intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

37
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tổng quan về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng những ưu, khuyết điểm và kinh nghiệm thành công, hạn chế của tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hơn 10 năm qua, nhất là trong 5 năm gần đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta

  1. MỤC LỤC Trang Mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp chế về cổ 6 phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 1.1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 6 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần 11 hoá doanh nghiệp nhà nước. 1.3. Các quy định của Nhà nước về cổ phần hoá doanh 16 nghiệp nhà nước. Chương 2: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà 29 nước ở nước ta 2.1. Những thành tựu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 29 ở nước ta. 2.2. Những hạn chế trong tiến trình cổ phần hoá doanh 44 nghiệp nhà nước. Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu 57 để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới 3.1. Phương hướng đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp 57 nhà nước 3.2. Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh cổ phần hoá 60 doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới ở Việt Nam. Kết luận 81 Danh mục tài liệu tham khảo 84 Các công trình của tác giả đã công bố 90
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong sự nghiệp đổi mới, về lĩnh vực kinh tế Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định, trong các thành phần kinh tế cùng kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau, thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian qua, kinh tế nhà nước đã phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chủ đạo của mình trong toàn bộ nền kinh tế, thực sự trở thành lực lượng vật chất quan trọng, công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng nắm giữ nhiều vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp. Trong các thành tựu khả quan chung mà nền kinh tế đất nước đạt được qua 3 năm gần đây như: khắc phục được tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng; đạt mức tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm..., có phần đóng góp quan trọng của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên kinh tế nhà nước cũng còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như: hiệu quả đầu tư có xu hướng giảm sút đáng kể; tình trạng tham nhũng và làm thất thoát, lãng phí vốn đầu tư kéo dài, chưa phát huy tốt nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước; có xu hướng bao cấp trở lại và bảo trợ dưới nhiều hình thức cho doanh nghiệp nhà nước; nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn 1
  3. thua lỗ kéo dài, làm hạn chế vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trở thành gánh nặng cho ngân sách... Đường lối đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được đề ra từ Đại hội lần thứ VI của Đảng, được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa qua các kỳ Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII và IX. Trong toàn bộ tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, có 4 nội dung cơ bản được tập trung chỉ đạo là: đổi mới cơ chế, chính sách; sắp xếp doanh nghiệp nhà nước; tổ chức lại tổng công ty; thực hiện thuê, khoán, bán, giải thể đối với những doanh nghiệp yếu kém kéo dài, và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước rất quan trọng, được Đảng ta lần đầu tiên đề ra ngay từ cuối những năm 80 thế kỷ trước, được nêu rõ hơn tại Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khoá VII). Trong Nghị quyết Hội nghị này có viết: chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Đặc biệt, các Hội nghị Trung ương lần thứ 3 và lần thứ 9 (khoá IX) tiếp tục khẳng định: phải đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn; xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; kiên quyết đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty kinh doanh có hiệu quả. Sau hơn 10 năm thực hiện, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều mặt vướng mắc và hạn chế cần phải giải quyết. Do đó “Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta” được chọn làm đề tài luận văn này. 2
  4. 2. Tình hình nghiên cứu Vì đây là một vấn đề thời sự nên cho đến nay đã có rất nhiều công trình đề cập đến vấn đề này. Cụ thể: Hoàng Mạnh Tường, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, trường Đại học KHXH&NV, 1998; Lê Trung Tuyến, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - lý luận và thực tiễn, trường Đại học KHXH&NV, 1998; Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Báo cáo sơ kết 7 tháng đầu năm và chương trình công tác 5 tháng cuối năm 2003. Tuy nhiên, những công trình trên thường đi vào lý luận cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chủ trương, chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hoặc về quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Có rất ít công trình tổng kết thành tựu, hạn chế và nguyên nhân vì sao cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm. Luận văn này kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây, nhưng sẽ đi sâu vào phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích Tổng quan về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng những ưu, khuyết điểm và kinh nghiệm thành công, hạn chế của tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hơn 10 năm qua, nhất là trong 5 năm gần đây. * Nhiệm vụ - Chú ý nêu những khó khăn, trở ngại và nguyên nhân cơ bản của tình trạng yếu kém trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. - Từ thực tiễn cổ phần hoá của các bộ, ngành, địa phương doanh nghiệp, đề xuất những kiến nghị, giải pháp đồng bộ, khả thi và hiệu quả về 3
  5. mọi mặt cơ chế, chính sách, luật pháp, tổ chức, tư tưởng, nhận thức... để đẩy mạnh tiến trình này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu bao gồm cả những vấn đề lý luận và thực tiễn ở tầm vĩ mô đối với cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhưng đề tài sẽ tập trung chủ yếu vào việc phân tích nguyên nhân của những thành tựu và những hạn chế của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta thời gian qua và đề xuất giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Ở đây, các vấn đề được xem xét chủ yếu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp logic-lịch sử, phân tích tổng hợp và thống kê. Trong phần khảo sát, nghiên cứu thực tế, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực chứng, qui nạp. 6. Những đóng góp của luận văn - Đã điểm lại tiến trình hoàn thiện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và việc thể chế hoá chủ trương này thành các quy phạm pháp luật ngày càng đầy đủ, đồng bộ phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta. - Đã điểm lại tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từ năm 1992 đến năm 2005, nêu lên những thành tựu chủ yếu, những mặt hạn chế; chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và những hạn chế đó. 4
  6. - Đề xuất những phương hướng chính và những giải pháp khả thi để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương, bảy tiết; các tài liệu tham khảo; các công trình của tác giả đã công bố và các văn bản pháp luật có liên quan tới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. 5
  7. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP CHẾ VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở NƢỚC TA 1.1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc 1.1.1. Công ty cổ phần và vai trò của nó trong lịch sử Sự phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và các quan hệ tín dụng đã đưa tới sự xuất hiện công ty cổ phần vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX đã được phát triển rộng rãi theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ lĩnh vực này đến lĩnh vực khác; từ một ngành đến nhiều ngành; từ quốc gia đến quốc tế thông qua các công ty đa quốc gia. Công ty cổ phần là một xí nghiệp mà vốn của nó được hình thành dưới hình thức bán cổ phiếu. Người chủ sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có cổ phần bằng tổng số cổ phiếu đã mua và được hưởng lợi tức từ các cổ phiếu đó (hay là cổ tức). Cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, số tiền ghi trên cổ phiếu là mệnh giá hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu. Lợi tức cổ phiếu không cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Giá trị thị trường của cổ phiếu lên xuống tuỳ theo cổ tức và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức ngân hàng. Thị trường chứng khoán là nơi mua, bán chứng khoán có giá. Nếu giá trị danh nghĩa của một cổ phiếu là 100 Bảng Anh và cổ tức là 10% thì với một tỷ suất lợi tức ngân hàng là 5%, giá trị thị trường của cổ phiếu sẽ tăng lên thành 200 Bảng Anh, đại biểu cho tư bản giả là 200 Bảng Anh. Nếu cổ tức giảm xuống tình hình sẽ ngược lại. Giá trị thị trường của cổ phiếu một phần là giá trị đầu cơ và quyết định giá trị thị trường đó là số thu nhập (cổ tức) mà người ta mong đợi, dự đoán trước chứ không phải là cổ tức thực [34, tr 18]. 6
  8. Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội các cổ đông là cơ quan tối cao bầu ra hội đồng quản trị và quyết định phương hướng kinh doanh cùng những vấn đề quan trọng khác trong hoạt động của công ty. Phiếu biểu quyết trong đại hội cổ đông được quy định theo số lượng cổ phiếu. Vào những năm đầu thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp phải xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng như: giao thông, điện lực, khai thác mỏ… cần rất nhiều vốn vì thế mà công ty cổ phần phát triển rất nhanh. Nhờ sự ra đời của các công ty cổ phần mà vốn được tập trung nhanh chóng và xuất hiện những công ty lớn… Cần phân biệt cổ phần hoá với tư nhân hoá. Doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần thì đó là quá trình xã hội hoá chứ không phải là quá trình tư nhân hoá. Cổ phiếu tức là giấy chứng nhận góp vốn vẫn thuộc quyền sở hữu của cổ đông, còn tài sản thực tế đã được xã hội hoá. Trong trường hợp công ty phát hành thêm trái phiếu để huy động vốn thì người có trái phiếu công ty chỉ là chủ nợ của công ty, chứ không phải là người đồng sở hữu công ty. Ví dụ, ngành đường sắt bán cổ phiếu, thì người mua (cổ đông) chỉ có thể quyết định số phận của những tờ cổ phiếu đó, họ không thể thu hồi lại phần đường sắt (giá trị thực) làm của riêng. Trong trường hợp họ bán số cổ phiếu của họ thì chỉ là chuyển quyền sở hữu cổ phiếu mà thôi. Dĩ nhiên, những người nắm đa số cổ phiếu có thể được quyền tham gia Hội đồng quản trị, lãnh đạo công ty, nhưng, như C. Mác đã nhận xét: "Trong các công ty cổ phần, chức năng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách 7
  9. là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp" [35, 668]. C. Mác coi sự xuất hiện công ty cổ phần là tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành những chức năng xã hội, đây chính là hình thức quá độ sang một phương thức sản xuất mới. 1.1.2. Vì sao cần cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được tiến hành ở nhiều nước, do những nguyên nhân chủ yếu sau đây: 1.1.2.1. Nâng cao hiệu quả kinh doanh Đầu thế kỷ XX, cùng với các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và sự xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất đã xuất hiện những doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là công cụ cho nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động kém hiệu quả. Ví dụ: ở Italia, nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước trong nền kinh tế cao nhất thì thâm hụt của các doanh nghiệp nhà nước là 4,5% GDP. Ở Bồ Đào Nha, khu vực kinh tế quốc doanh thua lỗ 1/3 GDP trong khoảng thời gian từ 1974 - 1986 [41]. Các nước tư bản khác cũng đều có hiện tượng tương tự. Vì vậy, từ cuối thế kỷ XX, hầu hết các nước tư bản đều diễn ra quá trình cổ phần hoá hoặc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước trên qui mô lớn với cách thức tiến hành khác nhau. Cách thức phổ biến nhất là bán đấu giá các cổ phiếu của các doanh nghiệp cho tất cả những ai muốn mua thông qua sở giao dịch chứng khoán. Hoặc có thể bán một phần cho cá nhân, hoặc chỉ bán cho những người làm trong doanh nghiệp đó. 8
  10. Ở nước Anh đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ Bảng Anh. Ở Pháp trong thời gian hơn một năm đã thực hiện 1/3 chương trình tư nhân hoá thu được 7 tỷ Frăng. Tây Đức trong những năm 1984 - 1987 đã thực hiện bán hoàn toàn hay một phần cổ phần khống chế của nhà nước trong hơn 50 công ty với tổng giá trị thu được trên 5 tỷ D.M [49] 1.1.2.2. Đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở trong đó các quan hệ kinh tế đối nội, kinh tế đối ngoại không ngừng phát triển. Sự vận động của cơ chế thị trường thông qua các quy luật kinh tế, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp có tính năng động và tính tự chủ rất cao. Trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh không thể nắm chắc quan hệ cung - cầu và các mối quan hệ ở tầm vĩ mô của nền kinh tế, nên cần phải có sự điều tiết của Nhà nước. Nhưng sự can thiệp thái quá của Nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp lại dẫn đến sự trì trệ. Bởi vậy, xuất hiện xu hướng nới lỏng sự điều tiết của Nhà nước, theo phương châm: "Nhà nước ít hơn, thị trường nhiều hơn". Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp để tăng tính năng động, kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ của doanh nghiệp. Ở những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây thường phát triển tràn lan các doanh nghiệp nhà nước, không tính đến hiệu quả kinh tế, khi chuyển sang kinh tế thị trường, việc cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn trở thành cấp thiết. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc và từ 1975 ở miền Nam, phần nhiều do ý chí chủ quan của các cơ quan Nhà nước chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp ấy. 9
  11. Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp tích cực, những thành tựu to lớn của các doanh nghiệp nhà nước trong những năm kháng chiến, nhưng trong thời kỳ hoà bình xây dựng, nhất là khi chuyển sang kinh tế thị trường thì những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà nước càng ngày càng tăng lên, nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản. Do vậy, việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước là vấn đề rất lớn mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, trong đó có việc cổ phần hoá một số lớn doanh nghiệp nhà nước. 1.1.2.3. Huy động vốn từ các thành phần kinh tế Vốn là một vấn đề rất hệ trọng đối với hoạt động của một doanh nghiệp. Phần lớn doanh nghiệp nhà nước dựa vào ngân sách và ngân hàng để có vốn, nhưng nguồn vốn từ ngân sách ở nước ta có hạn, nhiều doanh nghiệp nhà nước nợ ngân hàng chưa trả được nên khó vay thêm, bởi vậy, việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần sẽ mở rộng thu hút nguồn vốn trong xã hội, tăng khả năng đầu tư trang thiết bị mới cho doanh nghiệp. 1.1.2.4. Tăng cường quản lý dân chủ Cổ phần hóa tức là chuyển sang một hình thức quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò chi phối của nhà nước, có sự tham gia của các thành phần khác. Trên thế giới hiện nay có 2 loại hình cổ phần hóa. Một là, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Hai là doanh nghiệp tư nhân cổ phần hóa. Và với hình thức công ty cổ phần đó, tính dân chủ trong kinh doanh, trong doanh nghiệp được tăng lên. Người công nhân cũng tham gia mua cổ phiếu nên quyền và ý thức làm chủ của công nhân cũng được tăng lên. Tăng quyền làm chủ của người lao động, xã hội hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh… chính là hướng đi tất yếu lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, Nhà nước có thể rút bớt một phần vốn do bán bớt cổ phần của Nhà nước để đầu tư chiều sâu, cho những doanh nghiệp mà Nhà nước tiếp tục nắm 100% vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh. 10
  12. 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc Từ "cổ phần" đã rất quen thuộc với nhân dân ta từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân dân góp cổ phần vào hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng,… Hợp tác xã cung ứng hàng tiêu dùng và dịch vụ cho xã viên, tiêu thụ hàng hóa cho xã viên, chia lãi theo cổ phần (dù rằng rất nhỏ). Nhưng trước khi đổi mới, trong nhận thức và hành động Đảng ta đã không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đề cao quá mức vai trò quan trọng của kinh tế quốc doanh, coi đó là hình mẫu cao của kinh tế xã hội chủ nghĩa, dẫn đến xu hướng quốc doanh hoá tràn lan nhằm đảm bảo vai trò độc tôn của quốc doanh. Từ khi đổi mới các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, cơ cấu lại theo hướng chỉ tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng ta đã chủ trương phát triển nhất quán kinh tế nhiều thành phần, coi đó là đặc trưng của thời kỳ quá độ, đa dạng hoá hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn đặt vấn đề "làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác" [32, tr 59], "chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện được tính ưu việt" [32, tr 61]. Đại hội VII (năm 1991) nhận định kinh tế quốc doanh đang nắm các vị trí then chốt, gần một phần ba các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế mới. Nhưng điểm yếu nhất của kinh tế quốc doanh là hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp [32, tr 235]. Đại hội đề ra nhiệm vụ khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, 11
  13. nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Cho thuê và chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên [32, tr 274]. Như vậy, Đại hội VII vẫn chưa đề xuất vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một cách cụ thể. Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VII (11-1991), Đảng ta đã đi đến nhất quán chủ trương: "Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp". Cũng trong thời gian đó, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 (12-1991) đã đưa việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 1991- 1995: "thí điểm việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển". Như vậy, mục tiêu, đối tượng, hình thức và các chính sách cổ phần hoá đã được xác định rõ ràng hơn. Đảng và Nhà nước khẳng định cổ phần hoá ở Việt Nam không phải là tư nhân hóa vì cổ phần hoá hướng tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Vốn thu được từ bán cổ phần, Nhà nước không được chi dùng cho ngân sách mà để đầu tư tiếp vào nền kinh tế. Nói cách khác, thời gian này cổ phần hoá nặng về mục tiêu thu hút vốn và chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước hơn là thu hẹp sở hữu nhà nước. Tuy nhiên đối tượng cổ phần hoá trong giai đoạn này vẫn còn khá hẹp, chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và Nhà nước không cần thiết giữ 100% vốn. Đối tượng mua cổ phiếu chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, có cho phép cổ đông trong nước ngoài doanh nghiệp nhưng mức độ 12
  14. khuyến khích chưa cao. Nguyên tắc định giá doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao vốn. Người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá được mua cổ phiếu chậm trả 12 tháng. Tiến trình cổ phần hoá tập trung giao cho Bộ Tài chính, doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa được hưởng ưu đãi đáng kể. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu rõ hơn các hình thức cổ phần hóa phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả thì sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. Việc bán cổ phiếu đã tiến thêm một bước, thí điểm việc bán một phần cổ phiếu của một số doanh nghiệp nhà nước cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp. Trên cơ sở cổ phần hóa, tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nước, sở hữu của công nhân doanh nghiệp và các chủ sở hữu khác. Định thể chế và tiêu chuẩn để Hội đồng quản trị tuyển chọn giám đốc điều hành. Hoàn thiện và áp dụng rộng rãi các hình thức khoán trong doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích và thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty theo hướng tổ chức các tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính, trung gian. Xoá bỏ dần (có qua làm thí điểm) chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt xí nghiệp trung ương và xí nghiệp địa phương [32, tr 416]. Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta nhận thức lại không phải kinh tế quốc doanh mà là kinh tế nhà nước (trong đó các doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) mới đóng vai trò chủ đạo. Đại hội đặt ra chủ trương "triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm 13
  15. cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối" [32, tr 479]. Việc huy động vốn được thực hiện bằng cách "gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tùy từng trường hợp cụ thể và vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh" [32, tr 479]. Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tháng 6 năm 1997 đã xác định lại cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là chủ trương rất quan trọng. Song, cổ phần hoá hay xã hội hóa không đồng nghĩa với phi nhà nước hóa và càng không phải tư hữu hóa. Phương châm cơ bản ở đây vẫn là Nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong đó Nhà nước có vai trò nòng cốt, thực hiện quản lý nhà nước, tổ chức cho nhân dân và trong điều kiện cụ thể tham gia cùng làm với dân; không làm thay dân, cũng không khoán trắng. Đại hội IX (năm 2001) đã đề ra mục tiêu trong 5 năm (2001 - 2005) phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Việc bán cổ phần cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp được mở rộng. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [32, tr 722]. 14
  16. Trong chương trình cụ thể hóa về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Đảng chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Ba khoá IX đã nêu lên những định hướng quan trọng và chỉ ra những lĩnh vực mà Nhà nước vẫn giữ 100% vốn, những lĩnh vực mà Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn, quy định chi tiết đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và đối với doanh nghiệp hoạt động công ích [37]. Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa. Về chỉ đạo, Trung ương đã quyết định đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả một số công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... Giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Diện các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá mở rộng hơn và thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu và chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng và một số doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà 15
  17. chưa cổ phần hoá được. Chuyển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần. [29, tr 110]. Như vậy, hơn 10 năm qua, quan điểm của Đảng ta về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tình hình thực tiễn ở nước ta. 1.3. Các quy định của Nhà nƣớc về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc. Những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được thể chế hoá thành các qui phạm pháp luật và thực thi từng bước Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng về một số chính sách đổi mới cơ chế hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh, ý tưởng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được đưa ra. Quyết định nêu rõ: "Cần thí điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và giao cho Bộ Tài chính chủ trì". Tuy nhiên do quan điểm về cổ phần hoá lúc này chưa định hình rõ ràng nên ý tưởng của những người đề ra chính sách mới chỉ dừng ở mức tạo ra một cơ chế để doanh nghiệp nhà nước huy động vốn là chính. Do đó, trong chỉ đạo thiên về hướng cho phép doanh nghiệp nhà nước phát hành thêm cổ phiếu hoặc khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước hùn vốn cổ phần để hình thành công ty cổ phần mới. Tư tưởng chung ở giai đoạn này là sở hữu nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo ngay trong các công ty cổ phần. Ngày 10/5/1990 Chính phủ ra Quyết định số 143/HĐBT, chủ trương nghiên cứu và làm thử mô hình chuyển xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần, quy định phạm vi thí điểm cổ phần hoá giới hạn trong các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ đáp ứng được điều kiện làm ăn có lãi, đã hạch toán, 16
  18. người lao động nhất trí và có khả năng mua cổ phiếu. Với Quyết định số 143/HĐBT, trình tự, cách thức tiến hành cổ phần hoá đã bước đầu được quy định. Mặc dù vậy trong 2 năm tiếp theo 1991 - 1992 chưa có doanh nghiệp nhà nước nào đăng ký cổ phần hoá. Thực tế khó khăn này buộc Đảng và Nhà nước phải chỉ đạo sát sao hơn nữa. Cũng trong thời gian đó Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 ngày 26/12/1991 đã đưa cổ phần hoá vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 1995: "thí điểm việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển". Cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nêu rõ quy trình cổ phần hoá và các chính sách liên quan. Với các quy định trên: mục tiêu, bản chất đối tượng, hình thức và các chính sách cổ phần hoá đã được xác định rõ ràng hơn. Tuy nhiên đối tượng cổ phần hoá trong giai đoạn này vẫn còn khá hẹp, chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và Nhà nước không cần thiết giữ 100% vốn. Đối tượng mua chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, có cho phép cổ đông trong nước ngoài doanh nghiệp nhưng mức độ khuyến khích chưa cao. Nguyên tắc định giá doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao vốn theo Nghị định số 388/HĐBT. Quyết tâm thực thi cổ phần hoá trong thực tế, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ chỉ đạo tiến hành thí điểm cổ phần hoá và giao cho mỗi Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 - 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. Tiếp đó, để định hướng chỉ đạo cổ phần hoá gắn liền với sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 về việc xúc tiến 17
  19. thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ thị đã chỉ ra rằng: "Cổ phần hoá chưa kết hợp chặt chẽ với sắp xếp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp gặp khó khăn; trong khi sắp xếp, thiên về giải thể hơn là áp dụng hình thức đa sở hữu". Tháng 12 - 1993 Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4 ra Nghị quyết nêu rõ: "Đổi mới cơ bản về tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, thực hiện các hình thức cổ phần hoá thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả". Như vậy, ở giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã đi đến nhận thức và chủ trương coi cổ phần hoá là một giải pháp căn bản không những giúp doanh nghiệp nhà nước thu hút vốn mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả. Nhờ sự chỉ đạo kiên quyết của Đảng và Nhà nước, từ năm 1992 - 1996 cả nước đã cổ phần hoá thành công được 5 doanh nghiệp. Sau cổ phần hoá, cả 5 doanh nghiệp này đều hoạt động tốt, các chỉ tiêu về vốn, doanh thu, lợi nhuận và công ăn việc làm đều rất khả quan. Đây là thành công bước đầu khẳng định niềm tin cổ phần hoá là đúng đắn và cổ vũ Đảng, Nhà nước ta bước vào giai đoạn cổ phần hoá mở rộng một cách tự tin hơn. Tổng kết kinh nghiệm trong giai đoạn thí điểm, tháng 5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Với Nghị định này, lần đầu tiên Nhà nước đã đưa ra được một quy trình và hệ chính sách cổ phần hoá đồng bộ về các mặt: Mở rộng diện cổ phần hoá ra tất cả các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, quy mô vừa và nhỏ; mở rộng thêm hình thức cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp; mở rộng quyền quyết định cổ phần hoá cho bộ và địa phương (doanh nghiệp dưới 3 tỷ đồng); thực thi chính sách ưu đãi cho không cổ phiếu đối với 18
  20. người lao động trong doanh nghiệp đi cùng chế độ vay trả chậm để mua cổ phiếu; giảm thuế cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá trong 2 năm và miễn phí chuyển tài sản, được vay vốn như doanh nghiệp nhà nước... Dưới tác động của các chính sách ưu đãi mới và chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, cổ phần hoá giai đoạn này có bước tiến nhanh hơn. Trong thời gian từ tháng 5/1996 đến tháng 7/1998 nước ta đã cổ phần hoá thêm được 25 doanh nghiệp nhà nước. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách tương đối đồng bộ về các chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Nghị định này được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997. Để nhấn mạnh hơn nữa nhiệm vụ tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong đó có cổ phần hoá, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 20/TTg ngày 21/4/1998 yêu cầu các Bộ và địa phương phải tiến hành quy hoạch tổng thể, phân định rõ các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá. Đồng thời Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 44/1995/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định số 28/CP không còn phù hợp với thực tiễn cổ phần hoá giai đoạn mới. Điểm mới căn bản của Nghị định số 44/CP là đối tượng cổ phần hoá đã được xác định cụ thể hơn trong danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước; nhờ vậy số lượng doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá đã mở rộng nhiều so với Nghị định số 28/CP; quy trình cổ phần hoá cũng rõ ràng và đơn giản hơn; chính sách ưu đãi cho người lao động và doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều hơn, dễ thực hiện hơn, phù hợp với thông lệ của kinh tế thị trường hơn; quyền quyết định cổ phần hoá của bộ, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, tổng công ty 91 được mở rộng hơn. Chẳng hạn Nhà nước bán cổ phiếu cho người lao động theo giá ưu đãi giảm 30% để cổ phiếu đó trở thành cổ phiếu phổ thông lưu hành được trên thị trường chứng khoán nhằm khuyến khích người lao động mua cổ phiếu; hoặc chế độ tự chủ của doanh nghiệp khi 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2