intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

88
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về chuyển giao công nghệ, thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian qua; guan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ -------*****------ HOÀNG VĂN CƯƠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ -------*****------- HOÀNG VĂN CƯƠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ DANH TỐN HÀ NỘI - 2005
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng lớn trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Vì vậy, đối với những nước chậm phát triển, muốn tiến kịp những nước phát triển phải nhanh chóng nâng cao năng lực khoa học và trình độ công nghệ, nắm bắt và làm chủ các tri thức mới để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đi tắt vào kinh tế tri thức. Sau gần 20 năm đổi mới, nước ta đã giành được những thành tựu to lớn và rất quan trọng làm cho thế và lực của đất nước mạnh lên nhiều. Cùng với quá trình phát triển đất nước, khoa học và công nghệ nước ta đã có những bước tiến tích cực, lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành một bước và có nhiều cố gắng thích nghi với cơ chế mới, có khả năng tiếp thu, làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trên một số ngành và lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, nền khoa học và công nghệ nước ta còn có khoảng cách khá xa so với các nước phát triển, chưa tạo ra được những năng lực khoa học và công nghệ cần thiết để thực sự trở thành nền tảng và động lực cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng phát triển khoa học và công nghệ của nước ta đến năm 2010 là: “Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào chuyển giao công nghệ, tiếp thu, làm chủ công nghệ mới; đặc biệt lựa chọn những công nghệ cơ bản, có vai trò quyết định đối với nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành, tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả phát triển của nền kinh tế ”. Chuyển giao công nghệ là một khái niệm mới xuất hiện trong mấy thập niên gần đây, nhưng đã nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trên -1-
  4. toàn cầu, đặc biệt là đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Việt Nam. Việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, chiến lược làm như thế nào để nâng cao hiệu quả trong việc tiếp nhận và ứng dụng công nghệ tiên tiến nước ngoài vào sản xuất trong nước cũng như việc triển khai đưa công nghệ trong nước vào thực tiễn sản xuất ở từng ngành, từng lĩnh vực và từng khâu trong quy trình hoạt động sản xuất được coi là khâu then chốt bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Với những yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn như trên, việc tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề: “Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” là hết sức cần thiết và tôi chọn đó làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Chuyển giao công nghệ là một vấn đề được nhiều nhà hoạch định chính sách, nhiều cơ quan và các nhà kinh tế trong nước và quốc tế quan tâm. Trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề chuyển giao công nghệ, cụ thể như: - Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia: “Khoa học công nghệ thế giới – Xu thế và chính sách những năm đầu thế kỷ XXI”, Hà Nội, 2003. - GS.TS. Vũ Đình Cự (chủ biên): “Khoa học và công nghệ hướng tới thế kỷ XXI - Định hướng và chính sách ”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - TS. Lê Văn Hoan: “Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường vào Việt Nam”, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. - PGS.TS. Đàm Văn Nhuệ và TS. Nguyễn Đình Quang: “Lựa chọn công nghệ thích hợp ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. - TS. Đặng Kim Nhung: “Chuyển giao công nghệ trong kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam”, Nxb. Nông nghiệp, 1994. -2-
  5. - TS. Nguyễn Văn Phúc: “Chuyển giao công nghệ và quản lý công nghệ”, Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà Nội, 1998. - TS. Nguyễn Văn Phúc (chủ biên): “Quản lý đổi mới công nghệ”, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002. Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về chuyển giao công nghệ ở Việt Nam, nhưng về cơ bản, các giải pháp đưa ra nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam được xem xét trong khuôn khổ tiến trình phát triển khoa học và công nghệ hoặc trong những giải pháp tăng trưởng và phát triển kinh tế chung của đất nước. Do mục đích, đối tượng, phạm vi và thời điểm nghiên cứu khác nhau, đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt Nam thì việc nghiên cứu vấn đề chuyển giao công nghệ cả về thực trạng lẫn giải pháp là rất cần thiết. Chuyển giao công nghệ luôn là một vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn. Đó là một ẩn số cho các quốc gia chậm phát triển tiến kịp tới sự phát triển kinh tế của các quốc gia phát triển khác. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của Luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu này, tác giả đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển giao công nghệ; - Đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay; - Trên cơ sở các phân tích trên, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam * Phạm vi nghiên cứu: -3-
  6. - Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay, đây được coi là mốc thời gian mà nhiều chuyên gia đánh giá là mở đầu thời kỳ hoạt động chuyển giao công nghệ có hệ thống. - Về không gian: Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Về nội dung: Vấn đề đặt ra được đề cập từ hai góc độ: Chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài vào Việt Nam; chuyển giao công nghệ ngay từ các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của Việt Nam vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội cho nhân dân. 5. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của Luận văn, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp: phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích dự báo… trong quá trình nghiên cứu. 6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ. - Phân tích hoạt động chuyển giao công nghệ của một số nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay để từ đó thấy được những mặt còn tồn tại và hạn chế trong quá trình chuyển giao công nghệ trong thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về chuyển giao công nghệ -4-
  7. Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian qua Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ 1.1. Lý luận chung về chuyển giao công nghệ 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Công nghệ Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khác của quá trình sản xuất kinh doanh theo một lôgíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá trình sản xuất – kinh doanh nào. Ngay trong quá trình cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực phi vật chất, thậm chí trong các hoạt động công cộng, người ta cũng nói tới công nghệ – công nghệ triển khai, cung cấp các dịch vụ và tiến hành các hoạt động. Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, dựa trên những căn cứ khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ dùng trong sản xuất và được hiểu là “phương pháp công nghệ”, tức là những phương pháp sản xuất sản phẩm, được mô tả qua những quy trình được trình bày dưới các hình thức bản vẽ, sơ đồ, biểu, bảng. Một khái niệm khác cũng được dùng trong mối quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật – bao gồm toàn bộ các phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất… phục vụ cho sản xuất. Như vậy, khái niệm công nghệ hiểu theo nghĩa hẹp này được định nghĩa hoàn toàn độc lập với khái niệm kỹ thuật (theo nghĩa là các phương tiện kỹ thuật). Tuy rằng các phương pháp này cũng luôn được gắn với những thiết bị, công cụ nhất định, thậm chí có cả những thiết bị đặc trưng gắn với từng chuyển giao công nghệ, nhưng chúng thường không được coi là bộ phận hợp thành của công nghệ. Về sau, khái niệm công nghệ được sử dụng trong cả lĩnh vực cung cấp hàng hóa, dịch vụ và gần đây cả trong quản lý. -5-
  8. Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái niệm công nghệ đã được mở rộng: Công nghệ là tập hợp của tất cả các phương pháp sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ thuật cần thiết để thực hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới hạn trong quá trình sản xuất, mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá trình sản xuất trực tiếp (trong các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân phối, lưu thông hàng hóa…). Với định nghĩa này, cả hai khái niệm “ công nghệ ” và “kỹ thuật” theo nghĩa hẹp đã được liên kết lại với nhau. Người ta xem phương pháp và quy trình công nghệ là yếu tố “phần mềm” của công nghệ, còn thiết bị, máy móc và các công cụ sản xuất là “phần cứng” của công nghệ. Từ sau 1980, đặc biệt từ sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở rộng hơn. Nó được định nghĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình, máy móc, thiết bị cần dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các kiến thức, hiểu biết, kỹ năng, thông tin cũng như các phương thức tổ chức mà con người cần áp dụng để sử dụng những phương pháp, phương tiện đó. Theo định nghĩa này, công nghệ được chia thành 4 yếu tố: Phần cứng (các phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất…); phần mềm (các phương pháp, quy trình sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ); phần tổ chức (kết cấu hệ thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ chế vận hành của hệ thống đó); và phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức, thông tin mà người lao động và cán bộ quản lý các cấp cần có để sử dụng được công nghệ). Gần đây, một số tác giả còn coi công nghệ phải bao gồm cả năng lực tiềm tàng của tổ chức sản xuất – kinh doanh và dịch vụ trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho xã hội. “ Công nghệ là tổng hợp những năng lực nội tại, cở sở vật chất, kỹ năng, hiểu biết và tổ chức cần thiết để có thể tạo ra được những sản phẩm hoặc dịch vụ có ích cho xã hội ”. Công nghệ là một khái niệm động, thay đổi cùng với sự phát triển của tiến bộ khoa học – công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện nó đã bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể được tiếp tục mở rộng. -6-
  9. Công nghệ là một hàng hóa được mua bán trên thị trường công nghệ. Thị trường công nghệ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi công nghệ. Việc mua bán công nghệ thông qua con đường đầu tư nước ngoài là một trong những kênh phổ biến. Bên cạnh đó còn có những kênh khác như tiến hành mua bán trực tiếp giữa các công ty với nhau, hoặc có thể phổ biến công nghệ không thông qua con đường thương mại. Để cho việc chuyển giao công nghệ được hiệu quả cần nắm được thuộc tính cơ bản của công nghệ. Các thuộc tính này quy định và ảnh hưởng trực tiếp tới việc mua, bán, trao đổi và sử dụng công nghệ. Công nghệ có những thuộc tính sau đây: Một là, công nghệ có tính hệ thống: Điều này có nghĩa là không thể đánh giá công nghệ thông qua các thành phần riêng lẻ. Ví như mua được máy móc hiện đại không có nghĩa là có được công nghệ hiện đại để sản xuất sản phẩm mong muốn. Vì thế, các yếu tố cấu thành công nghệ có mối quan hệ hữu cơ và đồng bộ để tạo ra sự gắn kết trong hệ thống. Từng yếu tố cũng không phải là phép tính cộng giản đơn các thành phần của nó mà là các yếu tố cấu thành của hệ thống, với các mối tương quan chặt chẽ về không gian và thời gian, trình tự và điều kiện vận hành. Chỉ khi công nghệ được đổi mới, tức là ít nhất có một giải pháp nào đó được thay thế bằng một giải pháp tốt hơn, khiến toàn bộ hệ thống trở nên tiến bộ hơn sẽ đưa tới kết quả cao hơn, thể hiện ở quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất. Hai là, công nghệ có tính sinh thể: Đó là, cũng như các hàng hóa khác, công nghệ cũng có tính chu kỳ sống (ra đời, tăng trưởng, chiếm lĩnh thị trường, bão hòa, lỗi thời, tiêu vong) và chịu sự chi phối của phương án chiến lược sản phẩm truyền thống, nên việc các bên nước ngoài chuyển giao các công nghệ lỗi thời, sắp bị thay thế vào một thị trường mới (như ở Việt Nam) cũng không nằm ngoài quy luật. Tuy nhiên, khác với các hàng hóa khác, công nghệ chỉ có thể tồn tại và phát triển như một cơ thể sống, tức là phải được cung cấp các yếu tố đầu vào, trong môi trường thuận lợi, thích nghi và phải được bảo dưỡng, duy trì và hoàn thiện. Không nên xem công nghệ như một sản phẩm “chết” vì như vậy nó sẽ trở thành một gánh nặng cho người sử dụng. -7-
  10. Ba là, công nghệ có tính đặc thù về mục tiêu và địa điểm. Thật vậy, tuy công nghệ là một khái niệm rất rộng và đụng chạm đến nhiều khía cạnh kỹ thuật, kinh tế, tổ chức và xã hội, nhưng nó lại giải quyết các mục tiêu cụ thể. Công nghệ nào thì sản phẩm ấy và mỗi công nghệ cho phép đạt được một loại sản phẩm nhất định, với số lượng, chất lượng và một lượng vật tư tiêu hao nhất định. Mặt khác, mỗi công nghệ chỉ thực sự vận hành tốt nếu có một môi trường thích nghi và thuận lợi. Vì vậy, một công nghệ thực sự phù hợp với quốc gia này lại không phát huy tác dụng ở quốc gia kia, vì khi thay đổi địa điểm thì các yếu tố đầu vào và môi trường cũng thay đổi. Điều này cho thấy, chuyển giao công nghệ không chỉ đơn giản là dịch chuyển công nghệ từ vị trí địa lý này sang vị trí đại lý khác mà là cả một quá trình cải tiến, sửa đổi, thích nghi hóa cho phù hợp với các điều kiện của môi trường mới. Từ đặc thù này của công nghệ mà xuất hiện một khái niệm mới được nhiều người nhắc đến là “công nghệ thích hợp”. Đó là sự phù hợp của công nghệ với các mục tiêu kinh tế - xã hội, các điều kiện về lao động, trình độ quản lý, tài nguyên thiên nhiên và hạ tầng kỹ thuật. Bốn là, công nghệ có tính thông tin. Do công nghệ là một hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất và thông tin nên bản thân công nghệ có tính thông tin. Thông tin là một loại hàng hóa rất đặc biệt, cho nên đánh giá, định giá, xử lý, xác định quyền sở hữu và bảo vệ nó là hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi sự can thiệp và bảo hộ không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn cả phạm vi quốc tế. 1.1.1.2. Chuyển giao công nghệ a) Định nghĩa Chuyển giao công nghệ là loại hoạt động thực tiễn đã xuất hiện từ khá lâu trong lĩnh vực ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, chỉ từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây việc chuyển giao công nghệ và sử dụng hiệu quả công nghệ được chuyển giao mới có ảnh hưởng quyết định đến sự thịnh vượng, tốc độ và hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội cũng như chất lượng cuộc sống của nhiều nước trên thế giới. Trước đây, chuyển giao công nghệ xảy ra như là kết quả của các hoạt động nhằm chống chọi với thiên nhiên để sinh tồn, việc khai thác các nguồn -8-
  11. lợi từ tự nhiên được tiến hành một cách trực tiếp, rồi phát triển lên thành quy mô giữa các lãnh thổ, các quốc gia và giao lưu với nhau bởi quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, nhưng chuyển giao công nghệ chỉ là các hệ quả của quá trình đó, được thực hiện một cách ngẫu nhiên và không được vật chất, tiền tệ hóa dưới hình thức giao dịch đặc biệt. Ngày nay, chuyển giao công nghệ trở thành một hoạt động có tính quy luật khách quan, công nghệ trở thành một hàng hóa để trao đổi buôn bán, và các hoạt động chuyển giao công nghệ thường được thực hiện với sự tham gia của những chủ thể như: các tổ chức, cơ quan chính phủ hoặc phi chính phủ, doanh nghiệp, những tập thể hoặc cá nhân những nhà khoa học, các tổ chức môi giới, tư vấn… Mặc dù đã có những nghiên cứu về chuyển giao công nghệ nhưng hiện nay vẫn còn có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm chuyển giao công nghệ. Theo quan điểm của ESCAP: Chuyển giao công nghệ là sự dịch chuyển toàn bộ, hoặc một phần công nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác. Theo quan điểm của UNDP: Chuyển giao công nghệ là việc đưa kiến thức kỹ thuật ra khỏi ranh giới nơi sản sinh ra nó. GS. Christopher Freemen cho rằng: “Chuyển giao công nghệ là tập hợp các hoạt động thương mại và pháp lý nhằm làm cho bên nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ, trong khi sử dụng công nghệ đó vào một mục đích đã định”. GS. TS. Shoichi Yamashita lại cho rằng: “Chuyển giao công nghệ là một quá trình học tập trong đó tri thức về công nghệ được tích lũy một cách liên tục vào những nguồn tài nguyên con người đang thu hút vào các hoạt động sản xuất, một sự chuyển giao công nghệ thành công cuối cùng sẽ đưa tới sự tích lũy tri thức sâu hơn và rộng hơn”. Trên góc độ của doanh nghiệp, có thể hiểu: “Chuyển giao công nghệ là hoạt động nhằm đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất thông qua việc áp dụng một kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất hoặc có thể là áp dụng một công nghệ đã hoàn thiện từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Đó là sự mua bán công nghệ và là quá trình đào tạo, huấn luyện để sử dụng công nghệ được tiếp nhận”. -9-
  12. Bộ Khoa học và Công nghệ xác định rằng: “Chuyển giao công nghệ là một hoặc tập hợp nhiều hoạt động được tiến hành bởi hai bên – bên giao và bên nhận, trong đó hai bên phối hợp hành vi pháp lý và các hành động thực tiễn mà mục đích và kết quả là bên giao cung cấp để thực hiện một mục tiêu xác định”. Các quan niệm trên tuy khác biệt về nội dung cụ thể và cách tiếp cận nhưng có những điểm chung sau đây: - Thứ nhất, Hoạt động chuyển giao công nghệ có hai bên tham gia và có yếu tố quyết định là công nghệ mới; - Thứ hai, Hoạt động chuyển giao công nghệ không chỉ bao gồm chuyển nhượng phương tiện vật chất, kỹ thuật hữu hình mà điều quan trọng hơn là phải đào tạo, huấn luyện để người lao động nắm giữ, sử dụng thành thạo công nghệ được chuyển giao và cải tiến công nghệ đó thích nghi với điều kiện thực tế. Như vậy, Chuyển giao công nghệ được xem là một lĩnh vực hoạt động nhằm đưa những công nghệ từ nơi có nhu cầu chuyển giao công nghệ đến nơi có nhu cầu tiếp nhận công nghệ một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia. b) Nội dung của chuyển giao công nghệ Thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, những hoạt động chuyển giao công nghệ ở các mức độ khác nhau đã xuất hiện. Nó được phát triển theo thời gian cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong nội bộ các quốc gia và giữa các quốc gia với nhau thông qua mua bán thương mại, chiến tranh chinh phục và di cư. Chúng ta có thể xác định nội dung của chuyển giao công nghệ bao gồm: - Chuyển giao phần cứng sản xuất: bao hàm toàn bộ kiến thức được sử dụng trong sản xuất, thông thường gồm các vật liệu, sản phẩm hay máy móc thiết bị. - Chuyển giao phần cứng tổ chức: gồm các thiết bị và phương tiện được dùng trong các hoạt động phi sản xuất ở trong và ngoài xí nghiệp. - Chuyển giao tài liệu sản xuất: thường bao gồm 4 loại: Patent; các bí quyết thiết kế, kế hoạch; các cẩm nang vận hành; các tiêu chuẩn sản xuất. - Chuyển giao tài liệu tổ chức: đó là tài liệu dùng cho quản ký, bao gồm các nguyên tắc để vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng, quản lý nhân sự, kiểm soát tài chính. -10-
  13. - Chuyển giao các kỹ năng sản xuất: đó là các kinh nghiệm và kỹ năng được tích lũy và sử dụng trong quy trình sản xuất đó. Trong nội dung của chuyển giao công nghệ ta cần lưu ý tới hai điểm mấu chốt đó là: các hình thức hàm chứa công nghệ và và các cấp độ chuyển giao công nghệ. Về hình thức hàm chứa công nghệ: có ba hình thức như sau: - Thứ nhất, công nghệ được hàm chứa trong máy móc, thiết bị. Loại công nghệ này có thể được chuyển giao thông qua nhiều kênh khác nhau như thông qua hoạt động mậu dịch, xuất – nhập khẩu nhà máy, thỏa thuận về cấp giấy phép, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). - Thứ hai, công nghệ được hàm chứa trong các tài liệu, văn bản dùng để lưu trữ, phổ biến. Đây là loại thông tin về cách vận hành máy móc, thiết bị (hoạt động của công nghệ) và phương thức điều hành các hoạt động của doanh nghiệp. - Thứ ba, công nghệ được hàm chứa trong chính con người (các chuyên gia kỹ thuật, nhà quản trị doanh nghiệp, người quản lý công nghệ…) Về các cấp độ chuyển giao công nghệ: có ba cấp độ: - Chuyển giao công nghệ sản xuất (cấp độ tác nghiệp); - Chuyển giao công nghệ điều hành (cấp độ quản lý và kỹ thuật bậc trung); - Chuyển giao bí quyết quản lý (cấp độ điều hành toàn bộ, quản lý cao cấp và bộ máy nghiên cứu và phát triển). c) Đối tƣợng chuyển giao công nghệ Các đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm: * Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao Sở hữu công nghiệp bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng khác do luật định. Trong đó, sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, có -11-
  14. tính đổi mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm các yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó. Quyền sở hữu đối với sở hữu công nghiệp có thể được xác lập bằng văn bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp, nếu chủ sở hữu đệ trình hồ sơ yêu cầu. * Bí quyết, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, phần mềm máy tính, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị. Bí quyết là những kinh nghiệm, kiến thức, thông tin kỹ thuật quan trọng, mang tính chất bí mật được tích lũy, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, có khả năng tạo ra những dịch vụ, sản phẩm có chất lượng cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn, có khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường. * Các giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ. * Các hình thức dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ như: - Hỗ trợ lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây chuyền… - Tư vấn quản lý công nghệ, quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện quy trình công nghệ được chuyển giao; - Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển giao. -12-
  15. * Máy, thiết bị, phương tiện kỹ thuật kèm theo 1 hoặc một só trong 4 đối tượng nêu trên. 1.1.2. Phân loại các hình thức chuyển giao công nghệ Để có những giải pháp, những hướng tác động thích hợp và có hiệu quả tới quá trình chuyển giao công nghệ, các hoạt động này cần được phân loại theo những đặc điểm nhất định, thích hợp với những nhóm giải pháp nhất định. Toàn bộ các quá trình chuyển giao công nghệ có thể phân loại theo các cách khác nhau sau đây: 1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể chuyển giao công nghệ Sự phân loại này cho phép xác định được cơ chế chuyển giao thích hợp. Theo đó, các quá trình chuyển giao công nghệ được phân chia thành: - Chuyển giao công nghệ nội bộ doanh nghiệp (giữa cơ quan nghiên cứu và thiết kế của công ty với các thành viên của nó ở trong một nước hay ở nhiều nước): Trong trường hợp này, công nghệ do phòng nghiên cứu thiết kế được chuyển giao cho các bộ phận triển khai khác hoặc cho các bộ phận khác trong nội bộ công ty, tập đoàn và cuối cùng, chuyển giao tới các nhà máy sản xuất. Đây là hình thức thường được áp dụng trong các doanh nghiệp có quy mô lớn. Hình thức chuyển giao có thể là sự chuyển giao trên cơ sở hạch toán nội bộ hoặc hạch toán kinh tế (có tính đến lỗ – lãi của các đơn vị có liên quan). Nó có thể (nhưng không nhất thiết) là sự chuyển giao có tính bao cấp giữa các đơn vị có liên quan. - Chuyển giao công nghệ trong nước (giữa các công ty, các cơ quan nghiên cứu và thiết kế trong nước): Đây là hình thức chuyển giao công nghệ giữa các đối tác độc lập trong cùng một quốc gia. Các đối tác này có thể có quy chế hoạt động khác nhau, nhưng đều là những chủ thể độc lập trên thị trường. Việc chuyển giao công nghệ thường được thực hiện trên cơ sở hạch toán kinh tế. Lợi ích của các bên được đảm bảo qua các hoạt động thương mại đơn thuần mà công nghệ là đối tượng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do muốn thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, Nhà nước cũng có thể tài trợ cho việc chuyển giao này (tài trợ trực tiếp cho các cơ quan chuyển giao hoặc cho bên tiếp nhận công nghệ). -13-
  16. - Chuyển giao công nghệ quốc tế: Đây là hình thức chuyển giao công nghệ giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau, có địa điểm ở các quốc gia khác nhau. 1.1.2.2. Phân loại theo nội dung công nghệ được chuyển giao Cách phân chia này được dùng để xây dựng những “khuôn khổ chung về nội dung” chuyển giao công nghệ. Theo đó người ta xác định: - Công nghệ chế tạo: Chủ yếu chỉ sử dụng chuyển giao công nghệ về các phương diện như thiết bị, công nghệ – vật liệu sản xuất với mục đích là chế tạo sản phẩm. - Công nghệ thiết kế: Đây là sự chuyển giao công nghệ về các phương diện như đồ án thiết kế khai thác phát triển sản phẩm, ứng dụng công nghệ, tài liệu thuyết minh công nghệ, số liệu tính toán và tư liệu ban đầu. - Công nghệ quản lý: Chuyển giao công nghệ quản lý về các phương diện như: Công nghệ quản lý đặc biệt mà xí nghiệp đã nghiên cứu và triển khai thành công hoặc công nghệ quản lý về tài vụ, vật tư, nhân sự, tư vấn, marketing. Nó đề cập tới các quy trình, cách thức tiến hành các hoạt động quản lý. 1.1.2.3. Phân loại theo tính chất của công nghệ Cách phân chia này được sử dụng nhiều trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia quá trình chuyển giao công nghệ. Nó xuất phát từ thực tế là tùy thuộc vào vị trí của mình trên thị trường nói chung cũng như thị trường công nghệ riêng, một bên chuyển giao hoặc tiếp nhận công nghệ có thể có lợi thế hơn hoặc bị sức ép nhiều hơn phía đối tác. Việc xác định rõ vị trí này (và quan trọng hơn là xác định dúng lợi thế hoặc bất lợi thế của mình), có thể giúp doanh nghiệp xác định được đúng đắn chiến lược của mình trong đàm phán với đối tác về chuyển giao công nghệ. Người ta có thể phân biệt các trường hợp bên nhận hoặc bên chuyển giao công nghệ có vị trí độc quyền, công nghệ được chuyển giao là công nghệ đặc biệt hoặc gắn với thiết bị chuyên dùng, với trình độ chuyên môn cao hoặc với nhãn hiệu hàng hóa của bên đối tác, việc chuyển giao công nghệ gắn với hoạt động tư vấn công nghệ, bồi dưỡng, đào tạo nhân viên có tính đặc trưng… 1.1.2.4. Phân loại theo tính chất của quá trình chuyển giao công nghệ -14-
  17. Cách phân loại này liên quan tới cách thức và con đường chuyển giao công nghệ. Theo đó, các hoạt động chuyển giao công nghệ được phân chia thành: - Chuyển giao theo chiều dọc: Đây là quá trình tri thức, lý luận cơ sở được chuyển giao từ các bộ phận, tổ chức nghiên cứu, phát triển (nơi tạo ra công nghệ) sang các bộ phận, tổ chức ứng dụng công nghệ đó. Trong quá trình này, cứ sau mỗi bước chuyển giao, công nghệ lại được phát triển tiếp để trở nên hoàn thiện hơn, có thể khai thác trên thực tế được hoặc có thể mở rộng giá trị sử dụng của nó. Có hai quan niệm về chuyển giao công nghệ theo chiều dọc: Thứ nhất, công nghệ chưa có trên thị trường: Chuyển giao công nghệ chưa được triển khai (công nghệ vẫn trong sự quản lý của nơi nghiên cứu). Bên nhận có được công nghệ hoàn toàn mới nếu triển khai thành công. Thứ hai, Công nghệ đã có trên thị trường: Chuyển giao từ Nghiên cứu Triển khai Sử dụng Thị trường Bên nhận đễ dàng làm chủ công nghệ được chuyển giao. Trong thực tế các chuyển giao công nghệ dọc chỉ chiếm khoảng 5% tổng số chuyển giao công nghệ trên phạm vi thế giới do bên nhận công nghệ cần có năng lực triển khai công nghệ ở trình độ cao (trong trường hợp công nghệ chưa có trên thị trường) và chí phí chuyển giao cao (trong trường hợp thứ 2). - Chuyển giao theo chiều ngang: Đây là quá trình đưa công nghệ đã được phát triển hoàn chỉnh, đã được khai thác và sử dụng tại một tổ chức hoặc khu vực nào đó (doanh nghiệp) sang cho một tổ chức hoặc khu vực khác (doanh nghiệp) sử dụng. Về nguyên tắc, trong quá trình chuyển giao công nghệ ngang đối với công nghệ, không cần có những cải tiến, hoàn thiện thêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ngay trong quá trình này, việc “thích nghi hóa” cũng chính là quá trình cải tiến công nghệ được chuyển giao. Hình 1.1: Phân biệt chuyển giao công nghệ dọc và ngang Chu trình của công nghệ Công nghệ chưa có ở thị trường Công nghệ đã có ở thị trường Nghiên cứu Dọc Dọc Triển khai Sản xuất thử -15- Sản xuất hàng loạt
  18. Ngang 1.1.2.5. Phân loại theo phương thức thanh toán và tính chất thương mại Chuyển giao công nghệ và mua bán công nghệ không phải đồng nhất nhau. Bởi thế người ta phân biệt hai hình thức: - Chuyển giao công nghệ phi thương mại: Hình thức này bao gồm toàn bộ chuyển giao công nghệ có tính học thuật, thông qua các phương thức như hội nghị quốc tế, triển lãm thành tựu công nghệ và hội thảo chuyên đề, xuất bản sách báo, trao đổi tư liệu, giảng dạy, khảo sát,…để tiếp thu nhanh thành quả khoa học công nghệ của người khác. Đó là sự chuyển giao mang tính phi mậu dịch. Trong loại chuyển giao công nghệ này, bên tiếp nhận không phải trả chi phí chuyển nhượng. - Chuyển giao công nghệ có tính thương mại: Nó bao gồm các hình thức chuyển giao, trong đó công nghệ với tư cách là một loại hàng hóa đặc biệt, được mua và bán trên thị trường. Bởi thế, quá trình chuyển giao có tính mậu dịch và được tiến hành bằng phương thức mua bán công nghệ. 1.1.3. Điều kiện chuyển giao công nghệ Việc chuyển giao công nghệ cho phép cả bên giao và bên nhận công nghệ có được những lợi thế nhất định. Chính lợi ích này là động lực thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra với tốc độ và quy mô ngày càng lớn hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp việc chuyển giao công nghệ không đem lại lợi ích mong muốn. Bài học rút ra từ những thành công và thất bại là: Để chuyển giao cũng như tiếp nhận thành công một công nghệ, cần đảm bảo những điều kiện xuất phát từ bản thân công nghệ, bên cung cấp công nghệ và bên tiếp nhận công nghệ. Ngoài ra, các điều kiện xuất phát từ chính sách của Nhà nước từ phiá chuyển giao và phía tiếp nhận công nghệ cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc chuyển giao công nghệ. Xét một cách khái quát, những nhân tố sau đây sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình chuyển giao – tiếp nhận công nghệ và thành công của quá trình này: * Nhu cầu đổi mới, chuyển giao công nghệ và thị trường công nghệ -16-
  19. Nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất ảnh hưởng tới việc chuyển giao công nghệ là nhu cầu đổi mới công nghệ. Nhu cầu này bắt nguồn từ thị trường và nhu cầu về sản phẩm có liên quan đến công nghệ được xem xét. Khi có sự mất cân đối trên thị trường về sản phẩm theo hướng nhu cầu không được đáp ứng, các doanh nghiệp sẽ phản ứng bằng cách nâng cao năng lực sản xuất (nâng cao hệ số tận dụng năng lực sản xuất, đầu tư theo chiều sâu nhằm đồng bộ hóa hoặc tăng năng lực sản xuất trên cơ sở công nghệ đang được sử dụng). Nếu những biện pháp này không đáp ứng được yêu cầu hoặc không giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường (hoặc công nghệ truyền thống đã được khai thác một cách triệt để) đã có những công nghệ mới có khả năng thay thế công nghệ cũ, doanh nghiệp sẽ tính đến khả năng thay thế công nghệ truyền thống, đang sử dụng bằng công nghệ mới hoặc cải tiến chúng. Khi xuất hiện nhu cầu thay thế công nghệ đang được khai thác và sử dụng bằng công nghệ mới, vấn đề mà doanh nghiệp phải cân nhắc là tự mình nghiên cứu, thiết kế công nghệ mới hay mua/tiếp nhận công nghệ mới từ các cơ sở, các doanh nghiệp khác. Cơ sở để doanh nghiệp quyết định vấn đề này là tương quan giữa chi phí và lợi ích của doanh nghiệp trong từng trường hợp (tự nghiên cứu hay nhận chuyển giao). Thông thường, vấn đề này hay xuất hiện trong các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là hướng công nghệ được doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu. Thị trường công nghệ tác động tới tình hình chuyển giao công nghệ ở chỗ, nếu có nhiều công nghệ mới đã được tạo ra và sẵn sàng chuyển giao với chi phí có thể chấp nhận được, các doanh nghiệp có nhu cầu sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận công nghệ mới và dễ dàng nhận chuyển giao các công nghệ mình cần. Thiếu nguồn cung cấp hoặc các cơ sở chuyển giao công nghệ với những điều kiện ngặt nghèo, khắt khe sẽ ảnh hưởng bất lợi tới việc chuyển giao công nghệ. Thực tế ở các nước đang phát triển, kể cả Việt Nam, cũng đã cho thấy rằng mặc dù có nhu cầu lớn về công nghệ đơn giản cho phép chế biến các sản phẩm thô, sản phẩm nông sản sau thu hoạch với chi phí thấp, điều kiện sử dụng không khắt khe…nhưng do không có cơ quan, tổ chức nào nghiên cứu và sẵn sàng chuyển giao nên những công nghệ này nằm trong tình trạng trì trệ từ hàng chục năm nay chưa được cải thiện đáng kể. * Động lực của hai bên cung ứng và tiếp nhận công nghệ -17-
  20. Động lực thúc đẩy người có công nghệ tìm cách chuyển giao công nghệ này là thúc đẩy sự tiêu dùng rộng rãi một hoặc một số sản phẩm mới, tham nhập thị trưởng mới hoặc mở rộng thị trường đã có, tăng thêm lợi nhuận từ các hoạt động chuyển giao công nghệ. Động lực đó cũng có thể là giúp bên chuyển giao cung cấp được (hoặc cung cấp thêm) các sản phẩm, vật tư, nguyên liệu gắn với công nghệ mới, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp (chuyển giao công nghệ và các thiết bị liên quan để thay thế chúng bằng một công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn…). Động lực thúc đẩy người sử dụng tiếp nhận công nghệ là thông qua nhập công nghệ mà phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tiết kiệm chi phí để giảm giá thành, tăng lợi nhuận, đổi mới hoặc đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay thế nguyên, vật liệu quý hiếm đang sử dụng bằng những nguyên, vật liệu mới rẻ tiền, dễ kiếm hơn…. Nhận thức được tác động của nhân tố này, cả bên chuyển giao công nghệ lẫn bên tiếp nhận công nghệ cần có ứng xử thích hợp trong toàn bộ quá trình từ đàm phán, ký kết hợp đồng cho tới các hoạt động cụ thể triển khai việc chuyển giao công nghệ. Nếu mỗi bên chỉ biết đến lợi ích của mình, không chú ý và đảm bảo lợi ích của các đối tác thì sẽ không thể thực hiện thành công việc chuyển giao công nghệ. * Năng lực công nghệ thực tế của bên chuyển giao và bên tiếp nhận công nghệ Năng lực thực sự của hai bên chuyển giao/tiếp nhận công nghệ không chỉ ảnh hưởng tới việc chuyển giao công nghệ, mà cả tới việc khai thác, sử dụng công nghệ sau khi chuyển giao kết thúc. Nguồn lực có ý nghĩa quan trọng nhất là vốn đầu tư và lao động có trình độ, có tay nghề thích hợp. Nhìn chung, một doanh nghiệp có tiềm lực càng lớn và đồng bộ, càng có điều kiện thuận lợi để chuyển giao hoặc tiếp nhận công nghệ, càng có điều kiện chủ động lựa chọn công nghệ cần chuyển giao – tiếp nhận cũng như đối tác chuyển giao, hình thức chuyển giao cũng như các điều kiện chuyển giao công nghệ. Trong quan hệ chuyển giao, nếu thị trường công nghệ không có gì đặc biệt, công nghệ và việc khai thác công nghệ không thuộc độc quyền của bên nào thì bên nào có tiềm lực thấp hơn sẽ phụ thuộc vào bên có tiềm lực cao hơn, hoặc chịu thiệt hơn so với bên có tiềm lực cao hơn. Nếu cả hai bên đều chỉ có tiềm lực -18-
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2