intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

17
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ thực trạng phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam, đề xuất giải pháp nhằm phát triển các loại hình dịch vụ này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam

  1. §¹i häc Quèc gia Hµ néi Tr-êng §¹i häc kinh tÕ NguyÔn xu©n hoa ph¸t triÓn dÞch vô ng©n hµng hiÖn ®¹i ë viÖt nam luËn v¨n th¹c sü Kinh tÕ chÝnh trÞ Hµ Néi -2007
  2. §¹i häc Quèc gia Hµ néi Tr-êng §¹i häc kinh tÕ NguyÔn thÞ xu©n hoa ph¸t triÓn dÞch vô ng©n hµng hiÖn ®¹i ë ViÖt Nam Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ M· sè: 60 31 01 luËn v¨n th¹c sü Kinh tÕ chÝnh trÞ Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS. PhÝ M¹nh Hång Hµ Néi -2007
  3. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài: Dịch vụ ngân hàng là một trong những dịch vụ quan trọng trên thị trƣờng tài chính. Dịch vụ ngân hàng phát triển sẽ cho phép nền kinh tế huy động đƣợc các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, phân bổ và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Đồng thời dịch vụ ngân hàng phát triển lành mạnh sẽ là yếu tố đảm bảo cho ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trƣởng bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế tri thức, xu hƣớng đa dạng hoá và mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại là hƣớng đi tất yếu ở mọi quốc gia. Trên thế giới ngày nay, các NHTM đã, đang và luôn tìm mọi cách để tự đổi mới mình và vận động cùng với xu thế chung của thời đại. Hệ thống NHTM trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, ngày càng hiện đại hơn và mang tính chất đa năng với qui mô hoạt động xuyên quốc gia. Song song với việc duy trì, phát triển và hiện đại hoá các dịch vụ ngân hàng truyền thống, các NHTM trên thế giới đã mở ra hàng ngàn các loại hình dịch vụ ngân hàng mới có hàm lƣợng công nghệ cao nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hoá giá trị gia tăng cho các TCTD, khách hàng và xã hội. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ ngày càng sâu rộng. Hệ thống NHTMVN không thể tránh khỏi sự tác động của xu hƣớng toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, của nền kinh tế tri thức và làn sóng phát triển nhƣ vũ bão của hệ thống ngân hàng toàn cầu. Hệ thống NHTMVN muốn tồn tại và phát triển buộc phải đổi mới. Nhƣng đổi mới nhƣ thế nào? Chiến lƣợc ra sao? điều này sẽ quyết định sự sống còn của cả một hệ thống Ngân hàng
  4. 2 cũng nhƣ sự phồn vinh của cả một quốc gia. Đây là một bài toán khó đối với Chính phủ và các ngân hàng Việt Nam. Trên thực tế, trong những năm qua, Chính phủ đã có những chủ trƣơng lớn chỉ đạo thực hiện quá trình cải tổ, đổi mới và phát triển hệ thống NHTMVN. Một trong những chủ trƣơng đó là phát triển, mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại. Cho đến nay, mặc dù hoạt động cung ứng các dịch vụ ngân hàng ở Việt nam đã có tốc độ phát triển khá nhƣng theo đánh giá chung thì do xuất phát điểm thấp, qui mô và chất lƣợng các loại hình dịch vụ này còn hạn chế; các dịch vụ do các NHTMVN cung cấp chủ yếu vẫn là các dịch vụ truyền thống, quá trình đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng hiện đại diễn ra còn chậm. Ngay cả các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền thống cũng còn đơn điệu, các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu của ngƣời dân và các doanh nghiệp xuất hiện chƣa nhiều. Để lý giải nguyên nhân yếu kém đó, với mong muốn tìm ra các giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những khó khăn, tồn tại trƣớc mắt và thúc đẩy quá trình hiện đại hoá các dịch vụ ngân hàng theo hƣớng nâng cao tính cạnh tranh của hệ thống NHTMVN trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tôi xin chọn đề tài “ Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam” để nghiên cứu. 2.Tình hình nghiên cứu: Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam là một nhiệm vụ cấp bách, một yêu cầu tất yếu đối với hệ thống NHTMVN. Thực hiện tốt chiến lƣợc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn đối với cả các ngành, các tổ chức, các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Vì vậy, phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam đã trở thành một tiêu chí lớn đƣợc Chính phủ và nhà nƣớc quan tâm. Trên thực tế, về vấn đề này đã có khá nhiều công trình nghiên cứu dƣới nhiều giác độ khác
  5. 3 nhau. Các tác giả là các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, các nghiên cứu sinh thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng. Điển hình là các nhóm đề tài sau: Một là: Các công trình nghiên cứu chung nhất toàn bộ hoạt động dịch vụ của các NHTM nhƣ: - “Giải pháp phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng Việt nam trong bối cảnh hội nhập”-Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2005, bài viết của TS.Phạm Huy Hùng, Ngân hàng Công thƣơng VN. - “Giải pháp xây dựng chiến lƣợc phát triển dịch vụ ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”- Công trình khoa học 2005, của TS. Nguyễn Đức Thảo, Học viện Ngân hàng. - “Hệ thống ngân hàng Việt Nam: Đặc điểm và một số dịch vụ cơ bản”- Công trình khoa học năm 2005 của TS. Nguyễn Hồng Sơn, Viện kinh tế và chính trị thế giới. - … Nhóm đề tài này đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức tổng quan về dịch vụ NHTM và thực trạng của dịch vụ NHTM nói chung. Tuy nhiên, các đề tài này chƣa đi sâu vào phân tích thực trạng phát triển của các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại mà chỉ đề cập đến nhƣ là một định hƣớng cho phát triển dịch vụ NHTM nói chung . Hai là: Nhóm các đề tài nghiên cứu trực tiếp đến các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt nam nhƣ: - “Đánh giá tiềm năng phát triển thị trƣờng thẻ ở Việt nam” của Trần Thị Bích Phƣợng, Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam. - “Biện pháp mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt” của thạc sỹ Lƣu Thuý Mai, Ngân hàng Nhà nƣớc. - “Hoàn thiện khuôn khổ thể chế đối với dịch vụ ngân hàng hiện đại” của Tạ Quang Đôn, Vụ Pháp chế Ngân hàng Nhà nƣớc.
  6. 4 - “Những yếu tố quyết định chất lƣợng dịch vụ ngân hàng hiện đại” của Tô Ánh Dƣơng – Bùi Thu Thuỷ , Vụ Chiến lƣợc PTNH Ngân hàng Nhà nƣớc. - …. Các đề tài này đã phân tích về dịch vụ ngân hàng hiện đại nhƣng mới chỉ phân tích trong phạm vi một loại hình dịch vụ cụ thể hay chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định nào đó của dịch vụ ngân hàng hiện đại mà chƣa mở rộng và đề cập đến những vấn đề khác liên quan của dịch vụ ngân hàng hiện đại một cách có hệ thống. Các giải pháp đƣa ra chƣa mang tính đồng bộ, đặc biệt sát với tình hình thực tế hiện nay. Do vậy, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và tìm ra một hƣớng phát triển mới, phù hợp với bối cảnh hiện nay cho các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt nam. Vì vậy, với việc chọn đề tài “ Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở VN” làm luận văn thạc sỹ, trên cơ sở có kế thừa và phát triển những kết quả của các công trình đã đƣợc công bố, tác giả mong muốn hệ thống hoá một số vấn đề lý thuyết, góp phần lý giải thực trạng hoạt động dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam và đƣa ra những giải pháp để phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam góp phần khắc phục những yếu kém, trì trệ trong hoạt động dịch vụ NHTM hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ thực trạng phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam, đề xuất giải pháp nhằm phát triển các loại hình dịch vụ này. Nhiệm vụ nghiên cứu: Quá trình nghiên cứu luận văn làm sáng tỏ một số nội dung chủ yếu sau: - Phân tích xu hƣớng hình thành và phát triển dịch vụ ngân hàng mới trong hệ thống ngân hàng hiện đại trên thế giới.
  7. 5 - Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam trong thời gian qua - Đề xuất giải pháp phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế Việt Nam trên con đƣờng hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại trong các NHTM ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một cách tổng thể hoạt động dich vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM ở Việt Nam mà không đi vào cụ thể hoạt động dịch vụ ngân hàng hiện đại ở một NHTM duy nhất nào. Thời gian nghiên cứu: Chủ yếu tập trung nghiên cứu tình hình phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng hiện đại từ năm 2000 trở lại đây. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trên nền tảng của phƣơng pháp nghiên cứu tổng quát là phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn chú trọng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, logic lịch sử, đối chiếu, so sánh, phƣơng pháp thống kê, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Làm rõ thực trạng phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những vấn đề cần giải quyết và nguyên nhân. - Đƣa ra những định hƣớng và giải pháp nhằm phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại trong thời gian tới. 7. Bố cục của luận văn Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề chung về hệ thống dịch vụ ngân hàng hiện đại.
  8. 6 Chương 2: Thực trạng phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại ở VN. Chương 3: Định hƣớng và giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI. 1.1. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng, dịch vụ ngân hàng hiện đại. 1.1.1. Khái niệm về dịch vụ ngân hàng: Dịch vụ ngân hàng là một trong những loại hình dịch vụ chất lƣợng cao, có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, đời sống và quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cho đến nay, trong lĩnh vực nghiên cứu còn có những ý kiến không hoàn toàn trùng khớp nhau xung quanh khái niệm về dịch vụ ngân hàng, phân loại và nội hàm của các dịch vụ đó. Vậy thế nào là dịch vụ ngân hàng? dịch vụ ngân hàng và nghiệp vụ ngân hàng có phải là đồng nhất với nhau không? có gì khác nhau giữa “hoạt động ngân hàng” với dịch vụ ngân hàng? …Trả lời câu hỏi này là rất cần để có thể hiểu thế nào là dịch vụ ngân hàng. Cho đến nay chƣa có khái niệm chung nhất về dịch vụ tài chính. Tại Việt Nam trong các cuốn: Đại từ điển Kinh tế thị trƣờng, Từ điển kinh tế học, Từ điển Tài chính-Ngân hàng và Từ điển Tiếng Việt, …chƣa thấy đề cập đến hoặc đề cập chƣa rõ về khái niệm dịch vụ tài chính. Song dịch vụ tài chính thƣờng đƣợc nói đến gắn liền với ngân hàng. Tại Mỹ, NHTM đƣợc định nghĩa là công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành tài chính. Nhƣng tại Pháp thì NHTM đƣợc quy định là những ngân hàng hay cơ sở nào thƣờng xuyên nhận của công chúng dƣới hình thức ký thác hay những hình thức khác các khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính khác. Tại Ấn Độ thì khái niệm NHTM là ngân hàng nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tƣ… Còn tại Thổ Nhĩ Kỳ, NHTM đƣợc hiểu là một loại hình công ty
  9. 7 trách nhiệm hữu hạn đƣợc thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và hình thức vay mƣợn hay tín dụng khác. Nhƣ vậy dù ở quốc gia nào đi nữa, với các khái niệm hay quy định cụ thể khác nhau thì ngân hàng thƣờng gắn liền với các dịch vụ tài chính. Theo WTO, một dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính đƣợc một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Lĩnh vực dịch vụ tài chính trong GATS đƣợc chia thành 2 nhóm lớn đó là: nhóm một, bao gồm toàn bộ dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan tới bảo hiểm; nhóm hai, bao gồm toàn bộ dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). Nhóm đầu tiên bao gồm dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, tái bảo hiểm, trung gian bảo hiểm nhƣ môi giới và đại lý, các dịch vụ bổ trợ cho bảo hiểm nhƣ tƣ vấn và tính toán rủi ro. Hoạt động dịch vụ ngân hàng bao gồm tất cả các dịch vụ truyền thống do ngân hàng cung cấp nhƣ nhận tiền gửi, cho vay các loại, thanh toán và dịch vụ chuyển tiền. Các dịch vụ tài chính khác bao gồm mua bán ngoại hối và tất cả các loại chứng khoán, bảo lãnh chứng khoán, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, dịch vụ thanh toán và bù trừ, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, tƣ vấn và các dịch vụ tài chính bổ trợ khác. Như vậy, dịch vụ ngân hàng là một bộ phận cấu thành trong dịch vụ tài chính nói chung, được đặt trong nội hàm của khái niệm dịch vụ tài chính. Với cách đó, việc không tách bạch rạch ròi đƣợc đâu là dịch vụ ngân hàng vẫn làm phát sinh những khó khăn trong việc xác định những dịch vụ ngân hàng thuần tuý. Chỉ có một cách khắc phục là hỗn hợp và lƣỡng tính: Dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác( ngoại trừ bảo hiểm). Trong một số năm gần đây, với yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng trở nên khẩn trƣơng hơn, quan niệm về dịch vụ ngân hàng đã đƣợc đổi mới theo thông lệ quốc tế. Theo đó, khái niệm dịch vụ ngân hàng có thể được hiểu chung nhất đó là các công việc trung gian về tiền tệ của các tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo đảm an toàn, đem lại nguồn thu cho tổ chức cung ứng dịch vụ.
  10. 8 Trong cuốn sách “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại” của David Cox, chúng ta sẽ thấy quan niệm khá rõ ràng về dịch vụ ngân hàng của nƣớc Anh là: Hầu hết các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại đều gọi là dịch vụ ngân hàng hoặc là cơ sở, điều kiện để mở rộng và phát triển dịch vụ ngân hàng. Ở nƣớc ta đến nay, vẫn chƣa có sự minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ ngân hàng. Có không ít quan niệm cho rằng: Dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng của một trung gian tài chính (cho vay, huy động tiền gửi…), mà chỉ bao gồm những hoạt động không thuộc nội dung nói trên ( nhƣ chuyển tiền, uỷ thác, mua bán hộ, môi giới kinh doanh chứng khoán…). Một số khác lại cho rằng tất cả hoạt động ngân hàng phục vụ cho doanh nghiệp và công chúng đều là dịch vụ ngân hàng. Trong cuốn sách “phát triển thị trƣờng dịch vụ tài chính Việt nam trong tiến trình hội nhập” (NXH Tài chính, năm 2004) hai tác giả PGS.TS. Thái Bá Cẩn và TS.Trần Nguyên Nam cho rằng dịch vụ ngân hàng bao gồm 11 loại hình: Nhận tiền gửi; cung cấp các tài khoản giao dịch; quản lý tiền mặt; trao đổi ngoại tệ (dịch vụ ngoại hối); dịch vụ về tín dụng; dịch vụ uỷ thác; cho thuê tài chính; tƣ vấn tài chính; các dịch vụ bảo hiểm; môi giới đầu tƣ chứng khoán; dịch vụ quỹ tƣơng hỗ và trợ cấp. Theo một số tác giả, dịch vụ ngân hàng cần đƣợc hiểu theo hai khía cạnh: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, dịch vụ ngân hàng bao gồm toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối…. Quan niệm này phù hợp với cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của hiệp định thƣơng mại Việt nam-Hoa Kỳ, cũng nhƣ cách phân loại ở nhiều nƣớc phát triển. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoài chức năng của định chế tài chính trung gian huy động vốn và cho vay. Ở nƣớc ta lĩnh vực dịch vụ ngân hàng đƣợc Luật Các tổ chức tín dụng quy định, nhƣng không có định nghĩa và giải thích. Cụm từ “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” đƣợc bao hàm cả ba nội dung: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán, tại khoản 1 và
  11. 9 khoản 7, điều 20. Tuy nhiên đâu là kinh doanh tiền tệ và đâu là dịch vụ ngân hàng thì chƣa đƣợc phân định rõ ràng. Đây là một trong những bất cập của luật tổ chức tín dụng. Tại chƣơng III, khi đề cập đến hoạt động của tổ chức tín dụng, ngƣời ta đề cập đến 4 mục đích: (1) huy động vốn; (2) hoạt động tín dụng; (3) dịch vụ thanh toán và ngân quỹ; (4) các hoạt động khác (trong mục 4 có 3 điều: 74; 75; và 76 là dùng đến thuật ngữ dịch vụ). Các quy phạm nhƣ vậy sẽ đƣợc hiểu là: lĩnh vực dịch vụ ngân hàng không bao hàm các hoạt động huy động vốn, tín dụng…Hay nói cách khác, dịch vụ ngân hàng trong Luật này có nội hàm hẹp hơn cách hiểu về dịch vụ ngân hàng của WTO/GATS. Đây cũng là một bất cập của Luật Các tổ chức tín dụng. Cho dù chƣa có định nghĩa và giải thích trong Luật, Luật Thƣơng mại còn đƣa ra một danh mục trong đó liệt kê 13 dịch vụ thƣơng mại (vẫn chƣa đầy đủ), còn Luật Các tổ chức tín dụng chƣa đƣa ra đƣợc một danh mục nhƣ vậy. Dịch vụ ngân hàng trong đó chỉ bao gồm: Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ (Điều 65, mở tài khoản; Điều 66 dịch vụ thanh toán; Điều 67 dịch vụ ngân quỹ; Điều 68 tổ chức và tham gia hệ thống thanh toán); dịch vụ bảo hiểm (Điều 74.2); dịch vụ tƣ vấn (điều 75); các dịch vụ khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 76: bảo quản, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật). Nhƣ vậy, Điều 76 có cụm từ “liên quan đến hoạt động ngân hàng” và “các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật” là có tính chất hé mở, nhƣng lại chƣa mạnh dạn cho mở hẳn. Cách quy phạm nhƣ vậy có thể dẫn đến tình trạng làm chậm sự đổi mới trong nhận thức và chậm đổi mới tƣ duy pháp lý, tƣ duy thực tiễn, làm cho sự năng động sáng tạo của tổ chức tín dụng bị giới hạn, bị hạn chế khi muốn đƣa ra những sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng yêu cầu của công chúng. Đây là một bất cập khác của Luật Các tổ chức tín dụng. Nhƣ vậy, ở Việt Nam, dịch vụ ngân hàng vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, các qui định về hoạt động dịch vụ ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, trong luận văn này, dịch vụ ngân hàng đƣợc hiểu theo nghĩa rộng phù hợp với cách hiểu của WTO, theo đó, toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ
  12. 10 ngân hàng đƣợc các NHTM cung ứng cho nền kinh tế đều gọi là dịch vụ ngân hàng. 1.1.2. Dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Chúng ta có thể thấy rõ là, nếu nhƣ trƣớc đây, chức năng cơ bản của một ngân hàng thƣơng mại chỉ là: nhận, giữ và cho vay bằng các khoản dƣ tiền gửi của khách hàng, đồng thời cho phép rút tiền hoặc chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác, thì ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các ngân hàng đã tiến xa so với xuất xứ ban đầu của các ngân hàng thợ vàng London thế kỷ XI. Trong khi một số ngân hàng chuyên đáp ứng các nhu cầu của một nhóm khách hàng đặc biệt nhƣ các công ty hoặc ngƣời tiết kiệm nhỏ thì các ngân hàng thanh toán bù trừ lại cung cấp một loạt các dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về tài chính của tất cả các loại khách hàng, từ chủ tài khoản tƣ nhân nhỏ nhất đến các công ty lớn nhất. Từ mỗi một loại hình dịch vụ ngân hàng đầu tiên đã hình thành nên rất nhiều hình thức, cách thức dịch vụ ngân hàng khác nhau rộng rãi hơn, tinh vi hơn, thoả mãn kịp thời mọi nhu cầu về dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Các dịch vụ này đƣợc phân loại ra các nhóm chính sau: Tiền gửi và tiền tiết kiệm; cho vay ứng trƣớc; dịch vụ chuyển tiền; các dịch vụ tài chính và tƣ vấn; các dịch vụ đối ngoại. Trong thực tế, ngày nay thực sự ngân hàng đã trở thành “bách hoá tài chính”, hay có ngƣời còn gọi là “siêu thị dịch vụ ngân hàng” ở kỷ nguyên hiện đại. Tuỳ theo cách phân loại ngƣời ta thống kê đƣợc rằng một ngân hàng bán lẻ lớn thƣờng có khoảng ít nhất là 300 dịch vụ khác nhau cho khách hàng là cá nhân hay doanh nghiệp, song có ngƣời lại cho rằng phải có tới 3.000 thậm chí 6000 dịch vụ tài chính khác nhau. David Cox đã phân loại dịch vụ ngân hàng hiện đại theo 3 loại khách hàng phục vụ đó là: dịch vụ ngân hàng cho khách hàng cá nhân, dịch vụ ngân hàng cho khách hàng doanh nghiệp, dịch vụ ngân hàng cho các nhà xuất khẩu và nhập khẩu. Trong mỗi loại hình dịch vụ cho từng loại đối tƣợng khách hàng đó, lại có rất nhiều các loại hình dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mỗi loại khách hàng. Chẳng hạn nhƣ: i/ Dịch vụ cho khách hàng cá nhân có 14 loại hình dịch vụ: 1.Thẻ séc; 2. Tín dụng mở; 3. Thẻ tín dụng ( credit card); 4. Máy rút tiền tự động (ATM-
  13. 11 Auto Teller merchine); 5. Dịch vụ ngân hàng tại gia; 6. Các dịch vụ lữ hành; 7. Mua trả góp; 8. Quản lý đầu tƣ cho khách hàng; 9. Dịch vụ bảo quản và ký gửi; 10. Điều tra thân thế khách hàng; 11. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; 12. Dịch vụ quản lý tín thác; 13. Dịch vụ về thuế; 14. Đảm bảo đền bù ii/ Dịch vụ ngân hàng cho khách hàng doanh nghiệp có 7 loại hình dịch vụ cụ thể: Bảo lãnh; chuyển tiền; giao dịch với nƣớc ngoài; đầu tƣ; bảo hiểm; kế toán; tƣ vấn với trên 20 dịch vụ cụ thể. iii/ Dịch vụ ngân hàng dành cho các nhà xuất nhập khẩu nhƣ: Các dịch vụ điều tra về mậu dịch (tìm kiếm thị trƣờng và đại lý ở nƣớc ngoài); thông tin về tín nhiệm; các dịch vụ lữ hành; chuyển ngoại tệ; mua bán ngoại tệ; dịch vụ thanh toán quốc tế; dịch vụ tài trợ cho nhà xuất nhập khẩu… Nhƣ vậy, ngày nay với sự phát triển đa năng của một NHTM hiện đại, thì ngân hàng là một định chế tài chính có nhiều sản phẩm dịch vụ nhất. Những quan niệm về mô hình, chức năng, các loại hình dịch vụ của ngân hàng đã có bƣớc phát triển vƣợt bậc. Chúng ta có thể mô phỏng về chức năng của NHTM hiện đại nhƣ sau:
  14. 12 MÔ HÌNH TỔNG QUÁT CHỨC NĂNG NHTM HIỆN ĐẠI Chøc n¨ng uû th¸c Chn¨ng Chøc n¨ng m«igiíi tÝn dông KD CK Ch n¨ng Ch n¨ng t- vÊn, tµi Qlý trî dù ¸n TiÒn mÆt NHTM HiÖn ®¹i Chøc n¨ng Chn¨ng b¶o hiÓm thanh to¸n Ch n¨ng Chøc ®Çu t- vµ n¨ng b¶o l·nh …. Ch n¨ng lËp KH ®Çu t- Dịch vụ ngân hàng giờ đây bao gồm các mảng dịch vụ lớn khác nhau bao gồm: dịch vụ ngân hàng truyền thống; dịch vụ ngân hàng hiện đại; các dịch vụ ngân hàng phái sinh, song hành, bổ trợ.. Việc phân biệt dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng hiện đại chỉ mang tính tƣơng đối. Không phải mọi hình thức, cách thức của sản phẩm dịch vụ truyền thống đều là sản phẩm dịch vụ “cũ” bởi lẽ ngay bản thân sản phẩm dịch vụ này ngày nay cũng đƣợc cải tiến, phát triển và mở rộng
  15. 13 thêm các sản phẩm mới, sản phẩm bổ sung, hay sản phẩm phái sinh… theo hƣớng hoàn chỉnh hơn trên nền công nghệ hiện đại, gọn về thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch. Các NHTM đã hƣớng tới việc xuất phát từ nhu cầu của khách hàng hơn là áp đặt sản phẩm mà mình có. Do vậy, các tiêu chí xác định sản phẩm dịch vụ mới phải phản ánh đƣợc quá trình phát triển của các hoạt động dịch vụ, các giai đoạn của vòng đời của các sản phẩm dịch vụ…, nghĩa là phản ánh tính động của cái gọi là sản phẩm dịch vụ mới, hiện đại. Các tiêu chí để phân loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại phải thoả mãn các tiêu chí nhƣ sau: CÁC TIÊU CHÍ PHÂN LOẠI DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI S¶n phÈm DVNH s¶n phÈm dvnh TruyÒn thèng(cò) hiÖn ®¹i §· ®-îc thùc hiÖn Míi ®-îc triÓn khai trong trong h®éng cña NH nhiÒu n¨m. Sö dông trªn nÒn c«ng §ang trong giai ®o¹n ®Çu nghÖ cò cña mét sp dvô Quen thuéc víi kh¸ch Sö dông c«ng nghÖ míi, hµng hiÖn ®¹i Thuéc giai ®o¹n cuèi trong §em l¹i nhiÒu tiÖn Ých vßng ®êi mét s¶n phÈm míi. Theo các tiêu chí phân loại nhƣ trên, dịch vụ ngân hàng truyền thống là các dịch vụ cơ bản, được thực hiện trong nhiều năm, quen thuộc với khách hàng. Còn dịch vụ ngân hàng hiện đại là các dịch vụ ngân hàng mới, có hàm lượng công nghệ cao, đem lại các tiện ích mới cho khách hàng. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại thƣờng là các dịch vụ gắn liền với sự phát triển, tiến bộ của công nghệ hiện đại. Sự phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại không hoàn toàn là sự thay thế các sản phẩm truyền thống mà nó vẫn mang tính kế thừa, phát triển, thậm chí là sự nâng cấp các sản phẩm truyền thống. Nhƣng với các
  16. 14 sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại thì những quan hệ giao dịch trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng mờ dần đi, thay thế vào đó là Homebanking, Internetbanking, phonebanking… Với cách tiếp cận nhƣ vậy chúng ta có thể hệ thống những dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ mới phát triển theo xu hƣớng ngân hàng hiện đại nhƣ sau: Dịch vụ ngân hàng truyền thống và những sản phẩm dịch vụ phái sinh: Cvay đồng tài trợ các dự án Dịch vụ phái sinh lớn Cvay tiêu dùng, cvay trả Dịch vụ cho vay góp… Cho thuê tài chính... Tkiệm bậc thang, tk dự thƣởng Dịch vụ phái sinh Tkiệm lĩnh lãi định kỳ…. Nhận tiền gửi Gửi tiền tự động…. Mua bán có kỳ hạn (Forward) Dịch vụ phái sinh Hoán đổi ngoại tệ (Swaps) Mua bán ng.tệ H.đồng quyền chọn (Options) Dịch vụ cho vay: Là quan hệ chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. Trƣớc đây, dịch vụ cho vay của các NHTM chủ yếu chỉ tập trung cho vay các hiệp hội kinh doanh lớn. Sản phẩm cho vay truyền thống chủ yếu là cho vay ngắn hạn, trung dài hạn, lãi suất cao. Ngày nay, các ngân hàng đã chú trọng đến nhóm khách hàng cá nhân; sản phẩm cho vay đa dạng hơn. Bên
  17. 15 cạnh các sản phẩm cho vay truyền thống các NHTM đã triển khai hàng loạt các sản phẩm mới nhƣ: cho vay đồng tài trợ các dự án lớn, cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay trả góp, cho thuê tài chính, cho vay nông nghiệp… Dịch vụ nhận tiền gửi: Là một trong những dich vụ chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác nhƣ cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Trƣớc đây, dịch vụ nhận tiền gửi chủ yếu là các tài khoản tiền gửi hay loại hình tiết kiệm với tính năng cứng nhắc, chỉ giao dịch một chiều, không linh hoạt. Ngày nay, đã có hàng chục loại hình sản phẩm mới với tính năng linh hoạt hơn nhƣ: tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn; tiền gửi tự động; tiết kiệm không kỳ hạn. có kỳ hạn; tiết kiệm dự thƣởng; tiết kiệm bậc thang; tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ, đầu kỳ, cuối kỳ, kỳ phiếu; trái phiếu; chứng chỉ tiền gửi… Dịch vụ mua bán ngoại tệ: Là một trong những dich vụ chủ yếu của NHTM. Từ dịch vụ đổi tiền đơn giản ban đầu, dịch vụ mua bán ngoại tệ đã phát triển thêm các dịch vụ mới nhƣ : Giao dịch giao ngay ngoại tệ (Currency spot transations); giao dịch kỳ hạn ngoại tệ (Currency Forward transaction); giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Currency Swaps transations); giao dịch quyền chọn ngoại tệ (Currency Options transactions)… Bên cạnh các dịch vụ mũi nhọn trên, ngân hàng truyền thống còn triển khai thực hiện một số các dịch vụ sau: Bảo quản vật có giá; tài trợ các hoạt động của chính phủ; cung cấp dịch vụ uỷ thác. Các dịch vụ song hành – dịch vụ bổ trợ : Là các dịch vụ đƣợc NHTM cung cấp theo hình thức bán chéo sản phẩm. Ngoài những dịch vụ cơ bản, NHTM còn cung cấp thêm các dịch vụ khác đáp ứng các nhu cầu tài chính khác nữa của khách hàng. Thông thƣờng các dịch vụ song hành-dịch vụ bổ trợ bao gồm các dịch vụ sau: kinh doanh bảo hiểm; kinh doanh chứng khoán – môi giới; tự doanh; bảo lãnh phát hành; quản lý tiền mặt; quản lý danh mục đầu tƣ, tƣ vấn tài chính và đầu tƣ; lƣu ký; bảo quản tài sản; dịch vụ quản lý tài
  18. 16 sản theo uỷ quyền của khách hàng; kinh doanh vàng; giữ bí mật về các khoản đầu tƣ của khách hàng… Các dịch vụ ngân hàng hiện đại: Các dịch vụ: tài trợ tiêu dùng; tƣ vấn tài chính; quản lý ngân quỹ; dịch vụ cho thuê tài chính; tài trợ dự án; cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; cung cấp các kế hoạch hƣu trí; cung cấp dịch vụ môi giới đầu tƣ chứng khoán; cung cấp dich vụ quỹ tƣơng hỗ và trợ cấp; cung cấp dịch vụ đầu tƣ, dịch vụ kinh doanh chứng khoán và dịch vụ ngân hàng bán buôn; cung cấp các dịch vụ ngân hàng quốc tế đều là các dịch vụ mới phát triển theo xu hướng ngân hàng hiện đại. Nhƣng xét theo tính thời sự và trào lƣu thì hiện tại, trên thế giới, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng trực tuyến, ngân hàng di động, dịch vụ ngân hàng tự động-dịch vụ thẻ với máy rút tiền tự động ATM (Auto Teller Machines) là những sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại đang lên ngôi. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Bank Online): Với những tiện ích vƣợt trội, khách hàng có thể mở tài khoản ở một nơi nhƣng thực hiện giao dịch ở bất kỳ chi nhánh nào thuộc hệ thống NHTM đó trên toàn quốc. Những tiện ích đó đƣợc khai thác áp dụng cho toàn bộ các sản phẩm chuyển tiền, tiền gửi, tiền vay, đầu tƣ dài hạn vào giấy tờ có giá. Đây là những dịch vụ hiện đại đƣợc đánh giá là hệ thống an toàn về chất lƣợng cung ứng dịch vụ, tiện lợi trong giao dịch, hiệu quả trong kinh doanh, kinh tế trong đầu tƣ lĩnh vực công nghệ. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến là tiền đề cho sự phát triển của dịch vụ thẻ, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng cung cấp và hỗ trợ khách hàng sử dụng các phƣơng tiện thanh toán điện tử. Dịch vụ ngân hàng điện tử: Là khả năng của một khách hàng có thể truy cập từ xa vào một ngân hàng nhằm: thu thập các thông tin; thực hiện các giao dịch thanh toán, tài chính dựa trên tài khoản lƣu ký tại ngân hàng đó; và đăng ký sử dụng các dịch vụ mới. Đây là một khái niệm rộng dựa trên khả năng của từng ngân hàng trong việc ứng dụng công nghệ tin học vào các sản phẩm dịch vụ của mình. Nói cách khác, dịch vụ ngân hàng điện tử là một hệ thống phần mềm vi tính cho phép khách hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ ngân hàng thông qua việc kết nối mạng máy vi tính của mình với ngân hàng.
  19. 17 Các dịch vụ ngân hàng điện tử: *- Call centre: Do quản lý dữ liệu tập trung nên khách hàng có tài khoản tại bất kỳ chi nhánh nào vẫn gọi về một số điện thoại cố định của trung tâm này để đƣợc cung cấp mọi thông tin chung và thông tin cá nhân. Khác với Phone banking cung cấp các loại thông tin lập trình sẵn, Call centre có thể linh hoạt cung cấp thông tin hoặc trả lời các thắc mắc của khách hàng. Nhƣợc điểm của Call centre là phải có ngƣời trực 24/24 giờ. *- Phone banking: Là loại sản phẩm cung cấp thông tin ngân hàng qua điện thoại hoàn toàn tự động. Do tự động nên các loại thông tin đƣợc ấn định trƣớc, bao gồm thông tin về tỷ giá hối đoái, lãi suất, giá chứng khoán, thông tin cá nhân cho khách hàng nhƣ số dƣ tài khoản, liệt kê năm giao dịch cuối cùng trên tài khoản, các thông báo mới nhất…Hệ thống cũng tự động gửi fax khi khách hàng yêu cầu cho các loại thông tin nói trên. Hiện nay qua Phone banking, thông tin đƣợc cập nhật, khác với trƣớc đây khách hàng chỉ có thông tin cuối ngày hôm trƣớc. *- Mobile banking: Là hình thức thanh toán trực tuyến qua mạng điện thoại di động, song hành với phƣơng thức thanh toán qua mạng Internet, ra đời khi mạng lƣới Internet phát triển đủ mạnh vào khoảng thập niên 90. Phƣơng thức này đƣợc ra đời nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán các giao dịch có giá trị nhỏ (Micro- payment) hoặc những dịch vụ tự động không có ngƣời phục vụ. Muốn tham gia dịch vụ này, khách hàng cần đăng ký để trở thành thành viên chính thức trong đó quan trọng là cung cấp những thông tin cơ bản nhƣ: số điện thoại di động, tài khoản cá nhân dùng trong thanh toán. Sau đó, khách hàng đƣợc nhà cung ứng dịch vụ thanh toán qua mạng này cung cấp một mã số định danh (ID). Mã số này (không phải số điện thoại) sẽ đƣợc chuyển thành mã vạch để dán lên điện thoại di động, giúp cho việc cung cấp thông tin khách hàng khi thanh toán nhanh chóng, chính xác và đơn giản hơn tại các thiết bị đầu cuối của điểm bán hàng hay cung ứng dịch vụ. Cùng với mã số định danh, khách hàng còn đƣợc cấp một mã số xác nhận (PIN- Personal Identify Number) để xác nhận giao dịch thanh toán khi nhà cung cấp dịch vụ thanh toán yêu cầu. Sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết thì khách
  20. 18 hàng sẽ là thành viên chính thức và đủ điều kiện để thanh toán thông qua điện thoại di động. *- Home banking: Với ngân hàng tại nhà (Home banking), khách hàng giao dịch với ngân hàng qua mạng nhƣng là mạng nội bộ (Intranet) do ngân hàng này xây dựng riêng. Các giao dịch đƣợc tiến hành tại nhà thông qua hệ thống máy tính nối với hệ thống máy tính của ngân hàng. Thông qua dịch vụ Home banking, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch về chuyển tiền, liệt kê giao dịch, tỷ giá, lãi suất, báo nợ, báo có…Để sử dụng đƣợc dịch vụ Home banking khách hàng chỉ cần có máy tính (tại nhà hoặc trụ sở) kết nối với hệ thống máy tính của ngân hàng thông qua modem đƣờng điện thoại quay số, đồng thời khách hàng phải đăng ký số điện thoại và chỉ những số điện thoại này mới đƣợc kết nối với hệ thống Home banking của ngân hàng. *- Internet banking: Dịch vụ Internet banking giúp khách hàng chuyển tiền trên mạng thông qua các tài khoản cũng nhƣ kiểm soát hoạt động của các tài khoản này. Để tham gia, khách hàng truy cập vào Website của ngân hàng và thực hiện giao dịch tài chính, truy cập thông tin cần thiết. Khách hàng cũng có thể truy cập vào các Website khác để mua hàng và thực hiện thanh toán với ngân hàng. Tuy nhiên, khi kết nối Internet thì ngân hàng phải có hệ thống bảo mật đủ mạnh để đối phó với rủi ro trên phạm vi toàn cầu. Đây là trở ngại lớn vì đầu tƣ hệ thống bảo mật rất tốn kém. *- Dịch vụ ngân hàng tự phục vụ: Sử dụng dịch vụ này khách hàng sẽ thao tác với các máy giao dịch tự phục vụ, đó là những máy ATM (Auto Teller Machines) với nhiều chức năng, cho phép khách hàng rút tiền từ tài khoản, nộp tiền vào tài khoản, kiểm tra số dƣ, chuyển khoản, vay đầu tƣ cổ phiếu, mở tài khoản, phát hành séc, cung cấp cũng nhƣ truy cập thông tin…Ở các nƣớc phát triển các máy ATM có chức năng gần bằng một chi nhánh ngân hàng. Trên cơ sở các dịch vụ ngân hàng điện tử này các ngân hàng có thể triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại khác nhƣ:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2