intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

85
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đưa ra những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín trong thời gian tới. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của Luận văn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LÊ TUẤN TÚ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LÊ TUẤN TÚ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN MINH KHẢI HÀ NỘI – 2014
  3. 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Bình quân BQ Cộng hòa liên bang CHLB Công nghiệp CN Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNH-HĐH Đơn vị tính ĐVT Tổng sản phẩm quốc nội GDP Hội đồng nhân dân HĐND Hợp tác xã HTX Luận án tiến sĩ LATS Làng nghề LN Làng nghề truyền thống LNTT Thủ công nghiệp TCN Trách nhiệm hữu hạn TNHH Tiểu thủ công nghiệp TTCN Triệu đồng tr.đ Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN Sản xuất kinh doanh SXKD
  4. 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 10 Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Khái niệm và vai trò của làng nghề 10 1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến 17 phát triển làng nghề 1.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề một số địa phương và 25 bài học kinh nghiệm cho Thường Tín Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 34 THƯỜNG TÍN TRONG NHỮNG NĂM QUA 2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát 34 triển làng nghề ở huyện Thường Tín 2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt 39 ra về phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN 59 LÀNG NGHỀ THƯỜNG TÍN 3.1. Phương hướng phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín 59 3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển làng nghề tại 61 huyện Thường Tín KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
  5. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nông thôn Việt Nam đã tồn tại những làng nghề truyền thống có bề dày lịch sử hàng trăm năm, và với nhiều loại sản phẩm nổi tiếng bởi tính độc đáo và độ tinh xảo cao. Làng nghề truyền thống và sản phẩm của nó tạo nên bản sắc riêng, do vậy việc giữ gìn, kế thừa, hiện đại hoá ngành nghề truyền thống có ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và văn hoá. Trong lịch sử lâu dài, trong hiện tại cũng như trong tương lai các làng nghề truyền thống có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế của nông thôn. Nó có ý nghĩa đặc biệt đối với phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội nông thôn theo hướng CNH- HĐH đất nước. Các làng nghề truyền thống đã thu hút được một khối lượng lớn lao động cho xã hội, góp phần tích cực vào việc giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động. Thường Tín là huyện thuộc châu thổ sông Hồng, nằm ở phía nam thủ đô Hà Nội từ xưa đã nổi tiếng với rất nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như: tiện Nhị Khê, thêu Quất Động, sơn mài Duyên Thái, điêu khắc Nhân Hiền, bông len Trát Cầu.... Từ năm 1986, chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các làng nghề truyền thống dần dần được hồi sinh. Nhiều làng trở thành làng nghề mới như: làng nghề mộc Vạn Điểm, bông len Trát Cầu, thêu ren Thắng Lợi, Dũng Tiến…. Hiện nay Thường Tín có 126 làng nghề (làng cổ) trong đó đã có 46 làng nghề đã được UBND tỉnh Hà Tây và UBND Thành phố Hà Nội công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề đã tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân vùng nông thôn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá của huyện.
  6. 5 Được may mắn phụ trách và làm việc tại Phòng Công thương trước đây, nay là Phòng Kinh tế của huyện Thường Tín, tôi đã có nhiều năm gắn bó với các làng nghề, cùng trăn trở nghiên cứu tìm giải pháp để đẩy mạnh ngành nghề thủ công của huyện, nâng cao thu nhập, đời sống người thợ và ít nhiều cũng đã đóng góp cho sự phát triển hiện nay các làng nghề của huyện. Vì thế tôi chọn đề tài: “Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Làng nghề là mảng đề tài không phải quá mới mẻ nên đã có nhiều nghiên cứu liên quan tới đề tài. a. Các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài ở nước ngoài Awgichew, “Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển các làng nghề”, 2010. Bài nghiên cứu của tác giả trong Hội thảo quốc tế về các chính sách phát triển làng nghề đã đề cập tới các kinh nghiệm của Chính phủ Ethiopia trong việc chú trọng nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng giúp các làng nghề phát triển. Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng (Trung Quốc), Dự án: “Tìm hiểu và Thương mại hóa nghề thủ công ở tỉnh Vân Nam”, 2011. Dự án đã đưa ra biện pháp cải thiện thu nhập của phụ nữ ở huyện miền núi Malutang bằng cách thương mại hóa sản phẩm thêu truyền thống. b. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan tới đề tài Bùi Văn Vượng, “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”, NXB Thống kê, 1998. Tác giả đã tập trung trình bày các loại hình làng nghề truyền thống như: đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm, trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây tre đan, ngọc trai, làm trống. Ở đây chủ yếu
  7. 6 giới thiệu lịch sử, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết nghề, thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật của các nghệ nhân và các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Dương Bá Phượng, “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, HĐH”, NXB Thống kê, 2001. Tác giả đã đề cập khá đầy đủ từ lý luận đến thực trạng của làng nghề: từ đặc điểm, khái niệm, con đường và điều kiện hình thành làng nghề, tập trung vào một số làng nghề ở một số tỉnh với các quan điểm, giải pháp và phương hướng nhằm phát triển các làng nghề trong CNH, HĐH. Tập thể tác giả Học Viện Tài Chính, đề tài khoa học “Hoàn thiện các giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng”, 2004. Đề tài tập trung làm rõ lý luận về làng nghề ở nông thôn, đánh giá thực trạng phát triển làng nghể ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng và đi sâu vào các giải pháp kinh tế, tài chính nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống này. “Nghiên cứu qui hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng CNH nông thôn Việt Nam” của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002) đã đạt được một số kết quả sau: + Lập bản đồ ngành nghề thủ công trên toàn quốc. + Đánh giá hiện trạng các mặt hàng thủ công như: cói, sơn mài, chạm khắc đá... + Đánh giá hiện trạng các vấn đề nguyên liệu, điều kiện làm việc, tài chính, vốn... + Đặc biệt, đưa ra vấn đề hỗ trợ của chính phủ cho sản xuất nghề thủ công truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Sự hỗ trợ trên các phương diện: hỗ trợ trực tiếp vốn, hỗ trợ gián tiếp về thực hiện thương mại bình đẳng, năng lực quản lý kinh doanh.
  8. 7 GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh, “Phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng”, 2005. Tác giả đã phân tích vai trò của làng nghề và những nhân tố tác động đến sự phát triển của làng nghề. Dựa trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề đề tài đã đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề ở đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Từ đó, đề xuất hệ quan điểm và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của các làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới. Liên Minh, “Một số vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề’ tại Hội thảo ‘Nghề và làng nghề thủ công truyền thống: Tiềm năng và định hướng phát triển’ được tổ chức tại Thành phố Huế (6/2009). Ông đã đưa ra được những nhận định về việc bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công truyền thống nói chung ở Việt Nam và chủ trương, chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong lĩnh vực này. Đồng thời, ông đã đưa ra những quan điểm; mục tiêu; định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề theo vùng lãnh thổ; nội dung bảo tồn và phát triển làng nghề và một số giải pháp thực hiện bảo tồn và phát triển làng nghề. Tuy nhiên, hạn chế của bài viết chỉ nêu khái quát tình hình mà chưa có nghiên cứu sâu về thực trạng các làng nghề. Do đó, các giải pháp đưa ra cũng chỉ mang tính định hướng là chính mà không có tính chiến lược cho từng địa phương cụ thể. - Mai Thế Hởn với đề tài " Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH,HĐH vùng ven thủ đô", LATS trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2000. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH. Đồng thời luận án cũng nghiên cứu kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền
  9. 8 thống tại các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở này, luận án đánh giá thực trạng phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH vùng ven thủ đô từ năm 1994 – 1999 và đề xuất giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trong thời gian từ 2000 – 2005. - Trần Minh Yến với đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH", LATS trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2003. Luận án cũng đã trình bày đầy đủ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH. Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển làng nghề trong giai đoạn từ 1997 – 2002 tại nông thôn Việt Nam, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề nông thôn trong quá trình CNH, HĐH. Nguyễn Trọng Tuấn : "Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", LVTHS kinh tế, năm 2006. Luận văn đã trình bày đầy đủ những vấn đề lý luận cơ bản về nghề truyền thống. Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển nghề truyền thống trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ 2000 - 2005, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát triển nghề truyền thống trong quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế. - Trần Văn Chăm: "Tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong quá trình CNH, HĐH", LVTHS kinh tế năm 2006. Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng tiểu thủ công nghiệp. Trên cơ sở này, luận văn đánh giá thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bản tỉnh Bắc Ninh trong quá trình CNH, HĐH và đề xuất giải pháp phát triển tiểu thủ công nghiệp trong thời gian tới. Ngoài ra, trong nước và trên thế giới còn có nhiều bài báo khoa học, báo cáo nghiên cứu về làng nghề và phát triển làng nghề.
  10. 9 Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành.. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín trong thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về làng nghề và phát triển làng nghề - Đánh giá thực trạng phát triển các làng nghề ở huyện Thường Tín, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế. - Đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần phát triển các làng nghề trên địa bàn huyện Thường Tín thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Phát triển làng nghề trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. * Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu làng nghề về phát triển làng nghề trong phạm vi huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 2008 cho tới nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính trị, gồm: Phương pháp trừu tượng học, phương pháp thống kê, phân tích, điều
  11. 10 tra xã hội học, phương pháp hệ thống hóa, mô hình hóa và đồ thị, phương pháp chuyên gia,…. 6. Ý nghĩa của đề tài - Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa được các vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề nói chung và làng nghề huyện Thường Tín nói riêng. - Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc đánh giá phân tích thực trạng phát triển làng nghề tại huyện Thường Tín, Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp giúp các nhà quản lý tại huyện trong thời gian tới. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn gồm 3 chương
  12. 11 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Khái niệm và vai trò của làng nghề 1.1.1. Khái niệm làng nghề Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời và gắn chặt với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Thông thường các làng xã ban đầu sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển của xã hội, một số nghề phụ trong các gia đình đã phát triển và dần dần hình thành làng nghề. Ngày nay, ở nhiều địa phương bên cạnh làng nghề truyền thống (LNTT) còn có những làng nghề (LN) mới. Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về LN cũng như các quy định khác nhau về tiêu chuẩn để công nhận LN giữa các địa phương trong nước. Khái quát chung lại thì LN được hiểu là những làng ở nông thôn có một hay một số nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng thu nhập so với nghề nông. Trong quá trình phát triển của kinh tế thị trường, ngày nay LN không bị bó hẹp trong phạm vi một làng mà chúng lan toả ra thành nhiều làng, xã, vùng cùng sản xuất các ngành nghề thủ công. Mặt khác ngành nghề ở các LN cũng được mở rộng và phát triển cả về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống con người với các loại hình sản xuất kinh doanh (SXKD) chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Các thành phần kinh tế không còn phổ biến là các hộ gia đình mà đã đa dạng các thành phần, các tổ chức kinh tế như các tổ hợp, hợp tác xã, các loại hình doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Có nhà nghiên cứu cho rằng "Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành
  13. 12 bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa". Có nhà nghiêu cứu định nghĩa "Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình” [54, tr.1]. Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hoá nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc. Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng ở đó có số người chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng dân số của làng. Tiêu chí để xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là: Thứ nhất, số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công chiếm từ 40- 50%. Thứ hai, thu nhập từ nghề thủ công chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của làng . Tuy nhiên những tiêu chí trên không phải là tuyệt đối mà chỉ có ý nghĩa tương đối về mặt định lượng. Bởi vì ở mỗi làng nghề bao giờ cũng có sự khác nhau về quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm và số người tham gia vào trong quá trình sản xuất. Do vậy sự phát triển của các làng nghề thường khác nhau và có những biến động khác nhau trong từng thời kỳ. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phân công lao động đã phát triển ở mức độ cao hơn thì khái niệm làng nghề cũng được
  14. 13 mở rộng hơn, nó không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ chuyên làm nghề thủ công. Điều này có thể hiểu dưới hai góc độ: Thứ nhất là, công nghệ sản xuất không hoàn toàn là công nghệ thủ công như trước đây, mà ở nhiều làng nghề đã áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ khí. Thứ hai là, trong các làng nghề khi sản xuất phát triển ở mức độ cao hơn thì sẽ làm nảy sinh sự phát triển của nhiều nghề khác nhằm phục vụ cho nó. Do vậy, xuất hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ và cơ sở sản xuất chuyên làm nghề thủ công, từ đó hình thành và phát triển những làng nghề với mô hình kết hợp nhiều nghề. Chẳng hạn như ở Ninh Hiệp xuất hiện thêm nhiều nghề mới ngoài những nghề truyền thống và dần dần hình thành nên một mô hình kết hợp nông- công- thương - dịch vụ. Tóm lại, khái niệm làng nghề cần được hiểu là một cụm dân cư sinh sống trong một làng (thôn, tương đương thôn) thuộc các xã, phường, thị trấn, có hoạt động sản xuất kinh doanh các ngành nghề ở từng hộ gia đình hoặc các cơ sở trong làng , sử dụng các nguồn lực trong và ngoài địa phương sản xuất và kinh doanh một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau, phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ yếu của một bộ phận người dân trong làng (những làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, lao động và tỷ trọng thu nhập so với nghề nông). LN mới được hình thành trên cơ sở phát triển lan toả của nghề truyền thống, việc truyền nghề, nhận cấy nghề mới sang các làng xã khác. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và phát triển kinh tế thị trường đã hình thành các LN hiện đại, SXKD đa dạng, kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đó chính là những LN mới ra đời trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
  15. 14 Nghề truyền thống Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống thể hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy nhiên cũng có sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình thức như truyền thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống. Với vị trí là nền công nghiệp thôn xã, từ xa xưa các nghề truyền thống ở Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Qua gần ba mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam chuyển dần sang cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các nghề truyền thống vùng này đã có nhiều biến động. Nhiều nghề mới, mặt hàng mới, làng nghề mới hình thành góp phần to lớn về kinh tế – xã hội ở nông thôn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp, nông thôn với những yếu tố tích cực và hạn chế. Hiện nay, khái niệm về nghề truyền thống, làng nghề truyền thống còn có những ý kiến khác nhau. Có người coi nghề truyền thống là nghề cổ truyền, có người căn cứ vào thời gian tồn tại, số hộ theo nghề và thu nhập từ nghề so với tổng thu nhập trong làng xã nhưng cũng có người lại quan niệm ngành nghề truyền thống là ngành nghề nông thôn đã được tồn tại trong một số năm nhất định… Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì: “Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền” [6, tr.2]. Theo định nghĩa này thì một nghề được xếp vào các nghề thủ công truyền thống cần hội đủ các yếu tố sau:
  16. 15 Một là, đã hình thành và phát triển lâu đời Hai là, sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề Ba là, có nhiều thế hệ nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề Bốn là, kỹ thuật và công nghệ khá ổn định Năm là, sử dụng nguyên liệu trong nước Sáu là, sản phẩm tiêu biểu và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất lượng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá của dân tộc, mang bản sắc văn hoá Việt Nam, với những giá trị văn hoá phi vật thể rất cao. Làng nghề truyền thống Khái niệm làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai khái niệm nghề truyền thống và làng nghề được trình bày ở trên. Như vậy làng nghề truyền thống là làng nghề có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, sản phẩm có tính truyền thống, có uy tín trên thị trường, có giá trị kinh tế và văn hoá cao. Nói cách khác, làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm; những nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là qua nhiều thế hệ; cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với những tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó; sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường. 1.1.2. Vai trò của làng nghề Làng nghề có ý nghĩa và tác dụng nhiều mặt trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của cư dân nông thôn, trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đồng thời có ý nghĩa to lớn về bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc.
  17. 16 Thứ nhất, là giải quyết việc làm và giảm tình trạng thiếu việc làm, nâng cao điều kiện sống ở nông thôn Trước hết là giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động trong làng nghề. Trên thực tế, làm nông nghiệp luôn là một nghề vất vả, nhiều khó khăn gian khổ trong khi nguồn thu nhập lại thấp và bấp bênh do đặc trưng của nghề làm nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thời tiết, khí hậu. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp còn có đặc trưng là mang tính thời vụ cao, vì thế có những khi người nông dân làm việc mệt nhọc từ sáng đến tối quần quật cho kịp mùa vụ, nhất là vào vụ mùa hè thu, ngoài thu hoạch ra còn có vụ gieo cấy…nhưng lại có những khi nông nhàn, hầu như không có nhiều việc làm. Chính vì vậy, việc phát triển làng nghề sẽ góp phần giải quyết được thời gian nông nhàn đó cho đội ngũ lao động. Ngoài ra, hiện nay một số địa phương diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, các làng quê phải tìm kiếm nghề mới để có thể qua đó tăng thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Do đó, các làng nghề mới được hình thành và phát triển, người dân ở đó tập trung vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm từ làng nghề để cải thiện đời sống. Thứ hai, là góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn Vấn đề giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn luôn được xã hội quan tâm. Thông qua việc xem xét mức thu nhập bình quân đầu người từ làng nghề có thể so sánh với mức thu nhập ở thành thị, từ đó có thể đánh giá được khoảng cách thu nhập giữa thành thị và khu vực nông thôn. Do hầu hết làng nghề ở Việt Nam đều nằm ở nông thôn, mặt khác ở nông thôn nếu làm ở làng nghề thì thông thường sẽ có nguồn thu nhập bình quân cao hơn so với sản xuất nông nghiệp thuần túy. Chính vì vậy mà thông qua phát triển làng nghề cũng có thể góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giảm khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, cùng với đó làng nghề
  18. 17 phát triển sẽ góp phần làm giảm dòng lao động di cư tự do từ nông thôn ra các đô thị đây là một vấn đề mang tính quy luật của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường. Thứ ba, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta từ nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang cơ cấu mới: tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lên dần, nhất là tỷ trọng của khu vực dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng của nông nghiệp giảm dần. Trong nội bộ kinh tế nông thôn cũng vậy, tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên, tỷ trọng của nông nghiệp sẽ giảm xuống. Phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề chính là con đường chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó, chuyển từ lao động nông nghiệp năng suất thấp, thu nhập thấp sang lao động ngành nghề có năng suất và chất lượng cao với thu nhập cao hơn. Mục tiêu nâng cao đời sống của cư dân nông thôn một cách toàn diện cả về kinh tế và văn hóa cũng chỉ có thể đạt được nếu trong nông thôn, có cơ cấu hợp lý của nông thôn mới, có nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ vận động và phát triển tốt với hệ thống làng nghề tiếp nối truyền thống văn hóa làng nghề với chuỗi đô thị nhỏ văn minh, lành mạnh. Thứ tư, là góp phần giữ gìn phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của địa phương Phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của địa phương là yếu tố quan trọng. Ngoài việc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh nó còn ảnh hưởng đến tiêu dùng và đời sống của dân cư ở nông thôn. Do đó nhân tố này vừa tác động tích cực lại vừa tác động tiêu cực đến sự phát triển làng nghề. Về mặt tích cực, yếu tố truyền thống sẽ có tác dụng góp phần bảo tồn những nét đặc trưng văn hóa riêng có của làng nghề, của dân tộc, làm cho sản phẩm của làng nghề có tính độc đáo và giá trị cao hơn. Đó là đối với các làng nghề truyền thống, bởi vì ở những làng nghề này bao giờ cũng có những người thợ có trình độ tay nghề cao, có trình độ kinh nghiệm sản xuất, có tâm
  19. 18 huyết với nghề, và họ cũng chính là người gánh trách nhiệm duy trì, phát triển những bí quyết riêng của làng nghề, và cứ thế, các bí quyết riêng đó sẽ được truyền từ đời này qua đời khác, qua các thế hệ. Họ chính là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển bền vững làng nghề trước mọi biến cố và duy trì những nét độc đáo truyền thống của làng nghề. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì ngoài việc truyền kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác cũng cần phải biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đó là những công nghệ hiện đại. Khi đó lại cần phải có đội ngũ những người năng động, sáng tạo để có thể đưa hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ được. Trong điều kiện đó, một số yếu tố truyền thống, phong tục tập quán lại cản trở sự phát triển của làng nghề theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, còn có những quy định, quy tắc khắt khe, hạn chế trong nghề, tục lệ làng quê đã trở thành rào cản đến việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Chính vì vậy, sự phát triển bền vững của làng nghề góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. 1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề 1.2.1. Quan niệm về phát triển và phát triển làng nghề Phát triển Phát triển là khái niệm dùng để khái quát những vận động theo chiều hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Trong kinh tế, phát triển bao hàm nghĩa rộng hơn, bao gồm nhiều khía cạch khác nhau. Sư tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự đô thị hoá, sự tham gia của một quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi
  20. 19 nói trên là một nội dung của sự phát triển. Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là sự tăng trưởng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng, vật chất, giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ môi trường. Phát triển làng nghề Phát triển làng nghề là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả cao trong các làng nghề, gắn liền với việc khai thác hợp lý, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống cũng như đảm bảo những đòi hỏi về ổn định, nâng cao đời sống, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn có làng nghề. 1.2.2. Nội dung phát triển làng nghề Nội dung cơ bản của phát triển làng nghề là sự tăng lên về số lượng làng nghề về quy mô làng nghề, đa dạng sản phẩm làng nghề, chất lượng phát triển của làng nghề. - Phát triển làng nghề theo hướng mở rộng về quy mô, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề Phát triển làng nghề trước hết là sự gia tăng về số lượng, quy mô làng nghề, số người tham gia vào sản xuất, chế biến sản phẩm của nghề truyền thống và nghề mới phát triển và đảm bảo được hiệu quả sản xuất, chế biến. Sự tăng lên về số lượng làng nghề, quy mô của người tham gia vào sản xuất, chế biến các sản phẩm thuộc nghề truyền thống có nghĩa là số lượng ngày được tăng lên cả về số lượng, quy mô sản xuất của các hộ trong làng nghề. Trong đó những nghề cũ được khôi phục, củng cố, phát triển nghề mới được hình thành và phát triển cả về số lượng và chất lượng, từ đó giá trị sản lượng sản phẩm làng nghề không ngừng được nâng lên, sự phát triển của một làng nghề phải đảm bảo hiệu quả cả về mặt kinh tế - xã hội – môi trường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2