhiều  bùn. Vì vậy, rạn san hô  ở  bờ  Tây vịnh Bắc Bộ  thường rất hẹp và chỉ  phân bố  đến độ sâu khoảng 5­7m, chỉ những nơi xa rạn mới có thể xuống đến 10m. Tuy  nhiên, với vị  trí địa lý đảo Bạch Long Vĩ là nơi thuận lợi nhất cho sự phát triển   của rạn san hô vịnh Bắc Bộ. Vùng ven bờ  miền Trung và các đảo Đông Nam Bộ  rạn san hô phát triển  thuận lợi hơn so với vùng biển phía Bắc. Đây là những vùng biển có nhiệt độ  nước thường xuyên cao trên 200C và chịu ảnh hưởng lớn của biển khơi. Địa hình  ven biển cũng tạo thành nhiều các vũng vịnh và đảo tạo nên sự  đa dạng về sinh   cảnh. Nhờ  vậy, san hô phân bố  phổ  biến  ở  dải ven bờ  từ  Đà Nẵng đến Bình  Thuận, xung quanh hầu hết các đảo từ Cù Lao Chàm đến Côn Đảo. Hình thái rạn  cũng rất đa dạng có thể rộng từ 50m đến 800m. Ở  vùng biển Tây Nam Bộ, vùng ven bờ  không thuận lợi cho san hô phát  triển do đáy biển có nhiều bùn, nước có độ  trong thấp rạn phân bố  xung quanh  các đảo xa bờ như Phú Quốc, Nam Du, Thổ Chu. So với các vùng biển khác, chế  độ thuỷ văn, động lực ít có những biến động lớn. Do vậy, rạn san hô tương đối  
  20. đồng nhất về hình thái. Sự khác biệt chủ yếu do yếu tố nền đáy tạo nên. Các rạn   thường có chiều rộng từ 50­100m và phân bố đến độ sâu 10­13m nước. Các Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa gồm hàng trăm đảo, bãi ngầm hình   thành do quá trình phát triển sinh ­ địa học của rạn san hô. Rạn san hô hiện tại có  thể  phân bố  đến độ  sâu 40­50m và có diện tích rất rộng. Các đảo san hô vòng  (atoll) điển hình có thể kéo dài tới 50km và bao gồm các vành khuyên đảo nổi và  bãi ngầm. Lagun bên trong đảo san hô vòng chỉ  có độ  sâu dưới 50m, trong khi   thềm ngoài dốc đột ngột xuống hàng trăm mét. Một dạng hình thái khác là các  đảo hoặc bãi ngầm đơn độc chỉ  rộng cỡ  2­3km với lagun nông  ở  bên trong chỉ  sâu khoảng 5­7m [21]. 1.2.3. Đặc điểm cấu trúc và hình thái rạn san hô. Ở  vùng biển Việt Nam, chỉ  mới ghi nhận hai kiểu cấu trúc là rạn riềm   (fringing reef) và rạn dạng nền (plat­form reef).  Ở vùng biển khơi xa, rạn san hô   thuộc về  một kiểu cấu trúc hoàn toàn khác – đó là các đảo san hô vòng. Rạn   dạng nền cũng tồn tại với cấu trúc là các đảo hoặc bãi ngầm không liên kết   thành dải hình vành khuyên rộng lớn. Đây có thể coi là các “đảo san hô vòng giả”   (pseudo­atoll). Theo quan sát tổng quan đặc điểm hình thái rạn san hô ven bờ  Việt Nam,   rạn riềm ven bờ chủ yếu tập trung từ Quảng Trị đến vịnh Cà Ná. Các rạn riềm   ven bờ đều không xuất hiện dọc đường bờ vịnh Bắc Bộ, Biển Đông và Tây Nam   Bộ, nơi mà các đường bờ biển và ảnh hưởng của sông đều không thuận lợi cho  chúng. Rạn riềm ven đảo phổ  biến nhất  ở  vùng biển Việt Nam gồm: Các cụm   đảo trên thềm lục địa như  Hạ  Long, Cát Bà, Cô Tô, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, các   đảo nhỏ   ở  Khánh Hoà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ  Chu, Nam Du. Các   điều kiện chủ  yếu thuận lợi cho rạn tồn tại bao gồm nền đáy cứng xung quanh   đảo, ảnh hưởng của sông ngòi từ đất liền đến đảo không lớn.  Về  mặt hình thái các rạn san hô riềm nói chung thuộc vào hai dạng khác   nhau: rạn riềm điển hình và rạn riềm không điển hình. Rạn riềm điển hình là  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2