intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến dự trữ ngoại hối Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

16
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích kiểm định các nhân tố tác động đến dự trữ ngoại hối Việt Nam bằng cách sử dụng phương pháp chuỗi thời gian trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 6 năm 2013. Hướng tiếp cận kiểm định được tiến hành bằng kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định đồng liên kết và mô hình VECM.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến dự trữ ngoại hối Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ------------ NGUYỄN NGỌC UYÊN PHƯƠNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DỰ TRỮ NGOẠI HỐI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ------------ NGUYỄN NGỌC UYÊN PHƯƠNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DỰ TRỮ NGOẠI HỐI VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TẤN HOÀNG TP. Hồ Chí Minh - năm 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN  Tôi xin cam đoạn đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ của Giảng viên hướng dẫn là TS.Nguyễn Tấn Hoàng Số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích có nguồn gốc và trích dẫn rõ ràng, được chính tác giả thu thập và xử lý. Các nội dung và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu phát hiện bất kì sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình. Tác giả Nguyễn Ngọc Uyên Phương
  4. MỤC LỤC  Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng biểu Tóm tắt ......................................................................................................................1 1. Giới thiệu...............................................................................................................3 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây .......................................................4 2.1.Mức độ linh hoạt của tỷ giá ............................................................................6 2.2. Các nhân tố thương mại và tài chính khác.....................................................9 3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................20 3.1. Phương pháp ................................................................................................20 3.2. Dữ liệu ........................................................................................................26 4. Kết quả nghiên cứu .............................................................................................32 4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị ............................................................................32 4.2. Kiểm định đồng liên kết ..............................................................................33 4.3.Mô hình VECM ............................................................................................37 5. Kết luận ...............................................................................................................49 Tài liệu tham khảo ...................................................................................................51 Phụ lục .....................................................................................................................54
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT  ADF Kiểm định Augmented Dickey – Fuller EIA Cơ quan Thông tin Năng lượng của Mỹ. Exstdev Sự biến động tỷ giá hối đoái lịch sử FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Tổng sản phẩm quốc nội IFS Ấn phẩm Thống kê tài chính quốc tế công bố bởi Quỹ tiền tệ quốc tế IMF Quỹ tiền tệ quốc tế IR Dự trữ ngoại hối JEDH The Joint External Debt Hub Kopen Sự mở cửa tài chính (Chỉ số Chinn-Ito) OLS Kiểm định bình phương nhỏ nhất Oilex Tỷ trọng xuất khẩu dầu ròng Stdebt Tỷ trọng nợ ngắn hạn Topen Sự mở cửa thương mại USD Đô la Mỹ VECM Mô hình Vectơ hiệu chỉnh sai số VND Việt Nam đồng Xvolatile Biến động xuất khẩu WEO Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU  Bảng 3.1 Thống kê tóm tắt đối với các biến được dùng trong kiểm định nghiệm đơn vị (quan sát theo năm) Bảng 3.2 Thống kê tóm tắt đối với các biến được dùng trong mô hình VECM (quan sát theo quý) Bảng 4.1: Kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình Bảng 4.2: Kết quả phương pháp VECM Hình 3.1. Biến động của các biến: IR, Topen, Oilex, Xvolatile, Kopen, Exstdev, Stdebt, M2 (2000-6/2013) Hình 4.1.Dự trữ ngoại hối Việt Nam (trừ vàng) qua các quý (triệu USD) Hình 4.2. Dự trữ ngoại hối/Nợ ngắn hạn của Việt Nam qua các quý (%) Hình 4.3. Độ biến động xuất khẩu của Việt Nam qua các quý Hình 4.3. Tỷ giá hối đoái của Việt Nam qua các tháng
  7. 1 TÓM TẮT Dự trữ ngoại hối đóng vai trò quan trọng việc đánh giá tiềm lực tài chính của một quốc gia. Hầu hết các quốc gia duy trì và quản lý dự trữ ngoại hối nhằm phục vụ các mục tiêu cơ bản như thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, duy trì tính thanh khoản của thị trường ngoại hối để hạn chế tác động tiêu cực trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính. Dự trữ ngoại hối giúp duy trì lòng tin về khả năng đảm bảo thanh toán nghĩa vụ nợ nước ngoài của nền kinh tế, khả năng hỗ trợ giá trị của đồng nội tệ, thể hiện khả năng đảm bảo tài chính của quốc gia, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đây cũng là nguồn dự trữ cho các trường hợp khẩn cấp và thảm họa mang tính quốc gia. Dự trữ ngoại hối trong một thập kỷ qua căn bản là một công cụ giải quyết những cú sốc trong thị trường tài chính. Rút ra bài học từ việc Thái Lan và Indonesia phải phá giá đồng tiền do không đủ dự trữ ngoại hối để chống lại sự tấn công của các quỹ đầu cơ và việc tháo vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong khủng hoảng châu Á 1997, nên dự trữ ngoại hối có xu hướng tăng mạnh từ năm 2000. Nguyên nhân của sự gia tăng dự trữ ngoại hối tại các thị trường mới nổi chính là quá trình toàn cầu hóa mở rộng giao thương giữa các quốc gia và lo ngại sự đảo chiều đột ngột của dòng vốn. Bởi các nước đang phát triển chủ động xây dựng dự trữ ngoại hối lớn để thu hút FDI và từ đó nguồn FDI lớn đến lượt nó làm tăng dự trữ ngoại hối của các nước. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích kiểm định các nhân tố tác động đến dự trữ ngoại hối Việt Nam bằng cách sử dụng phương pháp chuỗi thời gian trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 6 năm 2013. Hướng tiếp cận kiểm định được tiến hành bằng kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định đồng liên kết và mô hình VECM. Các nhân tố được xem xét bao gồm cả nhân tố thương mại và nhân tố tài chính. Nhân tố thương mại: sự mở cửa thương mại, xuất khẩu dầu ròng và biến động xuất khẩu. Nhân tố tài chính: chỉ số mở cửa thị trường vốn của Chinn-
  8. 2 Ito, biến động tỷ giá hối đoái, nợ ngắn hạn và cung tiền M2. Biến giải thích được quan sát theo quý. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến liên quan đến tài chính ảnh hưởng nhiều đến dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn này. Đề tài xác định được tầm quan trọng của dự trữ ngoại hối trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng như hiện nay.
  9. 3 1. GIỚI THIỆU Dự trữ ngoại hối là toàn bộ tài sản bằng ngoại hối sẵn sàng sử dụng để can thiệp, thể hiện trên bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Dự trữ ngoại hối là kết quả, là biểu hiện của sức mạnh của tiềm lực kinh tế quốc gia. Dự trữ ngoại hối được xem như một tấm chắn an toàn giúp cho nền kinh tế đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô và chống lại những tác động từ cú sốc bên ngoài, không lường trước được. Dự trữ ngoại hối có vai trò vô cùng quan trọng trong việc can thiệp thị trường ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Việc duy trì một mức dự trữ ngoại hối vừa đủ là cần thiết nhằm bảo vệ giá trị đồng nội tệ, hạn chế sự biến động quá mức của tỷ giá hối đoái, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, chống đỡ khủng hoảng kinh tế và tài chính. Do đó, việc hiểu rõ về dự trữ ngoại hối quốc gia là một điểu hết sức cần thiết. Dự trữ ngoại hối Nhà nước biểu hiện là tài sản nợ đối với nền kinh tế và là tài sản chung trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng nhà nước. Ở đó ngân hàng nhà nước được giao sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để tiến hành mua bán trên thị trường ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Dự trữ ngoại hối được sử dụng nhằm tài trợ cho sự mất cân bằng cán cân thanh toán hoặc gián tiếp tác động thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối giữ vai trò ngăn ngừa những biến động trong nguồn thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, cũng như chu chuyển quá lớn luồng vốn đối với một quốc gia. Dự trữ ngoại hối là một cơ sở cho việc phát hành đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền – hàng trong nước. Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại hối như là một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu theo kế hoạch. Đối với những nước mà đồng tiền tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ.
  10. 4 Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu theo kế hoạch. Sau khủng hoảng tài chính 1998, một số nước châu Á đã học được một bài học về quản lý dự trữ ngoại hối. Từ kinh nghiệm đó, các nước đã gia tăng nhanh chóng mức dự trữ ngoại hối của mình, và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Dự trữ ngoại hối quốc gia của Việt Nam trong những năm trước đây đã có một sự tăng vọt đáng kể. Tuy nhiên, sự gia tăng này chỉ được duy trì trong vài năm và lại sụt giảm vào thời điểm khoảng hơn một năm sau khủng hoảng tài chính tài chính toàn cầu. Thêm vào đó, mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ được xem ở mức chấp nhận được. Chế độ quản lý dự trữ ngoại hối còn tồn tại nhiều mặt hạn chế nhưng vẫn chưa được quan tâm khắc phục. Đứng trước sự mở cửa, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và tiềm năng phát triển kinh tế ngày một mạnh hơn, đặc biệt là sau giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đòi hỏi Việt Nam phải có một mức dự trữ ngoại hối an toàn và tối ưu. Do đó đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự trữ ngoại hối Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 6 năm 2013, bằng cách sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định đồng liên kết và VECM với dữ liệu chuỗi thời gian, để trả lời hai câu hỏi: (1) Các nhân tố nào tác động đến dự trữ ngoại hối Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2013? (2) Mức độ biến động của các biến kinh tế vĩ mô đến dự trữ ngoại hối Việt Nam? Phần còn lại của đề tài bao gồm các nội dung sau: Phần 2 trình bày tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây. Phần 3 giới thiệu về phương pháp nghiên cứu kiểm định nghiệm đơn vị, mô hình đồng liên kết và mô hình VECM đồng thời trình
  11. 5 bày cách thu thập dữ liệu để tiến hành kiểm định. Phần 4 nêu những kết quả nghiên cứu. Và kết luận được trình bày ở nội dung cuối cùng ở phần 5.
  12. 6 2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY Có rất nhiều nghiên cứu trước đây về nhân tố tác động đến dự trữ ngoại hối ở một số quốc gia với nhiều khoảng thời gian khác nhau. Các tác giả nghiên cứu nhiều về nhân tố tỷ giá hối đoái với nhiều bài viết riêng và chuyên sâu. Các nhân tố thương mại và tài chính khác được xây dựng kết hợp với nhau khi xét đến sự tác động đến dự trữ ngoại hối của các quốc gia. 2.1.Mức độ linh hoạt của tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ vừa biểu hiện quan hệ cung cầu của ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Nội dung chính của chính sách tỷ giá bao gồm: -Hành vi phá giá nội tệ: tức là những can thiệp của chính phủ để đồng nội tệ trở nên được định giá thấp hơn. Để đạt được mục đích này, chính phủ có thể sử dụng dự trữ ngoại hối hấp thụ ngoại tệ trên thị trừơng ngoại hối nhằm làm giảm cung ngoại tệ đồng thời “bơm” nội tệ ra, động thái này sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối. -Hành vi nâng giá nội tệ, tức là những can thiệp của chính phủ để đồng nội tệ trờ nên định giá cao hơn. Chính phủ có thể bán ngoại tệ ra thị trường ngoại hối nhằm tăng cung ngoại tệ, giảm lượng nội tệ, động thái này sẽ làm giảm dự trữ ngoại hối. -Hành vi duy trì tỷ giá ở một mức độ nhất định, bao gồm những can thiệp của chính phủ để duy trì tỷ giá là ổn định không đổi, để có thể duy trì một tỷ giá cố định, chỉnh phủ không ngừng mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, điều này làm thay đổi quy mô dự trữ ngoại hối. -Không can thiệp, để cho tỷ giá biến động tự do theo quan hệ cung cầu thị trường. Với chính sách này, Nhà nước không cần thiết sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào tỷ giá chính vì thế dự trữ ngoại hối không bị ảnh hưởng.
  13. 7 Tính linh hoạt cao hơn làm giảm nhu cầu dự trữ, bởi vì Ngân hàng nhà nước không cần lớn hơn một lượng dữ trữ lớn để quản lý tỷ giá cố định. Khi đó, tỷ giá hối đoái trên thị trường sẽ tự nó điều tiết và quay về trạng thái cân bằng. Những nước theo đuổi chế độ tỷ giá cố định cần nắm giữ một lượng lớn dự trữ ngoại hối để duy trì tỷ giá ở mức đã định. Nếu dự trữ ngoại hối quá mỏng, khả năng ổn định tỷ giá của ngân hàng trung ương trở nên khó khăn và xảy ra nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ như cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997. Những nước theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi cần một lượng dự trữ ngoại hối ít hơn. Trên thực tế sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood vào đầu những năm 70, một số nước chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi nhưng dự trữ ngoại hối lại không giảm mạnh như những người ủng hộ chế độ tỷ giá thả nổi mong đợi. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khi chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi nhu cầu nắm giữ dự trữ ngoại hối giảm khoảng 30% đối với các nước công nghiệp, nhưng đối với các nước đang phát triển, nhu cầu dự trữ khó có thể giảm. Theo họ mặc dù những nước này theo chế độ tỷ giá thả nổi nhưng thực chất tỷ giá cũng bị kiểm soát khá nhiều, do vậy ngân hàng trung ương vẫn cần nắm giữ dự trữ ngoại hối. Mặt khác, sự biến động của tỷ giá danh nghĩa cũng là một nhân tố không thể giảm nhu cầu nắm giữ dự trữ ngoại hối của những nước này. Calvo và Reinhart (2001) quan sát thấy rằng các nước đang phát triển dường như dự trữ ngoại hối biến động nhiều hơn so với biến động tỷ giá hối đoái. Điều này có nghĩa là một đất nước trải qua biến động tỷ giá, các cơ quan có thẩm quyền sử dụng dự trữ ngoại hối của họ để can thiệp vào thị trường ngoại hối với mục đích làm giảm sự biến động tỷ giá hối đoái. Điều này do đó, cho thấy dự trữ ngoại hối và tỷ giá hối đoái như có một mối quan hệ lâu dài. Kết quả thực nghiệm gần đây về vấn đề này rất phức tạp. Flood và Marion (2002) và Aizenman và Marion (2002, 2004) cho thấy rằng sự bất ổn của tỷ giá hối đoái danh nghĩa có hiệu quả làm giảm đáng kể mức dự trữ, cho thấy rằng sự linh hoạt tỷ giá lớn làm giảm nắm giữ dự trữ. Mặt khác, Lane và Burke (2001) nghiên cứu 102 quốc gia trong giai đoạn 1981 - 1995, và tìm thấy không có mối quan hệ
  14. 8 đáng kể giữa các chế độ tỷ giá hối đoái và mức độ dự trữ. Changkyu Choi và Seung-Gwan Baek (2007), “Chế độ tỷ giá hối đoái và dự trữ quốc tế”. Một trong những vấn đề chưa được giải quyết trong tài chính quốc tế là chế độ tỷ giá hối đoái và dự trữ quốc tế. Lý thuyết cho thấy rằng các nước với tỷ giá hối đoái cố định hoặc quản lý nhiều nên tổ chức dự trữ nhiều hơn để bảo vệ các giá trị tiền tệ của họ hơn so với các nước có chế độ linh hoạt hơn. Tuy nhiên, lý thuyêt chuẩn này không được hỗ trợ bởi tất cả các kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu trước đó. Hơn nữa, như các nước đã chuyển từ chế độ tỷ giá hối đoái cố định sang thả nổi và cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1990, nắm giữ dự trữ thế giới đã tiếp tục tăng lên.Trong bài báo này, chúng tôi thực nghiệm kiểm tra lại mối quan hệ giữa chế độ tỷ giá hối đoái và nắm giữ dự trữ quốc gia với các dữ liệu cập nhật và sắp xếp mới của tỷ giá hối đoái phát triển bởi Reinhart và Rogoff (2004). Tác giả sử dụng cách phân loại mới các thỏa thuận về tỷ giá hối đoái phát triển bởi Reinhart và Rogoff (2004) để kiểm tra xem sự suy giảm dự trữ với sự linh hoạt của tỷ giá hối đoái. Sử dụng dữ liệu tổng hợp cho 127 quốc gia trong giai đoạn 1980-2000, nghiên cứu tìm thấy nhiều kết quả mới. Đầu tiên, mức độ linh hoạt của tỷ giá hối đoái có một mối quan hệ ngược với nắm giữ dự trữ của đất nước. Chế độ tỷ giá hối đoái với sự linh hoạt trung gian cần dự trữ nhiều hơn so với chế độ cực (cố định (peg) và thả nổi tự do). Thứ hai, dự trữ nắm giữ nhỏ đối với chế độ cố định so với thả nổi, ngụ ý rằng hiện nay các kho dự trữ lớn dự trữ ở các nước Đông Á có thể được giảm đáng kể nếu họ áp dụng một đồng tiền chung Nghiên cứu cũng thống kê lại các nghiên cứu của một số tác giả trước về vấn đề này. Nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa chế độ tỷ giá hối đoái và dự trữ quốc tế nắm giữ tập trung chủ yếu vào việc kiểm tra xem liệu có một sự thay đổi trong dự trữ hành vi tháng ba năm 1973 khi hệ thống tiền tệ quốc tế chuyển từ một hệ thống cố định sang một chế độ tỷ giá thả nổi. Williamson (1976) trình bày những nỗ lực đầu tiên để kiểm tra và không tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ bất kỳ sự khác biệt giữa việc sử dụng dự trữ quốc gia trong trước và sau-1973. Một số nghiên cứu
  15. 9 khác đã lưu ý rằng các quốc gia không thể hành xử theo cùng một cách với nhu cầu của họ để dự trữ ngay cả dưới một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định. Edwards (1983) chia 41 quốc gia phát triển thành hai nhóm: thứ nhất là duy trì một tỷ giá hối đoái cố định trong thời gian 1964 – 1972, và lần thứ hai có phá giá ít nhất 10% trong thời gian này. Các kết quả tính toán chứng minh rằng các quốc gia có mức độ giảm giá trung bình dự trữ ít hơn so với các nước có lãi suất cố định, cho thấy rằng các nước với chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt yêu cầu dự trữ nhỏ hơn. 2.2.Các nhân tố thương mại và tài chính khác: Mức độ mở cửa của nền kinh tế Các nhà phân tích kinh tế cho rằng, một nền kinh tế càng mở cửa càng cần lượng dự trữ ngoại hối lớn hơn. Đúng như vậy, trong bối cảnh hiện nay khi mà quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, một quốc gia không thể phát triển nếu như chỉ bó hẹp hoạt động của mình trong phạm vi quốc gia mà phải thiết lập các mối quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xă hội. Ngoại hối là một phương tiện thiết yếu trong các quan hệ quốc tế đó, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Chính bởi vậy, các quốc gia đều phải có dự trữ ngoại hối để đảm bảo thực hiện các quan hệ quốc tế. Trên thực tế người ta tính dự trữ ngoại hối của một nước dựa trên quy mô thương mại quốc tế của nước đó. Mức độ tự do hóa thương mại và tự do hóa chu chuyển Tự do hóa thương mại càng cao càng đòi hỏi dự trữ ngoại hối càng lớn, bởi vì khi môi trường kinh tế bên ngoài thay đổi sẽ dễ gây ra những mất cân đối lớn trong cán cân thương mại. Nhưng khi những kiểm soát về xuất nhập khẩu bị dỡ bỏ, các nước cần phải duy trì một lượng dự trữ ngoại hối nhằm mục đích dự phòng. Ảnh hưởng của việc tự do hóa luồng vốn sẽ không rõ ràng bởi vì một mặt, tự do hóa chu chuyển vốn có thể tăng khả năng tài trợ mất cân đối của cán cân vãng lai của khu vực tư nhân và do vậy sẽ giảm nhu cầu tài trợ cán cân vãng lai của khu vực chính phủ, do đó giảm nhu cầu nắm giữ dự trữ ngoại hối. Mặt khác, khi tự do hóa chu chuyển vốn, các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào trong nước và các nhà đầu tư trong nước có thể chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong điều kiện này,
  16. 10 việc ổn định luồng vốn là việc khó khăn, ngân hang trung ương có thể phải nắm giữ một lượng dự trữ ngoại hối lớn hơn để can thiệp khi cần thiết trong ngắn hạn. Tỷ lệ giữa nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối Tỷ số của dự trữ trên nợ nước ngoài ngắn hạn đo lường khả năng của một nước trong việc trả các khoản nợ nước ngoài vào những năm sắp tới, nếu những điều kiện tài trợ nước ngoài giảm đi một cách đột ngột. Nghĩa là dự trữ ngoại hối cho phép một quốc gia tồn tại một cách thoải mái trong điều kiện không có khoản vai mượn nước ngoài đến 1 năm. Theo quy tắc của Greenspan- Guidotti, phần tử số biểu thị một nước nắm giữ mức dự trữ thích hợp để đối mặc với rủi ro tài chính, trong khi phần mẫu số cho thấy một tài khoản vốn vốn dễ bị tổn thương (Greenspan,1999 và BIS 2000). Nếu dự trữ ngoại hối vượt quá nợ ngắn hạn thu vào năm sắp đến một nước có thể đủ khả năng trả các món nợ nước ngoài tới hạn. Thêm vào đó, tiêu chí này cũng có thể cho thấy khả năng đối phó của quốc gia khi có hiện tượng tấn công ngoại tệ hoặc rút tiền ra nước ngoài. Nếu như tỷ lệ giữa tổng nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối quá thấp thấp trong trường hợp xảy ra khủng hoảng về vốn, các ngân hàng không thiện chí cho gia hạn nợ ngắn hạn, dự trữ ngoại hối sẽ không đủ để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn chứ không nói là trả được các khoản nợ lãi và gốc đến hạn của các khoản vay trung và dài hạn trong kỳ đó. Do vậy, vấn đề quan trọng là phải duy trì dự trữ ngoại hối ở mức phù hợp trong mối liên hệ với nợ nước ngoài ngắn hạn. Điển hình như trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 cho thấy đây là cuộc khủng hoảng cán cân vốn chứ không phải khủng hoảng cán cân vãng lai. Thái Lan đã thu hút một lượng vốn nược ngoài để tài trợ thâm hụt cán cân vãng lai nhưng cơ cấu tài trợ tỏ ra không hợp lý, vốn ngắn hạn chiếm khoảng trên 30% tổng luồng vốn vào và ra vì vậy rủi ro của việc rút vốn đột ngột đã đặt ngân hàng trung ương Thái Lan trong tình thế phải dùng dự trữ để ổn định tỷ giá hối đoái. Nhưng do dự trữ ngoại hối quá mỏng nên không đủ để thanh toán.
  17. 11 Mức cung tiền rộng Một chỉ báo thông thường được sử dụng là tỷ số của dự trữ ngoại hối trên mức cung tiền rộng (M2). Phạm vi thông thường cho tỷ số này là từ 5-20%. Lý do căn bản cho tỷ số này là tiền rộng phản ánh rủi ro của một quốc gia khi rút tài sản từ nguồn trong nước vào dự trữ ngoại hối (Calvo, 1996; De Beaufort-Wijnholds and Kapteyn, 2001). Một nhu cầu tiền không ổn định hay một hệ thống tài chính nghèo nàn cho thấy một cơ hội lớn hơn cho việc đào thoát vốn. Trong trường hợp này, tỷ số dự trữ trên mức cung tiền rộng là một chỉ tiêu thích hợp. Tỷ lệ thấp hay sụt giảm được xem như một cảnh báo sớm cho khủng hoảng tiền tệ. Tiêu chí này còn cho thấy khả năng can thiệp tỷ giá hối đoái của ngân hàng trung ương. Tỷ lệ từ 10% đến 20% được coi là đủ dự trữ ngoại hối. Các tỷ số được trình bày ở đây chỉ có thể được dùng để đánh giá tính thích hợp của mức dự trữ ngoại hối tại một nước. Chúng không cung cấp một mức dự trữ ngoại hối tối ưu đối với đặc điểm của từng quốc gia. Do đó, cần có những quan sát và phương pháp nhất định để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối và từ đó xác định được mức dự trữ ngoại hối cần thiết cho quốc gia. Nghiên cứu thực nghiệm các nhân tố Aizenman, J., và Marion, N. (2004) “Nắm giữ dự trữ ngoại hối với rủi ro chủ quyền và thuế”. Những tác động của nợ nước ngoài và dòng vốn vào việc tổ chức dự trữ quốc tế đã nhận được sự chú ý đáng kể sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Trong khi dòng vốn có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách bổ sung tiết kiệm trong nước hoặc trung gian tài chính và nâng cao hiệu quả của các thị trường tài chính trong nước, vốn đột ngột đảo chiều dòng chảy có thể tàn phá nền kinh tế, gây ra một cuộc khủng hoảng, và gây thiệt hại đáng kể sản lượng. Nói chung, phát triển nền kinh tế với các ngành dòng vốn tài chính không hiệu quả và chưa “trưởng thành” dễ bị tác động khi đảo chiều vốn. Do đó, hình thành các nền kinh tế có trình độ cao tiếp xúc với tài chính bên ngoài, dù là nợ, FDI, hoặc dòng danh mục đầu tư, nên giữ một mức độ cao về dự trữ quốc tế để giảm thiểu rủi ro của
  18. 12 mình trong cuộc khủng hoảng tài chính và thúc đẩy sự tự tin bằng các đồng tiền của chính họ. Ana Maria Romero (2005) “Nghiên cứu so sánh: Các yếu tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc và Ấn Độ”. Bài nghiên cứu thực nghiệm sự tích lũy dự trữ ngoại hối của Trung Quốc và Ấn Độ. Đặc biệt, tập trung vào các yếu tố quyết định của chính sách dự trữ ngoại hối từ năm 1980 đến năm 2003, số liệu thực hiện kiểm định được thu thập theo quý. Sự tích lũy dự trữ ngoại hối ở Ấn Độ được giải thích tốt nhất là biến động tỷ giá và mức độ mở của nền kinh tế. Tác động của các cú sốc sau một thời gian, chẳng hạn như phá giá đồng tiền, và các cú sốc về cơ cấu, chẳng hạn như tự do hóa thương mại, được kiểm định trong phương trình. Biến độc lập thay thế cũng được thử nghiệm. Các yếu tố thúc đẩy tích lũy dự trữ ngoại hối tại Trung Quốc vẫn là một câu đố. Yin-Wong Cheung và Hiro Ito (2007) “Phân tích thực nghiệm dự trữ ngoại hối ở một số quốc gia”. Sử dụng dữ liệu từ hơn 100 nền kinh tế trong giai đoạn 1975-2004, nhóm tác giả tiến hành phân tích thực nghiệm các yếu tố quyết định nắm giữ dự trữ quốc tế. Bốn nhóm yếu tố quyết định, cụ thể là, các biến vĩ mô truyền thống, các biến tài chính, các biến thể chế, và các biến giả kiểm soát những đặc điểm nền kinh tế của từng quốc gia được xem xét. Tác giả thấy rằng mối quan hệ giữa dự trữ quốc tế và các yếu tố của họ là khác nhau giữa các nền kinh tế phát triển và đang phát triển và không ổn định theo thời gian. Kết quả ước lượng cho thấy, đặc biệt là trong thời gian gần đây, một nền kinh tế phát triển có xu hướng giữ một mức độ thấp hơn so với dự trữ quốc tế của nền kinh tế đang phát triển. Hơn nữa, có bằng chứng các nền kinh tế Đông Á bao gồm cả Trung Quốc và Nhật Bản đang tích trữ một số tiền quá nhiều dự trữ quốc tế. Việc nắm giữ dự trữ ngoại hối hiện nay là ngày càng nhạy cảm với các giao dịch tài khoản vốn do toàn cầu hóa tài chính tiếp tục diễn ra trong các thị trường vốn quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cũng biểu thị tầm quan trọng của kỳ vọng, uy tín chính sách và cơ cấu thể chế trong việc xác định mức độ phù hợp của dự trữ ngoại hối. Một trong những tính năng độc đáo của cuộc khủng hoảng tài
  19. 13 chính châu Á là một số nền kinh tế trong khu vực đã được tích lũy dự trữ quốc tế với tốc độ đáng kinh ngạc sau những hậu quả của sự kiện này. Những năm đầu của thế kỷ 21 đã chứng kiến sự tăng trưởng chưa từng có dự trữ ngoại hối toàn cầu - một tốc độ tăng trưởng hơn 89,2% từ năm 2000 đến năm 2004, được thúc đẩy bởi một số ít các nền kinh tế. Trong giai đoạn này, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Đài Loan đã tăng nắm giữ dự trữ quốc tế của họ bằng 262 %, 133%, 107%, 124% và 126%. Trong nghiên cứu này, tác gỉả sắp xếp các nền kinh tế thành hai nhóm, các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, và nghiên cứu các yếu tố quyết định nhu cầu dự trữ quốc tế. Có bằng chứng rằng các mô hình nắm giữ dự trữ quốc tế đã bị ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của cuộc khủng hoảng nợ trong những năm 1980, và cuộc khủng hoảng Tequila và cuộc khủng hoảng châu Á trong những năm 1990. Trong số các yếu tố quyết định dự trữ ngoại hối, tác giả nhận thấy xu hướng nhập khẩu, đại diện cho mở cửa thương mại, là yếu tố duy nhất đó là quan trọng trong hầu hết các thông số kỹ thuật và các mẫu được xem xét. Tuy nhiên, độ giải thích của nó giảm dần theo thời gian cho cả nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Mặt khác, khả năng giải thích của các biến tài chính (như cung tiền M2), đặc biệt là những liên quan đến tài chính bên ngoài, đã được gia tăng theo thời gian. Aizenman và Yi Sun (2010) “Khủng hoảng tài chính và sự suy giảm lớn nguồn dự trữ ngoại hối: Từ nỗi lo về tỷ giá hối đoái thả nối đến nỗi lo sợ mất nguồn dự trữ ngoại hối”. Nghiên cứu mức độ mà các thị trường mới nổi (EMs) tự điều chỉnh trong cuộc khủng hoảng thanh khoản toàn cầu bằng cách hạ thấp dự trữ ngoại hối. Mẫu gồm 22 quốc gia thị trường mới nổi trong cuộc khủng hoảng 2008 -2009, với các nhân tố được xem xét sự mở cửa thương mại, xuất khẩu sản phẩm sơ cấp, xuất khẩu dầu ròng, biến động xuất khẩu, chỉ số mở cửa tài chính, biến động tỷ giá và nợ ngắn hạn. Phương pháp sử dụng hồi quy dữ liệu chéo OLS, Robust OLS và hồi quy dữ liệu bảng OLS, Fix và Random Effect. Nhìn chung, tác giả tìm thấy một
  20. 14 bức tranh hỗn hợp và phức tạp. Chỉ có khoảng một nửa các nước cắt giảm dự trữ của họ như là một phần của cơ chế điều chỉnh. Các yếu tố liên quan đến thương mại (như mở cửa thương mại, tỷ số xuất khẩu hàng hóa sơ cấp, đặc biệt là xuất khẩu dầu) dường như đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích cho mức dự trữ ngoại hối trước khủng hoảng của các nước đã trải qua một sự suy giảm đáng kể dự trữ trong giai đoạn đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Ngoài ra nghiên cứu còn nhận thấy rằng mức dự trữ ngoại hối lớn trong khoảng thời gian trước khủng hoảng liên quan tới sự sụt giảm dự trữ lớn trong suốt thời kỳ khủng hoảng. Mức dự trữ ngoại hối trước khủng hoảng cao khuyến khích các quốc gia chi sử dụng nhiều dự trữ trong khủng hoảng để hấp thụ các cú sốc bên ngoài (và các quốc gia đối diện với những mất mát dự trữ lớn trong quá trình kiểm soát khủng hoảng, có lẻ đưa ra một giả thuyết để tích lũy nhiều dự trữ hơn sau khủng hoảng) Tác giả tiếp tục phân mẫu này thành 2 nhóm: những quốc gia mất dự trữ ngoại hối nhiều và nhóm các quốc gia không mất hoặc nhanh chóng phục hồi mất mát dự trữ. Tác giả định nghĩa nhóm đầu tiên là những quốc gia mất ít nhất 10% dự trữ trong khủng hoảng. Những kết quả chỉ ra rằng cả những nhân tố tài chính và nhân tố thương mại đều quan trọng trong việc giải thích cho sự tích lũy dự trữ trước khủng hoảng. Tuy nhiên những yếu tố này có mức ảnh hưởng khác nhau giữa 2 nhóm. Với những quốc gia trải qua sự sụt giảm dự trữ ngoại hối nhiều, nhân tố thương mại thể hiện những tín hiệu mong đợi phù hợp với kết quả hồi quy. Các quốc gia với những khu vực thương mại tương đối rộng lớn hơn, những quốc gia chỉ số xuất khẩu sản phẩm sơ cấp lớn, và những quốc gia đã đối mặt với những cú sốc thương mại lớn thì tích lũy nhiều dự trữ ngoại hối hơn. Mặt khác, các nhân tố tài chính, có ý nghĩa nhiều hơn cho nhóm 2 - những quốc gia không mất nhiều dự trữ ngoại hối. Một giải thích khả thi là các quốc gia hấp thụ nguy cơ lớn từ những cú sốc thương mại trước cuộc khủng hoảng hiện tại đã chọn lựa việc cắt giảm tương đối
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2