intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H'Mông Hà Giang

Chia sẻ: Lộ Lung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:128

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đã phản ánh một cách sâu sắc những vẻ đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người H’mông ở Hà Giang, qua đó đã xây dựng được những thể loại văn học dân gian, trong đó dân ca là một thể loại tiêu biểu, đại diện cho tính cách và tâm hồn của người H’mông Hà Giang. Từ đó có thể khẳng định vai trò và tác dụng của Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H’mông ở Hà Giang trong truyền thống cũng như trong hiện tại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H'Mông Hà Giang

  1. 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM VŨ HỒNG CƢỜNG TIẾNG HÁT VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI TRONG DÂN CA H'MÔNG HÀ GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên, năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM VŨ HỒNG CƢỜNG TIẾNG HÁT VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI TRONG DÂN CA H'MÔNG HÀ GIANG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ Thái Nguyên, năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. 3 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian nghiên cứu đề tài "Tiếng hát về tình yêu đôi lứa trong dân ca H'mông Hà Giang", đến nay chúng tôi đã hoàn thành và được phép bảo vệ luận văn. Với tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy, các cô khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ tận tình về tất cả các mặt cho tôi trong quá trình học tập. Tôi xin chân thành cảm ơn các bộ phận quản lý, lãnh đạo trường Đại học Sư phạm, đặc biệt là khoa sau đại học, đã chỉ dẫn, quản lý chặt chẽ về thủ tục, thời gian và những điều kiện cần thiết cho việc hoàn thành Luận văn Thạc sĩ. Với lòng biết ơn chân thành tôi bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới: TS. Ngô Thị Thanh Quý - Người cô đã giúp đỡ tôi, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại trường. Bên cạnh đó tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới ông Hùng Đình Quý, Sở văn hóa thông tin tỉnh Hà Giang đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm tài liệu nghiên cứu. Mặc dù bản thân tôi đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu xong chăn chắn trong Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự chỉ dẫn của quí thầy cô và các bạn đồng nghiệp. Hà Giang, tháng 8 năm 2010 Tác giả Vũ Hồng Cƣờng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 4 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CÓ TRONG LUẬN VĂN CTQG : Chính trị quốc gia ĐH – THCN : Đại học – Trung học chuyên nghiệp . GS-TSKH : Giáo sư -Tiến sĩ khoa học . H, : Hà Nội. Nxb : Nhà xuất bản . PGS-TS : Phó Giáo sư - Tiến sĩ . STT : Số thứ tự. VHTT : Văn hóa thông tin . Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 5 MỤC LỤC Trang Mở đầu. .................................................................................................................................................................................................................................. 1 Nội dung ............................................................................................................................................................................................................................ 12 Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và vấn đề khảo sát thƣ̣c tế . ..................................................................... 12 1.1. Nguồn gốc lị ch sử của người H’mông Hà Giang .................................................................. 12 1.2. Điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa của người Mông Hà Giang.................... 14 1.3. Tổng quan về dân ca H'mông và dân ca H’mông Hà Giang ..................................... 27 Chƣơng 2. Những nội dung chính trong tiếng hát về tình yêu lứa đôi ở dân ca H’Mông Hà Giang. ......................................................................................................................................... 33 2.1. Tiếng hát tì nh yêu đôi lứa ................................................................................................................................................ 33 2.2. Tiếng hát tình yêu đôi lứa - Những nỗi niềm tâm sự qua câu hát ................ 36 2.2.1. Bài hát về nỗi nhớ ........................................................................................................................................................ 36 2.2.2. Bài hát thở than, trách móc ............................................................................................................................. 43 2.2.3. Bài hát ao ước, thề thốt ....................................................................................................................................... 49 2.3. Khúc hát li biệt ..................................................................................................................................................................................... 59 Chƣơng 3. Nghệ thuật thể hiện tiếng hát tình yêu đôi lứa trong dân ca H’Mông Hà Giang. .................................................................................................................................................................. 65 3.1. Tính trữ tình .............................................................................................................................................................................................. 65 3.2. Thể thơ .............................................................................................................................................................................................................. 75 3.3. Một số thủ pháp nghệ thuật ............................................................................................................................................. 78 3.4. Môi trường lưu truyền và nghệ thuật diễn xướng ................................................................... 93 Kết luận ........................................................................................................................................................................................................................ 106 Tài liệu tham khảo Danh mục công trì nh của tác giả Phụ lục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 6 MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài 1.1.1. Về mặt khoa học Tại Hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30-10-1958, Bác Hồ của chúng ta đã nói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là những người sáng tác nữa... Các cán bộ văn hoá cần phải giúp những sáng tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý ...”. Kho tàng văn học Việt Nam, tục ngữ, ca dao và dân ca chính là những hòn ngọc quý đó. Trong các chính sách về văn hóa của Đảng và nhà nước ta hiện nay luôn quan tâm và khuyến khích phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Một trong những chính sách đó của Đảng là nhân lên vốn tinh hoa văn hóa của các dân tộc thiểu số. Trong năm mươi tư dân tộc anh em Việt Nam, từng dân tộc ở các địa phương đều có một vốn văn hoá cổ truyền riêng biệt, tạo thành bản sắc văn hoá riêng của mình. Đồng bào dân tộc H’mông ở Hà Giang thường được mọi người biết đến qua phiên chợ tình Khau Vai với những nét văn hoá độc đáo, nhưng ít ai có thể biết được những người dân tộc H’mông nơi đây lại có một kho tàng ca dao, dân ca vô cùng phong phú và đa dạng.Đặc biệt là những bài dân ca về tình yêu đôi lứa , đó là kho báu mang vẻ đẹp độc đáo về tâm hồn những người H’mông. Nghiên cứu những bà i dân ca ấy , chính là tìm hiểu và khám phá về những vẻ đẹp mang giá trị nhân văn sâu sắc trong tâm hồn con người . Dân ca H’mông xứng đáng là một mảnh đất văn học chất chứa nhiều tiềm năng cần được chú ý khai thác hơn nữa , đấy chí nh là hành động thể hiện đạo lý uống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 7 nước nhớ nguồn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc. Hưởng ứng lời kêu gọi của tổ chức UNESCO trong chương trình “Thập kỉ trở về nguồn”. Đặc biệt đó cũng chính là một hoạt động cần được triển khai tích cực để hưởng ứng Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động. 1.1.2. Về mặt thực tiễn Là một giáo viên có nhiều năm sống và công tác tại nơi địa đầu tổ quốc – Hà Giang , riêng đối với cá nhân tôi, tìm đến với đề tài này là một hành động tri ân đối với mảnh đất và con người nơi đây đã và đang cưu mang đùm bọc những người cán bộ lên đây công tác với những tình cảm yêu thương gắn bó. Những đức tính tốt đẹp của người dân Hà Giang được hun đúc từ trong truyền thống, bén rễ từ những bài dân ca được lưu giữ từ ngàn đời. Cũng như các dân tộc anh em khác, người H'mông ở Hà Giang đặc biệt yêu quý và trân trọng vốn văn hóa dân gian của dân tộc mình, trong đó có dân ca. Trong lịch sử truyền thống của người H'mông Hà Giang cách đây khoảng năm sáu mươi năm, dân ca là món ăn tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, và trong sinh hoạt hàng ngày của người H'mông Hà Giang. Dân ca đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội trong một cộng đồng, một dân tộc, góp phần hình thành nhân cách, tâm hồn của mỗi con người và cả thế giới con người. Nhưng hiện tại thì dân ca của người H'mông Hà Giang đang ra sao? Thực tế công tác và giảng dạy tại đây , được tiếp xúc với các học sinh là người dân tộc H’mông , các em sinh ra và lớn lên trong một thời kì mới , chúng tôi cảm nhận rằng sự hiểu biết về vốn văn hóa truyền thống của các em còn rất hạn chế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 8 Trong một lần gặp gỡ, ông Hùng Đình Quý - nguyên Giám đốc Sở văn hóa du lịch Hà Giang, ông đã tâm sự: Đa số bọn trẻ người Mông bây giờ chẳng đứa nào chịu học hát bài dân ca của chúng nó. Đây cũng là vấn đề chung mà tất cả mọi người phải nhìn nhận lại. Do đó, nghiên cứu về Tiếng hát tình yêu đôi lứa trong dân ca của người H’mông ở Hà Giang là một việc làm cần thiết trong rất nhiều những việc làm để giữ gì n , bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc . Đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển toàn diện, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kêu gọi tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, Đảng ta luôn quan tâm tới vấn đề văn hoá truyền thống, coi văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp trong đời sống, và bồi dưỡng cái đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam hôm nay, đồng thời xoá bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp trong đời sống văn hoá tinh thần nhân dân là một yêu cầu ngày càng cấp thiết, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ sự nghiệp Cách mạng hiện nay cũng như lâu dài. Đó cũng là công việc thầm lặng của những nhà giáo và đặc biệt là những thầy cô giáo dạy văn . Hiện nay, chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, phần văn học dân gian được đưa vào giảng dạy ở lớp 6,7,8 và lớp 10. Trong đó một số tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc ít người đã được sử dụng như: Sử thi Đăm Săn của dân tộc Êđê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường, truyện thơ Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái... Điều đó thể hiện sự đa dạng, phong phú của vốn văn học dân gian dân tộc, nhưng nhu cầu muốn được tìm hiểu nền văn học dân gian của chính dân tộc mình, địa phương mình là một nhu cầu chính đáng và cần được đáp ứng. Tất nhiên không thể đưa hết vào trong chương trình phổ thông những tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 9 của cả năm mươi tư dân tộc anh em và của từng địa phương khác nhau. Hiện tại, trong cấu trúc sách giáo khoa môn Ngữ văn phổ thông, các nhà biên soạn sách đã dành một số tiết văn học địa phương theo hướng mở, để giáo viên và học sinh tự tìm hiểu về vốn văn học dân gian của dân tộc mình, địa phương mình. Vấn đề đó còn được tìm hiểu trong các tiết học ngoại khóa trong nhà trường, giúp các em hiểu biết về vốn văn hóa của cha ông, qua đó biết trân trọng, giữ gì n và phát huy truyền thống văn hóa . Tuy nhiên, trong các tiết học tự chọn, giáo viên và học sinh lại cảm thấy khó khăn và lúng túng khi thiếu tư liệu tham khảo để dạy và học những kiến thức văn học ở ngay chính địa phương mình. Đó chính là lý do thực tiễn thôi thúc tôi làm đề tài này, hi vọng sẽ đóng góp một phần tư liệu cho giáo viên và học sinh Hà Giang có thể tham khảo trong những tiết dạy về văn học địa phương. 1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Dân ca H’mông Hà Giang phong phú về đề tài, đặc sắc về nghệ thuật và sâu xa về ý tứ. Tuy nhiên việc sưu tầm và nghiên cứu chưa thực sự được chú ý. Đã có một số công trình sưu tầm, nghiên cứu về dân ca H’mông nói chung và dân ca của người H'mông Hà giang nói riêng. 1.2.1. Sưu tầm Dân ca H’mông cũng như dân ca H’mông Hà Giang là những sản phẩm văn học dân gian đã có từ rất lâu đời trong lị ch sử hì nh thành của tộc người H’mông. Tuy nhiên, từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX trở về trước, dân ca H’mông cũng như dâ n ca H’mông Hà Giang vẫn là những tác phẩm dân gian được các nghệ nhân lưu giữ chủ yếu trong trí nhớ và qua hì nh thức truyền miệng . Phải cho đến những năm 60 của thế kỉ XX trở lại đây , những hòn ngọc quý đó mới thu hút được sự chú ý của các nhà sưu tầm nghiên cứu văn hóa , văn học dân gian. Đó là nhờ công lao của những người thực sự tâm huyết với vốn văn hóa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 10 của các dân tộc vùng cao. Họ đã đóng góp vào lịch sử văn học dân gian dân tộc những công trì nh sưu tầm có giá trị về dân ca H’mông và dân ca H’mông Hà Giang. Các di sản quý hiếm đó đã lần lượt được giới thiệu trong các công trình sưu tầm sau : - Dân ca Mèo (Doãn Thanh), NXB Văn học – Hà Nội, 1967. - Dân ca H’mông (Doãn Thanh – Chế Lan Viên giới thiệu ), NXB Văn học, Hà Nội, 1984. - Chỉ vì quá yêu (Hùng Đình Quý), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998. - Không thương nhau sẽ khổ (Hờ A Di ), NXB Văn hóa dân tộc , Hà Nội, 1999. - Dân ca Mông Hà Giang – tập I (Hùng Đình Quý), NXB Sở VHTT Hà Giang, 2000. - Dân ca Mông Hà Giang – tập I I (Hùng Đình Quý), NXB Sở VHTT Hà Giang, 2001. - Dân ca Mông Hà Giang – tập III (Hùng Đình Quý), NXB Sở VHTT Hà Giang, 2003. Trong công trình của nhà thơ Hùng Đì nh Quý , ông đã công bố những bài dân ca H’mông Hà Giang (cả bằng tiếng H’mông, cả bản dịch tiếng Việt), đó là những bài dân ca do tác giả sưu tầm từ một số nghệ nhân người H’mông ở các huyện vùng cao Hà Giang như: Đồng Văn, Quản Bạ, Mèo Vạc... Đây là những công trì nh có giá trị để cho các nhà nghiên cứu dựa vào đó để tìm hiểu về vốn văn hóa đặc sắc của các dân tộc vùng cao . 1.2.2. Nghiên cứu Dân ca H’mông đã được tìm hiểu trong một số giáo trình của các tác giả: Đỗ Bình Trị, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu với những đặc trưng riêng qua sự khái quát của các tác giả. Đặc biệt là nhờ sự tâm huyết của những người yêu vốn văn hóa của cá c dân tộc vùng cao mà các giá trị tinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 11 thần của người H’mông đã được tì m đến và giới thiệu trong các công trì nh nghiên cứu của một số nhà văn, nhà nghiên cứu văn học dân gian và trong các luận văn, đề tài nghiên cứu . Năm 1965, nhà văn Tô Hoài đã để tâm đến một mảng đề tài trong dân ca H’mông qua bài viết Tiếng hát làm dâu , tiếng đau thương căm hờn , tiếng thiết tha hy vọng ngàn đời của phụ nữ Mèo . Trong bài viết , tác giả đã tập trung đến chủ đề tiếng hát làm dâu của dân ca H’mông . Ở đó đã phân tích, cắt nghĩa về số phận bất hạnh của những người phụ nữ H’mông trong xã hội cũ . Năm 1966, tác giả Doãn Thanh trong Mấy ý kiến về dân ca Mèo đã giới thiệu tập Dân ca Mèo do chí nh tác giả sưu tầm . Trong đó , tác giả đã đưa ra những nhận xét quan trọng về phương diện nội dung , nghệ thuật của dân ca H’mông. Đi vào nội dung , tác giả khẳng định tất cả những khí a cạnh tì nh cảm đều được miêu tả qua các bài hát , và qua dân ca có thể nhận thức được khá đầy đủ về nhiều mặt đời sống xã hội , đời sống tì nh cảm của người Mèo , càng thấy họ là những người giàu tì nh cảm và rất coi trọng tí n nghĩ a . Đồng thời , tác giả đã có những nhận định khái quát về phương diện kết cấu , phương pháp miêu tả , hình tượng nghệ thuật , ngôn ngữ … của dân ca H’mông . Những nhận xét đó tuy chỉ mang tính chung nhất , với những khám phá ban đầu nhưng lại là những đị nh hướng hết sức cần thiết cho công việc tì m hiểu về dân ca H’mông sau này . Năm 1979, trong bài viết Tâm hồn và tiếng hát Mèo (trong xã hội cũ ), Chế Lan Viên đã tì m thấy tâm hồn người H’mông qua chí nh tiếng hát của họ. Qua đó , tác giả đã cho thấy ý nghĩa sâu sắc của những bài dân ca H’mông trong đời sống văn hóa tinh thần đồng bào : Hơn mọi sự phân tí ch , chính cái việc uống ngay vài dòng suối diệu kì diệu của những tiếng hát lại là m ta hiểu ngay, hiểu hát được cái tâm hồn đã hòa tan trong tiếng hát kia… [13; 37]. Tác giả cũng khẳng định cái hay của tâm hồn H’mông không phải chỉ ở chỗ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 12 tâm hồn ấy có tiếng hát say mê , quý trọng tiếng hát của mình , mà còn ở chỗ người H’mông có một quan niệm , một chủ trương rất rõ về tiếng hát . Trong dân ca H’mông , tiếng hát tì nh yêu , tiếng hát cưới xin , tiếng hát mồ côi có thể hát bất cứ lúc nào , miễn là tì m được những tâm hồn biết ch ia sẻ nỗi lòng. Còn tiếng hát cúng ma lại không được phổ biến , phụ nữ không được học , riêng bài Khúa kê không được hát trong nhà . Đây chí nh là những khám phá hết sức đặc sắc, làm tiền đề cho việc tìm hiểu những giá trị của dân ca H’mông . Công trình mang tính chất chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về dân ca H'mông Hà Giang là luận văn thạc sỹ Ngữ văn của Hùng Thị Hà: Thơ ca dân gian H’mông (Hà Nội 2003). Đây là công trình có ý nghĩa khái quát về thơ ca H’mông nói chung, tuy nhiên trong luận văn, tác giả đã sử dụng một số bài dân ca H’mông Hà Giang làm tư liệu và có nhắc đến một vài khía cạnh trong nội dung tiếng hát về tình yêu đôi lứa trong dân ca H’mông Hà Giang. Nhưng đó chỉ là công trình mang ý nghĩa tổng quan về thơ ca dân gian H’mông nói chung chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu một phương diện cụ thể trong thơ ca H’mông nói chung và dân ca H’mông Hà Giang nói riêng. Gần đây nhất là đề tài nghiên cứu khoa học của Đỗ Ngọc Hoa (ĐHSP Thái Nguyên) về vấn đề Diễn xướng dân ca Mông Hà Giang (2008). Đây là một đề tài nghiên cứu của sinh viên mới chỉ dừng lại ở dưới góc độ hình thức biểu diễn của dân ca H’mông Hà Giang chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh giá trị nội dung và nghệ thuật của dân ca H’mông Hà Giang. Như vậy, cho đến nay, dân ca H’mông Hà Giang vẫn chưa được giới nghiên cứu quan tâm một cách đầy đủ. Mặc dù những người biết hát và thuộc nhiều dân ca H’mông ở Hà Giang rất ít ỏi và là những người có tuổi, do đó việc tìm hiểu và nghiên cứu dân ca H’mông ở Hà Giang được xem như là một việc làm cần thiết nếu không muốn những sản phẩm văn hóa văn học dân gian đó mai một theo thời gian. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 13 1.3. Mục đích nghiên cứu Khảo sát, phân tí ch về Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H’mông ở Hà Giang từ hướng tiếp cận văn học dân gian. Từ đó để thấy được cái hay, cái đẹp trong nội dung và nghệ thuật của một loại hình văn học , văn hóa của người H’mông . Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H’m ông ở Hà Giang đã phản ánh một cách sâu sắc những vẻ đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người H’mông ở Hà Giang, qua đó đã xây dựng được những thể loại văn học dân gian, trong đó dân ca là một thể loại tiêu biểu, đại diện cho tính cách và tâm hồn của người H’mông Hà Giang. Từ đó có thể khẳng đị nh vai trò và tác dụng của Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H’m ông ở Hà Giang trong truyền thống cũng như trong hiện tại. Mục đích nghiên cứu cũng cần k hẳng định rằng Tiếng hát về tình yêu lứa đôi trong dân ca H’mông ở Hà Giang có vai trò vô cùng quan trọng trong giáo dục, hình thành nhân cách con người, góp phần làm nên nét độc đáo của đạo đức, văn hoá của người H’mông Hà Giang nói riêng và người Việt Nam nói chung. Trong xã hội hiện đại vẫn cần sử dụng Tiếng hát về tình yêu l ứa đôi trong dân ca H’mông ở Hà Giang như một công cụ văn hoá giáo dục quan trọng. 1.4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 1.4.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chủ yếu là phần lời trong các bài hát dân ca H’mông Hà Giang nói về tình yêu đôi lứa . Luận văn tìm hiểu toàn bộ nội dung và những phương thức biểu hiện của các bài hát thuộc chủ đề đó . 1.4.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu Tư liệu về dân ca của người H’mông là tương đối phong phú, biểu hiện ở nhiều công trình. Nhưng với đề tài: Tiếng hát tình yêu lứa đôi trong dân ca Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 14 H’mông ở Hà Giang thì phạm vi khảo sát chính của chúng tôi là bộ phận dân ca nói về tình yêu đôi lứa của người H’mông ở Hà Giang, đó là về một phương diện của dân ca người H’mông ở một địa phương nhất định, do đó phạm vi khảo sát tương đối bó hẹp và có rất ít công trình nghiên cứu liên quan. Ngoài căn cứ chính là " Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam" (tập 17,18,19);Viện nghiên cứu Văn hóa - Viện Khoa học xã hội (2007), NXB Khoa học xã hội. Cụ thể tư liệu được sử dụng khai thác chủ yếu các lời ca trong văn bản Dân ca H’mông Hà Giang (tập 1,2,3) do nhà thơ Hùng Đình Quý sưu tầm và dịch . Bên cạnh đó đề tài có sử dụng một số công trình khác có liên quan. Các tư liệu này khi trích dẫn đều được chú thích rõ nguồn gốc, xuất xứ. 1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này là: 1.5.1. Tìm hiểu những tiền đề lí luận chung có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn.Tìm hiểu vai trò, vị trí của dân ca về tình yêu đôi lứa của dân tộc H’mông Hà Giang. 1.5.2. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng tôi là khảo sát những giá trị về nội dung và nghệ thuật của những bài dân ca của người H’mông ở Hà Giang viết về tình yêu đôi lứa, qua đó làm nổi bật những nét đặc sắc của những thể loại đó trong văn học dân gian Hà Giang nói riêng và văn học dân gian Việt Nam nói chung. 1.5.3. Từ tổng tập Dân ca Mông Hà Giang (tập 1,2,3) gồm 131 bài do Hùng Đình Quý chủ biên, theo bảy chủ đề lớn viết về tình yêu đôi lứa (Bài hát chào, hát mời ; Bài hát tỏ lòng ; Bài hát về nỗi nhớ ; Bài hát thở than, trách móc ; Bài hát ao ước, thề thốt ; Bài hát li biệt), chúng tôi đã tiến hành khảo sát, phân loại để lựa chọn ra những bài, những câu dân ca nói về nét đẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 15 trong tình yêu đôi lứa của dân ca H’mông Hà Giang cả về hình thức nghệ thuật và nội dung. 1.6. Phƣơng pháp nghiên cứu Mỗi một phương pháp nghiên cứu đều có những ưu, nhược điểm riêng. Bởi vậy, với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp là cơ bản: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Phương pháp nghiên cứu phân tích , tổng hợp, so sánh. Phương pháp điền dã. Từ phương pháp này , xuất phát từ thực tế mà chúng tôi tìm hiểu được them về môi trường sinh hoạt , phong tục tập quán , nếp cảm nếp nghĩ của người dân tộc H’mông Hà Giang để có thể lý giải được những tí n hiệu thẩm mỹ có trong những bài dân ca . 1.7. Đóng góp của luận văn Làm rõ hơn vẻ đẹp về phương diện nội dung và nghệ thuật của tiếng hát tình yêu đôi lứa trong dân ca H’mông Hà Giang. Khẳng đị nh thêm những nhận thức về giá trị và vẻ đẹp tâm hồn , vẻ đẹp văn hóa của người dân tộc H’mông Hà Giang thông qua những câu hát dân ca. Muốn góp th êm tiếng nói trong việc g ìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc để khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc trong nét đẹp của dân ca H’mông Hà Giang về tình yêu đôi lứa. Đây cũng là một ngh iên cứu có thể l àm tư liệu thiết thực cho giáo viên để giảng dạy cho học sinh trong những tiết văn học địa phương ở Hà Giang. 1.8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo,Phụ lục , nội dung của luận văn gồm ba chương: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 16 Chương 1: Cơ sở lý luận và vấn đề khảo sát thực tế dân ca H’mông Hà Giang. Chương 2: Nội dung cơ bản của tiếng hát tì nh yêu đôi lƣ́a trong dân ca H’mông Hà Giang. Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tiếng hát tì nh yêu đôi lƣ́a trong dân ca H’mông Hà Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 17 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VẤN ĐỀ KHẢO SÁT THỰC TẾ DÂN CA H’MÔNG HÀ GIANG 1.1. Nguồn gốc lị ch sƣ̉ của ngƣời H’mông Hà Giang Người H’mông ở nước ta nói chung và ở Hà Giang nói riêng tự gọi mì nh là Mông. Tộc danh đó cũng cũng dùng thống nhất cho người H’mông ở các nước khác như Trung Quốc , Thái Lan , Lào … Từ xa xưa người Hán đã gọi người H’mông là người Mèo – từ Mèo là âm Hán chỉ người H’m ông – một bộ lạc biết trồng lúa rất sớm ở vùng hồ Bàng Hải và hồ Động Đì nh (Trung Quốc). Theo truyền thuyết của những người già , xưa kia , dân tộc H’mô ng cũng có một quốc gia riêng với biểu tượng : Hình đôi sừng trâu và cờ mầu đỏ . Dấu ấn ấy vẫn còn đế n ngày nay (một số gia đì nh người H’mông Hà Giang vẫn treo miếng vải đỏ trước cửa nhà và hì nh bộ sừng trâu để làm chốt trên của cánh cửa chính mỗi nhà ). Vào khoảng thế kỷ thứ IX – XVI, các thế lực phong kiến Trung Quốc b ắt đầu mở rộng sự bành trướng về phương Nam . Người H’mông cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng của những cuộc bành trướng đó . Từ Tây Nam Trung Quốc , người H’mông di cư sang Việt Nam với ba thời kỳ đông nhất : Thời kỳ đầu tiên c ách đây khoảng trên 300 năm, họ từ Quý Châu sang Đồng Văn (Hà Giang). Thời kỳ này tương ứng với phong trào đấu tranh của người H’mông ở Quý Châu với nhà Minh Thanh . Thời kỳ thứ hai cách đây trên 200 năm, lần di cư này phù hợp vớ i phong trào khởi nghĩ a của người H’mông ở Quý Châu khi đã bị thất bại (1776-1892). Thời kỳ di cư thứ ba cách đây khoảng từ 120 năm đến 160 năm. Đây là cuộc di cư đông nhất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 18 của người H’mông sang Việt Nam . Hàng vạn người H’mông đ ã từ Trung Quốc di cư sang Hà Giang , Lào Cai, Yên Bái và khu tự trị Tây Bắc . Nguồn gốc của họ phần nhiều cũng ở Quý Châu , một số ở Vân Nam , Quảng Tây (Trung Quốc ). Thời kỳ này tương ứng với cuộc khởi nghĩ a của người H’mông hưởng ứng phong trào Thái bì nh thiên quốc đấu tranh chống triều đại Mãn Thanh, cuộc đấu tranh này kéo dài từ 1840 đến 1868 [64; 54]. Đến với Việt Nam , đến với vùng đất mới , nơi không có chiến tranh sắc tộc, người H’mông đã tìm thấy nguồn sống hứa hẹn nhiều ấm no . Với tinh thần cần cù lao động và sáng tạo , người H’mông đã biến nơi rừng núi hoang vu thành quê hương than yêu của mì nh , lưu niệm lại mảnh đất đầu tiên người H’mông đặt chân đến với đị a danh là Mèo Vạc (Hà Giang), đến nay vẫn còn lưu lại bài ca : "Cá bơi ở dưới nước Chim bay ở trên trời, Chúng ta sống ở vùng cao. Và con chim có tổ Người Mèo ta cũng có quê, Quê ta là Mèo Vạc" [44 ; 292]. Như vậy , Hà Gia ng chí nh là một trong những mảnh đất sinh sống đầu tiên của người H’mông Việt Nam . Dưới chế độ cũ, người H’mông ở Việt Nam nói chung và ở Hà Giang nói riêng cũng bị áp bức bóc lột , nhất là từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Là dân tộc yêu tha thiết cuộc sống , gắn bó máu thị t với từng tấc đất quê hương, đồng bào H’mông đã nhiều lần nổi dậy hưởng ứng những cuộc đấu tranh chung từ năm 1918 đến 1922 suốt dọc biên giới từ Lào Cai đến Hà Giang. Sau đó lan dần đến các tỉ nh phí a Tây Bắc như Sơn La , Lai Châu. Sau năm 1945, dưới ánh sáng cách mạng và theo lời kêu gọi của Đảng , của Bác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 19 Hồ, người H’ mông Hà Giang đã hòa vào không khí chung của cuộc kháng chiến chố ng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng với nhân dân cả nước . Ngày nay , dưới sự lãnh đạo của Đảng và chí nh phủ , đời sống đồng bào H’mông đã có nhiều thay đổi . Những truyền thống tốt đẹp được phát huy , những tập tục xấu b ị bài trừ . Người H’mông Hà Giang đang tiến bước trên con đường đổi mới của đất nước , cùng các dân tộc anh em đoàn kết xây dựng quê hương, bảo vệ vững chắc vùng đất biên cương của tổ quốc . 1.2. Điều kiện tự nhiên - xã hội - văn hóa của ngƣời Mông Hà Giang 1.2.1. Điều kiện tự nhiên Hà Giang - với tên gọi chính thức từ ngày 1/10/1991 (khi được tách ra từ tỉnh Hà Tuyên cũ ), với diện tích tự nhiên là 7.884,37 km2, dân số khoảng 724.353 người (theo số liệu điều tra ngày 1 tháng 4 năm 2009). Là một tỉnh miền núi cao, nằm ở cực Bắc của tổ quốc, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam và Quảng Tây - Trung Quốc với đường biên giới dài 274 km. Phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Từ thị xã Hà Giang đến thủ đô Hà Nội dài khoảng255 km theo đường chim bay. Hà giang nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Hà Giang về cơ bản vẫn mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc song lại có những đặc điểm riêng, mát mẻ và lạnh hơn các tỉnh Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh Tây Bắc. Hà Giang là nơi cư trú của trên 20 dân tộc anh em đoà n kết sinh sống bên nhau như H’mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô, Giáy, Bố Y, Pu Péo, Cờ Lao, Phù lá, Pà Thẻn, Kinh… (trong đó dân tộc H’mông có số dân đông nhất ). Hà Giang có 9 huyện và 1 thị xã, đó là Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Vị Xuyên, Băc Mê, Bắc Quang, Hoàng Su Phì , Xín Mần và thị xã Hà Giang . Hà Giang có độ cao trung bình từ 800 đến 1200m so với mực nước biển. Nơi cao nhất là đỉ nh Tây Côn Lĩ nh cao 2491m. Điều đặc biệt là Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 20 không rộng lắm nhưng mật độ tập trung các ngọn núi cao khá dày đặc . Điều này xác nhận rằng Hà Giang là tỉnh núi cao hùng vĩ và hiểm trở . Thổ nhưỡng của người dân tộc H’mông Hà Giang chủ yếu sống tập trung ở những khu vực núi cao, địa thế hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, họ có xu hướng đồng tộc mạnh và luôn có sức hút sống tập trung ở một số khu vực nhất định. Đặc điểm nổi bật trong thế ứng xử văn hoá với môi trường tự nhiên của người H’mông là luôn vượt khó khăn, linh hoạt và tạo ra khả năng thích ứng văn hoá cao với môi trường tự nhiên khắc nghiệt. Người H’mông cư trú ở bất cứ một trường nào đều tạo ra khả năng thích nghi một cách linh hoạt. Người H’mông ở các huyện phí a Bắc Hà Giang như Quản Bạ , Yên Minh , Đồng Văn , Mèo Vạc cư trú ở vùng núi đá đã canh tác trên loại hình nương thổ canh hốc đá. Các mảnh nương này nằm cheo leo trên các sườn núi đá vôi nhỏ hẹp, tiếng H’mông gọi là "Tế kho dế". Để bảo vệ đất khỏi xói mòn, đồng bào xếp đá be bờ. Tùy theo địa hình, xếp đá be bờ theo từng kiểu khác nhau. Ở những hốc đá đất ít, người H’mông nhặt các hòn đá xếp vào khe giữa các mô đá ngăn thành gờ nhỏ giữ đất cho từng hốc, từng mảnh đất nhỏ. Ở các vạt đất rộng, người H’mông dùng đá be thành các bờ dải giữ đất, chống xói mòn. Ở loại nương này, người H’mông dùng cuốc làm đất. Ở khu vực còn rừng già, người H’mông phát rừng làm nương rẫy tiếng H’mông gọi là "Tế giống". Loại nương dốc này dễ bị xói mòn nên người H’mông chỉ canh tác được vài ba vụ phải di chuyển luân canh. Tuy nhiên loại nương rẫy còn rất ít. Trên các sườn đồi nương thoai thoải, ít dốc người H’mông khai khẩn thành các nương bậc thang, tiếng H’mông gọi là "Tế kế đây". Nương bậc thang bề ngang hẹp nhưng tương đối bằng phẳng xung quanh nương đồng bào đắp bờ nhỏ để giữ ẩm, giữ nước mưa. Phía trên đường xẻ rãnh có hệ thống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2