intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Nguồn nhân lực kinh tế du lịch thủ đô Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

20
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Nguồn nhân lực kinh tế du lịch thủ đô Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  HOÀNG THỊ PHƯƠNG THẢO NGUỒN NHÂN LỰC KINH TẾ DU LỊCH THỦ ĐÔ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2013
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  HOÀNG THỊ PHƯƠNG THẢO NGUỒN NHÂN LỰC KINH TẾ DU LỊCH THỦ ĐÔ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS PHẠM ĐỨC NHUẤN HÀ NỘI - 2013
  3. CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Doanh nghiệp du lịch DNDL Giáo dục và Đào tạo GD & ĐT Hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch VTOS Hướng dẫn viên HDV Khoa học - công nghệ KH - CN Kinh doanh du lịch KDDL Kinh tế - xã hội KT - XH Kinh tế du lịch KTDL Lao động, Thương binh và Xã hội LĐTB & XH Nguồn nhân lực NNL Sản phẩm du lịch SPDL Văn hóa, Thể thao và Du lịch VHTT & DL MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ 11 NGUỒN NHÂN LỰC KINH TẾ DU LỊCH THỦ ĐÔ
  4. HÀ NỘI 1.1 Kinh tế du lịch và nguồn nhân lực kinh tế du lịch 11 1.2 Thực trạng nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội 29 Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KINH TẾ DU LỊCH THỦ ĐÔ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI 46 2.1 Những quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch Hà Nội 46 2.2 Ba nhóm giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội thời gian tới 55 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 PHỤ LỤC 85 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và sự phát triển bền vững kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội. Các doanh nghiệp và kinh tế du lịch Thủ đô có phát triển kinh doanh được hay không phụ thuộc chủ yếu vào số, chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ và nhân viên của mình. Lực lượng lao động trong ngành kinh tế du lịch của Thủ đô, tuy ngày càng đông đảo và hùng hậu hơn, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ lao động du lịch Thủ đô vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Số lao động có trình độ qua đào tạo chuyên ngành du lịch, nhất là lao động có tay nghề chưa đủ về số lượng, thiếu nhiều đội ngũ quản lý kinh
  5. doanh du lịch giỏi. Một số doanh nghiệp du lịch Thủ đô khó tuyển chọn các nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao. Đội ngũ lao động trực tiếp cung ứng dịch vụ cho du khách đây đó vẫn thường thấy các nhân viên phục vụ mắc phải sai sót, thái độ, tác phong phục vụ chưa chuẩn mực. Kỹ năng giới thiệu, chào bán sản phẩm, dịch vụ du lịch thiếu chuyên nghiệp, kỹ năng giao tiếp ngoại ngữ phục vụ du khách còn hạn chế. Chưa có sự ổn định cao về đội ngũ lao động trực tiếp phục vụ du lịch, tỷ lệ lao động thuyên chuyển công tác từ doanh nghiệp du lịch này đến doanh nghiệp du lịch khác hoặc ra khỏi ngành khá cao. Nguyên nhân của các yếu kém nêu trên, một mặt là do doanh nghiệp du lịch chưa thực sự có chiến lược đầu tư, phát triển nguồn nhân lực một cách bài bản, chưa có đội ngũ quản trị nhân sự có tính chuyên nghiệp cao, quy trình tuyển chọn nhân sự, công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chưa được chú ý đứng mức cũng như chưa thực sự quan tâm giải quyết tốt chính sách đãi ngộ, sử dụng và bồi dưỡng người lao động một cách thỏa đáng. Mặt khác, quản lý, chỉ đạo, điều hành của cơ quan chức năng, mà trực tiếp là Sở Thể thao, Văn hóa và Du lịch đối với kinh tế du lịch còn nhiều bất cập; công tác đào tạo nhân lực kinh tế du lịch tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn Thủ đô còn có khoảng cách khá lớn giữa qui mô, chất lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động thực tế tại các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Lý luận về du lịch, kinh tế du lịch và nguồn nhân lực kinh tế du lịch có bước tiến đáng kể, nhưng trước sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng trong quan hệ với du lịch của các nước trên thế giới thì lý luận đó còn chưa theo kịp. Ngay như giáo trình Kinh tế du lịch do các trường đào tạo chuyên ngành này ở nước ta biên soạn, chưa thấy khái quát định nghĩa về kinh tế du lịch. Lý luận kinh tế du lịch, trong đó có nguồn nhân lực kinh tế du lịch còn nặng tính hàn lâm, chưa gắn chặt với thực tiễn phát triển du lịch và con người Việt Nam, một nước Á Đông giàu truyền thống văn hóa, dân tộc ngàn năm văn hiến. Cùng với nội dung chương trình đào tạo còn
  6. bất hợp lý, đây là nguyên nhân hạn chế chất lượng đào tạo nguồn nhân lực kinh tế du lịch ở nước ta hiện nay. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của nguồn nhân lực kinh tế du lịch và góp phần phát triển nguồn nhân lực này đáp ứng yêu cầu phát triển mới của kinh tế du lịch Hà Nội, góp phần bổ sung, hoàn thiện một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch, vấn đề “Nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội” được học viên lựa chọn làm đề tài luận văn Thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị. Tác giả mong muốn vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện và có tính khả thi cao không những đối với phát triển kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội, mà còn đối với phát triển kinh tế du lịch các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh, thành trong cả nước. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài * Các công trình bàn về nguồn nhân lực Vấn đề nguồn nhân lực luôn cuốn hút đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Các nhà khoa học trong nước có khá nhiều các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, về lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, tiêu biểu là các công trình sau: Xung quanh vấn đề nguồn nhân lực và phát triển chất lượng nguồn nhân lực - Giáo trình “Kinh tế nguồn nhân lực” (2008), Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Nội dung giáo trình đã trình bày các kiến thức cơ bản về nguồn nhân lực dưới góc độ kinh tế ngành. Luận văn có thể tham khảo khái niệm nguồn nhân lực, đặc điểm nguồn nhân lực, xu hướng phát triển và hiệu quả kinh tế mang lại từ sự phát triển nguồn nhân lực. - Các công trình khác là sách tham khảo, luận văn, luận án gồm có: + GS.TS Phạm Minh Hạc (2001): “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb CTQG, Hà Nội.
  7. + Mai Quốc Chánh (1999): “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb CTQG, Hà Nội. + Vũ Phương Mai (2004): “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh. + Đoàn Văn Khai (2005): “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. + Nguyễn Thanh (2005):“Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb CTQG, Hà Nội. + Lê Du Phong (2006): “Nguồn lực và động lực phát triển”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Các công trình nêu trên đã bước đầu làm rõ một số vấn đề lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực, nguồn lực con người… phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua đó nhấn mạnh vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặt ra phải tìm biện pháp nâng cao vai trò đó. Tác giả Vũ Phương Mai đã bàn sâu về lý luận, thực tiễn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đã chỉ ra quan niệm và tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ yếu về qui hoạch, về các chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao trong một số ngành, địa phương cụ thể. Về quản lý và đào tạo nguồn nhân lực - GS.TS. Bùi Văn Nhơn (2008) chủ biên giáo trình “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Giáo trình này cung cấp kiến thức cơ bản về nguồn nhân lực xã hội và quản lý nguồn nhân lực xã hội, làm cơ sở phương pháp luận cho việc tham gia hoạch định và phân tích các chính sách về nguồn nhân lực xã hội. Trong đó, những vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài của luận văn gồm: tổng quan về nguồn nhân lực và những đặc điểm của nguồn nhân lực Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
  8. nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội. - Nguyễn Đức Tĩnh (2001): “Hoàn thiện quản lý Nhà nước về đào tạo nghề ở nước ta hiện nay”. Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. - Nguyễn Hữu Chí (2003): “Những giải pháp về quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn Hà Nội hiện nay”. Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Các công trình nêu trên nhấn mạnh: Công tác đào tạo là một trong những biện pháp hàng đầu nhằm phát triển nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, góp phần khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” đang phổ biến hiện nay. Đi sâu phân tích công tác quản lý chất lượng đào tạo, cụ thể là quản lý đào tạo nghề cho người lao động trong cả nước và trên một số địa phương. Đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng quản lý đào tạo nghề như: Thống nhất nhận thức về vai trò quan trọng của đào tạo nghề; giải pháp qui hoạch lại các trường dạy nghề; đổi mới nội dung chương trình dạy nghề; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề; tăng cường đầu tư trang thiết bị tiên tiến cho các cơ sở dạy nghề… - Ngoài ra, có nhiều bài nghiên cứu đăng trên các báo và tạp chí trong nước phản ánh thực trạng và biện pháp phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi cả nước và ở một số tỉnh thành trong nước. Về thị trường lao động (sức lao động) có các công trình: - Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Dân (2003): “Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam”, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. - Nguyễn Thị Thơm (2006): “Thị trường lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  9. - Nguyễn Văn Ngọc (2007): “Thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Các công trình nêu trên nghiên cứu các nội dung: Thị trường sức lao động, chỉ ra một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam trong phát triển thị trường sức lao động; đánh giá thực trạng phát triển thị trường sức lao động Việt Nam trong nền kinh tế thị trường nêu bật một số thành tựu ban đầu và những hạn chế trong phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay; đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường sức lao động. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nhánh thị trường sức lao động của kinh tế du lịch. * Về nguồn nhân lực kinh tế du lịch, có các công trình sau - Giáo trình “Kinh tế du lịch” (2008). Chủ biên: GS.TS. Nguyễn Văn Đính; đồng chủ biên PGS.TS. Trần Thị Minh Hòa, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Trong giáo trình, các tác giả đã dành chương 6 để mô tả và phân tích về “Lao động trong du lịch” (tr.119-166). Công trình đã khái quát bản chất của nguồn nhân lực kinh tế du lịch; vai trò và đặc trưng của nhóm lao động chức năng quản lý nhà nước về du lịch, của nhóm lao động chức năng sự nghiệp kinh tế du lịch và nhóm lao động chức năng kinh doanh du lịch. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch cũng được đề cập như: quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực ngành du lịch góp phần thực hiện đường lối, chính sách và phát triển con người; thúc đẩy sẽ phát triển, tạo việc làm, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo xã hội ổn định và phát triển. Một số nội dung cơ bản của quản lý phát triển nguồn nhân lực ở doanh nghiệp du lịch như: tuyển chọn và bố trí lao động; tổ chức hợp tác và phân công lao động trong doanh nghiệp; cải thiện điều kiện lao động và chế độ nghỉ ngơi cho người lao động; thiết lập kỷ luật lao động; đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn; nâng cao đạo đức nghề nghiệp; đánh giá kết quả lao động và trả công… đã được trình bày khá rõ ràng.
  10. - Ngoài công trình nêu trên, có nhiều bài viết về nguồn nhân lực kinh tế du lịch cả nước và các tỉnh (thành phố) trong nước như: GS.TS Nguyễn Văn Ðính, Hiệu trưởng Trường đại học Hà Tĩnh: “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”, đăng trên trang “http://www.baomoi.com” ngày 10/11/2009. Hoa Quỳnh: “Nâng cao chất lượng nhân lực cho du lịch thông qua các chương trình liên hợp, hợp tác đào tạo” đăng trên báo điện tử Công Thương ngày 7/10/2012: “Hà Nội: Bề bộn nỗi lo nguồn nhân lực du lịch” đăng trên trang “http://www.baomoi.com” ngày 22/12/2011. Phùng Lê Dung - Đỗ Hoàng Điệp: “Phát triển nguồn nhân lực dựa trên các chiến lược kinh tế” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông Số 2.2009. PGS.TS Bùi Văn Tiến: “Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực qua Đại hội lần thứ XI”, đăng trên Website Trường Đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh, ngày 28/7/2012. “Nhận thức về đào tạo trong du lịch” của Trịnh Xuân Dũng đăng trên Báo Tuần Du lịch, số 25 & 26. “Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp du lịch” của Lưu Kiếm Thanh, Tạp chí Du lịch, số 01/2007. “Kinh nghiệm đào tạo nhân lực cho du lịch Việt Nam từ các nước liên minh châu Âu” của Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2000. Trong các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài nêu trên, chưa có công trình nào nghiên cứu độc lập về nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội. Vì thế, đề tài “Nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội” của tác giả được nghiên cứu trên góc độ khoa học kinh tế chính trị không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
  11. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích của đề tài Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội trong thời gian tới. * Nhiệm vụ của đề tài - Khái quát hóa những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực kinh tế du lịch, tập trung nghiên cứu vai trò và các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội. - Khảo sát thực trạng nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội, chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế và những mâu thuẫn đặt ra. - Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu: nguồn nhân lực kinh tế du lịch. * Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu nguồn nhân lực trong ngành du lịch trên địa bàn thủ đô Hà Nội. - Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng phát triển lực kinh tế du lịch ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2000 - 2015, tầm nhìn đến 2020. - Phạm vi nội dung: Do điều kiện và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quan niệm, đặc điểm, vai trò, tiêu chí đánh giá, thực trạng nguồn nhân lực kinh tế du lịch, đưa ra các giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch ở thủ đô Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực và Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
  12. * Phương pháp cơ bản được sử dụng trong luận văn là phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgíc thống nhất với lịch sử và sử dụng các phương pháp khác như tiếp cận hệ thống, điều tra, thống kê, so sánh, minh họa... để hoàn thành nội dung luận văn. 6. Ý nghĩa của đề tài Những kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học về nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực kinh tế du lịch nói riêng, góp phần hoạch định và thực thi các chính sách phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch nhằm hướng tới phát triển du lịch Thủ đô thành ngành kinh tế mũi nhọn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo và các bảng phụ lục, luận văn kết cấu gồm 2 chương 4 tiết. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC KINH TẾ DU LỊCH THỦ ĐÔ HÀ NỘI 1.1. Kinh tế du lịch và nguồn nhân lực kinh tế du lịch 1.1.1. Du lịch và kinh tế du lịch * Quan niệm về du lịch - Thuật ngữ Du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa đi một vòng. Thuật ngữ này được La tinh hoá thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh)... Cho đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm Du lịch. Chẳng hạn, có tác giả tập trung giải thích du lịch như một hiện tượng di chuyển, lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên; nhóm khác lại tập trung vào bản thân du khách và khía cạnh kinh tế của Du lịch. Ở Việt Nam, khái niệm được nêu trong Luật Du lịch (2005) như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [13, Khoản 1, Điều 4]. Đây là một định
  13. nghĩa súc tích, mang tính khái quát, bao hàm được cả 2 khía cạnh cơ bản của du lịch là chuyến đi ngoài nơi cư trú với mục đích tham quan nghỉ dưỡng và các hoạt động liên quan đến chuyến đi đó. Do vậy, luận văn chọn cách định nghĩa này trong Luật Du lịch. * Kinh tế du lịch và đặc điểm của kinh tế du lịch Kinh tế du lịch Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh doanh du lịch. Kinh tế du lịch từng bước trở thành một bộ phận hợp thành của hoạt động kinh tế - xã hội, lấy sự phát triển các loại hình kinh doanh du lịch, biến các tài nguyên du lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành những hàng hóa và dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách. Để đáp ứng nhu cầu đó, đã xuất hiện các nghề mới trong dân chúng ở các vùng có tài nguyên du lịch như kinh doanh du lịch, nhà hàng, môi giới, hướng dẫn du lịch... Hàng loạt các cơ sở chuyên phục vụ du lịch như khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát, dịch vụ cho thuê, giặt là, mát xa... cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du khách lần lượt ra đời. Từng bước hình thành một ngành nghề mới là ngành kinh doanh du lịch và theo đó xuất hiện một thị trường mới là thị trường du lịch. Trong cuốn Kinh tế du lịch, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Giáp cho rằng: “Toàn bộ kinh tế du lịch là một hệ thống gồm những phần nhỏ hay là tiểu hệ thống, nguyên nó có thể chia nhỏ ra thêm nữa và những biến số độc lập với nhau cho phép biến đầu vào (nguồn nhân lực, nguyên liệu, tư bản, khoa học kỹ thuật) thành đầu ra (sản phẩm và dịch vụ) [27, tr.44]. Đây là cách tiếp cận kinh tế du lịch dưới góc độ lý thuyết kinh tế học hiện đại theo hướng quan tâm đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia ở tầm vĩ mô như sản lượng quốc gia, thu nhập quốc dân, tiêu dùng các hộ gia đình, chi tiêu quốc gia, tiết kiệm, đầu tư, thất nghiệp, việc làm, tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế... Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Kinh tế du lịch một loại hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem như ngành công nghiệp không khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước, có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử, v.v..) nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch...” [55, tr.586].
  14. Từ các cách định nghĩa kinh tế du lịch trên đây cho thấy, để đưa ra khái niệm về kinh tế du lịch dưới góc độ kinh tế chính trị cần phải có sự thống nhất trong quá trình nhận thức trên các mặt cơ bản như sau: một là, kinh tế du lịch phản ánh lực lượng sản xuất xã hội ở một trình độ phát triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn luôn gắn liền với quá trình phát triển của con người, thể hiện rõ nét nhất trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của con người ở một trình độ cao hơn, sản xuất hàng hóa và dịch vụ đa dạng, phong phú hơn. Hai là, kinh tế du lịch ngày nay đã và đang trở thành ngành kinh tế có thu nhập cao, tốc độ phát triển nhanh, là ngành kinh tế mũi nhọn, tổng hợp có liên quan mật thiết với nhiều ngành kinh tế khác trong một quốc gia của nhiều nước trên thế giới. Ba là, kinh tế du lịch góp phần tăng cường mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ du lịch. Bốn là, quá trình phát triển kinh tế du lịch góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tác động nhiều chiều, đến nhiều lĩnh vực trong đời sống của một đất nước trong đó bao hàm cả quốc phòng, an ninh. Từ những vấn đề cần nhận thức nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm kinh tế du lịch như sau: Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực du lịch dịch vụ, nó là một loại hình kinh tế tổng hợp, là quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch phục vụ du khách trong và nước ngoài, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đặc điểm của kinh tế du lịch Đặc điểm của kinh tế du lịch là tập hợp các hoạt động về tổ chức, quản lý kinh doanh du lịch trên một phạm vi rộng, sử dụng nhiều lao động, đồng thời cũng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, các nước trong lĩnh vực du lịch, các đối tượng tiêu dùng sản phẩm du lịch có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của kinh tế du lịch trên các vấn đề sau: Một là: Kinh tế du lịch là các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Trong kinh doanh du lịch, các yếu tố đầu vào và đầu ra kết hợp, tác động lẫn nhau rất năng động, luôn luôn gắn bó với nhau chặt chẽ. Điều đó có nghĩa
  15. là trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể kinh doanh du lịch (cá nhân hoặc là tổ chức) sản xuất ra những sản phẩm vật chất hoặc phi vật chất đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của du khách. Sự vận hành của kinh tế du lịch lấy tiền tệ làm trung gian môi giới, thông qua hoạt động trao đổi sản phẩm du lịch giữa du khách với người kinh doanh du lịch, lấy vận động mâu thuẫn giữa cung và cầu sản phẩm du lịch làm đặc trưng chủ yếu. Hai là: Trong nền kinh tế thị trường, việc thực hiện thông suốt hoạt động kinh tế du lịch được quyết định bởi sự điều hoà nhịp nhàng giữa cung và cầu du lịch. Việc cung cấp sản phẩm du lịch không thể tách rời nhân tố kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Vì thế, sự vận hành kinh tế du lịch tất nhiên chịu ảnh hưởng và chế ước của những điều kiện kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh doanh du lịch có hiệu quả hay không là phụ thuộc rất lớn đến cầu tiêu dùng của du khách. Chất lượng của một sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của du khách. Chất lượng của sản phẩm du lịch được đánh giá đều mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhu cầu thị hiếu, mức độ thỏa mãn nhu cầu của du khách. Bởi vì, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch là nhu cầu mang tính đặc thù, tức là những nhu cầu của du khách mà nơi họ sinh sống không thể có được chứ không phải là những thứ cao cấp hoặc quý hiếm. Trên thị trường du lịch, sự trao đổi sản phẩm du lịch và tiền tệ do hai bên cung, cầu du lịch tiến hành mà không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch, trong quá trình chuyển đổi cũng không xảy ra sự chuyển dịch sản phẩm, chỉ là du khách có quyền chiếm hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi du khách đến để thực hiện cầu du lịch của mình. Cùng một sản phẩm du lịch có thể vẫn bán được nhiều lần cho nhiều du khách khác nhau sử dụng. Tất cả những tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn chỉ trở thành sản phẩm du lịch khi nó được con người đầu tư, tôn tạo để phục vụ cho hoạt động kinh doanh du lịch. Đây chính là một đặc điểm hết sức cơ bản của kinh tế du lịch.
  16. Ba là: Kinh tế du lịch có môi trường hoạt động rộng rãi, khả năng liên kết cao với các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân và với các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác của các nước trên thế giới. Kinh tế du lịch là ngành kinh tế tương đối tổng hợp, bởi hoạt động kinh doanh biểu hiện nhiều mặt trong lĩnh vực của đời sống con người như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... cho nên khi được tổ chức khoa học, điều hoà nhịp nhàng, các khâu các bước luân chuyển hợp lý, cơ chế quản lý đồng bộ, đa dạng về hình thức sở hữu phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo ra hiệu quả hơn trong sản xuất kinh doanh và góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển ngày càng cao hơn. Bốn là: Kinh tế du lịch mang tính thời vụ là chủ yếu. Các nước có ngành kinh tế du lịch phát triển sau thì đặc điểm này biểu hiện rất rõ, bởi vì các nước đi sau thường ứng dụng khoa học - công nghệ chưa được rộng rãi, chưa đủ điều kiện để khắc phục tác động của thiên nhiên đến quá trình sản xuất kinh doanh như: mưa, gió, bão, nóng, lạnh, lụt lội, hạn hán... sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, sản xuất không theo kịp thời vụ. Cho nên, chu kỳ kinh doanh hay bị gián đoạn đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm thu nhập, tăng chi phí phát sinh, cơ sở vật chất - kỹ thuật kinh doanh du lịch gối vụ không được sử dụng sẽ bị xuống cấp, hư hỏng; cán bộ, nhân viên trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong thời gian gối vụ thiếu việc làm, thu nhập thấp, nếu sử dụng không hợp lý họ sẽ bị mai một kiến thức và dễ chuyển công tác sang lĩnh vực khác. 1.1.2. Nguồn nhân lực kinh tế du lịch * Quan niệm về nguồn nhân lực kinh tế du lịch Nguồn nhân lực (nguồn lực con người) là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế phát triển từ những năm 80 của thế kỷ XX. Với ý nghĩa là nguồn lực con người, phản ánh sự đánh giá lại vai trò yếu tố con
  17. người trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện của thuật ngữ “Nguồn nhân lực” thể hiện sự công nhận của phương thức quản lý mới trong việc sử dụng nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh: trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực; thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân. Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực, song tựu chung đều đề cập đến các đặc trưng về số lượng, về chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới. Từ những phân tích trên, khái niệm nguồn nhân lực được hiểu như sau: nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội. Nguồn nhân lực là nguồn lực có tính chất quyết định đến sự thành bại của tổ chức, của địa phương, của quốc gia, khu vực và thế giới. Bất kể một tổ chức, một địa phương, các lĩnh vực và ngành kinh tế của một quốc gia, một khu vực và rộng ra cả thế giới dù mạnh hay yếu thì con người vẫn là yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các thay đổi cần thiết trong lực lượng lao động của mỗi quốc gia sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các doanh nhân nhận thức được và định hướng đúng sự phát triển nguồn nhân lực của mình, từ đó tận dụng các cơ hội và vượt qua thách thức do hội nhập quốc tế đưa lại. Nguồn nhân lực kinh tế du lịch. Nguồn nhân lực nói chung được chú ý phát triển, thu hút và sử dụng ở tất cả các tổ chức trong xã hội, tất cả các lĩnh vực, các vùng lãnh thổ, các ngành, các thành phần của quốc gia, của khu vực và thế giới. Xét về các lĩnh vực hoạt động trong phạm vi quốc gia, thì hoạt động kinh tế theo quan điểm
  18. mác xít - một lĩnh vực có vị trí là cơ sở của đời sống xã hội, thiếu nó xã hội sẽ không tồn tại được. Để duy trì và phát triển xã hội, hoạt động kinh tế diễn ra trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh tế trong các loại ngành nghề nêu trên. Nguồn nhân lực kinh tế du lịch là một bộ phận của nguồn nhân lực trong kinh tế dịch vụ. Từ sự phân tích quan niệm về nguồn nhân lực nói chung được vận dụng trong lĩnh vực kinh tế du lịch, chúng ta hiểu: Nguồn nhân lực kinh tế du lịch là lực lượng lao động hoạt động trong kinh tế du lịch, bao gồm lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp là những người làm việc trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các đơn vị sự nghiệp du lịch và các đơn vị kinh doanh du lịch; lao động gián tiếp là những lao động làm việc trong các ngành, các quá trình liên quan trực tiếp đến hoạt động du lịch như văn hoá, bưu chính viễn thông, hải quan, giao thông, thương mại, dịch vụ công cộng, môi trường… Nguồn nhân lực kinh tế du lịch Thủ đô Hà Nội là một bộ phận của nguồn nhân lực kinh tế du lịch cả nước, là lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia phát triển kinh tế du lịch, hoạt động chủ yếu trên địa bàn Thủ đô Hà Nội và các điểm du lịch nội địa, ngoài nước trong những khoảng thời gian nhất định. Trong luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về nguồn nhân lực trực tiếp hoạt động trong kinh tế du lịch. * Đặc điểm của nguồn nhân lực kinh tế du lịch Nguồn nhân lực kinh tế du lịch được chia thành ba nhóm lao động với những đặc điểm khác nhau: Thứ nhất: Nhóm lao động chức năng quản lý nhà nước về du lịch. Nhóm này có vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia và từng địa phương, tham mưu hoạch định chính sách phát triển du lịch. Họ đại diện cho Nhà nước để hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho các
  19. doanh nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả; kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh du lịch. Thứ hai: Nhóm lao động chức năng sự nghiệp kinh tế du lịch. Đây là bộ phận lao động có trình độ học vấn cao, có kiến thức chuyên sâu về ngành du lịch, có chức năng đào tạo, nghiên cứu khoa học về du lịch và có vai trò, sự tác động lớn đến chất lượng và số lượng của nguồn nhân lực kinh tế du lịch hiện tại và trong tương lai. Thứ ba: Nhóm lao động chức năng kinh doanh du lịch. Nhóm lao động này chiếm số lượng đông đảo nhất trong hoạt động của kinh tế du lịch và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Nhóm lao động chức năng kinh doanh có một số đặc điểm riêng là: Cơ cấu độ tuổi trẻ, tỷ lệ lao động nữ giới cao hơn so với lao động nam giới: Xuất phát từ tính đặc thù của kinh tế du lịch đòi hỏi phải có lực lượng lao động có sức khoẻ, trẻ trung và nhanh nhẹn, nên hình thành lực lượng lao động có cơ cấu độ tuổi trẻ. Nhiều lĩnh vực phục vụ khách du lịch như lễ tân, bàn, bar, buồng đòi hỏi có sự duyên dáng, cẩn thận và khéo léo của người phụ nữ, vì vậy tỷ lệ lao động nữ thường cao hơn lao động nam. Tính không đồng đều về chất lượng và cơ cấu: Có sự phân bố không đồng đều theo lãnh thổ và các nghiệp vụ du lịch. Xuất phát từ tính định hướng tài nguyên rõ nét của kinh tế du lịch, các hoạt động thường diễn ra tại các khu, điểm du lịch, những nơi có nhiều tài nguyên du lịch và được đầu tư đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, vì vậy phần lớn lao động đã qua đào tạo đều làm việc tại những khu du lịch, trung tâm du lịch lớn, ở những khu vực còn lại thường thiếu lao động. Trong kinh tế du lịch có nhiều công việc với yêu cầu lao động giản đơn, không đòi hỏi phải đào tạo ở trình độ cao mới thể hiện được, dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học khá cao. Ngược lại, ở những bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch, đội ngũ lao động thường
  20. được trang bị đầy đủ các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ, giao tiếp và tỷ lệ thông thạo ngoại ngữ tương đối cao. Có sự biến động mạnh về số lượng theo thời gian trong năm. Do ảnh hưởng của tính thời vụ du lịch các hoạt động du lịch thường diễn ra sôi động trong một thời gian nhất định của năm (còn gọi là mùa cao điểm), vào thời điểm cao điểm của mùa du lịch, các doanh nghiệp du lịch thường phải tuyển dụng thêm các lao động thời vụ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, phục vụ khách của mình. Đến mùa thấp điểm, doanh nghiệp du lịch chấm dứt hợp đồng lao động với những lao động thời vụ. Lực lượng lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp du lịch lại được chia thành bốn nhóm cơ bản với đặc điểm, vai trò khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch: Nhóm lao động chức năng quản lý chung: Nhóm này gồm những người đứng đầu các đơn vị kinh tế cơ sở (doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, hãng lữ hành du lịch, vận chuyển du lịch, là tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc hoặc các chức danh tương đương). Lao động của người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch có những điểm riêng biệt, bởi đối tượng, công cụ và sản phẩm lao động của họ có tính đặc thù, thể hiện là loại lao động trí óc đặc biệt: Trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định thể hiện rõ nét nhất đặc điểm lao động trí óc của người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Là loại lao động tổng hợp: Với tư cách là một nhà chuyên môn, lao động của lãnh đạo là lao động của người tìm kiếm nhân tài, sử dụng người giỏi, tổ chức và điều hành công việc một cách trôi chảy cho mục đích kinh doanh có hiệu quả cao. Với tư cách là nhà hoạt động xã hội, người lãnh đạo trong kinh doanh du lịch còn tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội khác trong đơn vị và theo yêu cầu của địa phương, ngành và đất nước (các tổ chức đoàn thể quần chúng, các hiệp hội khoa học, kinh tế, kinh doanh, chính trị, thể thao, văn hoá...). Đặc điểm này đòi hỏi người lãnh đạo phải được đào tạo chu đáo, bài bản, có bằng cấp về quản lý hoạt động du lịch.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2